Bởi
Ben Wheatly , Trường lịch sử , Đại học East Anglia , Norwich , UK.
8/2/2021.
Tóm lược
Ba đội hình đặc biệt của SS - Leibstandarte , Das Reich và Totenkopf đóng vai trò quan trọng trong trận Kursk (5.7 - 23.8.1943) , đầu tiên là trong chiến dịch Zitadelle (5-16.7.1943) và sau đó (ngoại trừ Leibstandarte) khi phòng ngự gần Kharkov (3-23.8.1943). Kể từ khi vừa tìm thấy giấy tờ gần đây trong kho lưu trữ (Tình trạng thiết giáp vào ngày 20.7.1943 và 1.8.1943) , bài viết này có thể đưa ra con số chính xác về thiệt hại của Quân đoàn thiết giáp SS II trong chiến dịch Zitadelle , bao gồm trận đấu tăng tàn khốc tại Prokhorovka (12.7.43). Bài viết này cũng sẽ đưa ra số lượng thực tế về số lượng các loại thiết giáp trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu của Quân đoàn thiết giáp SS II trước , trong và sau chiến dịch Zitadelle . Tổng hợp toàn bộ các thông tin này sẽ giúp chúng ta đánh giá kỹ lưỡng chiến lược của AH trước trận chiến phòng ngự tại Kharkov , bao gồm quyết định triển khai Quân đoàn SS II đến mặt trận sông Mius (30.7-2.8.43)
Mở đầu
Vào mùa hè năm 1943 cuộc chiến tại mặt trận phía đông đã từ lâu trở thành một thất bại đối với Đức . Sự vượt trội của Hồng quân về người và vật chất đồng nghĩa với việc chiến thắng là không thể đạt được bởi Đức . Quân đội Đức đã bị bào mòn trong các năm 1941-1943 khi Hồng quân là lực lượng duy nhất có khả năng ngăn chặn Wehrmacht . Tuy nhiên để có thể đánh bại hoàn toàn Wehrmacht thì vẫn phải đánh thêm nhiều trận nữa . Trận Kursk được xem là trận to nhất trong số những trận ấy . Trận đánh bao gồm chiến dịch Zitadelle của Đức (một đòn tấn công gọng kìm nhằm vào vòng cung Kursk - bài viết này sẽ tập trung vào gọng kìm phía nam) , và hai chiến dịch phản công của Hồng quân (nhằm vào Orel và Kharkov) . Trận đánh chứng kiến hai phe triển khai hơn 4 triệu quân , 69 000 pháo , 13 000 thiết giáp và pháo tự hành và khoảng 12 000 máy bay . Sự tàn khốc của trận chiến được thể hiện bởi việc Hồng quân đã mất ít nhất 6064 thiết giáp [1] . Rõ ràng Liên Xô đóng góp nhiều nhất trong chiến thắng chung của Đồng Minh trong Thế chiến II. Vâng , yếu tố kinh tế và ảnh hưởng trên không , dưới biển của các đồng minh phương Tây cần phải được tính tới , nhưng cho tới lúc đồng minh phương Tây bắt đầu đổ bộ vào Normandy vào mùa hè năm 1944 thì Wehrmacht chỉ còn là cái bóng của chính mình . Nguyên nhân dẫn đến việc này là bởi thiệt hại khủng khiếp mà Wehrmacht đã phải chịu đựng suốt nhiều năm ở phía đông [2] . Không thể chối cãi rằng Hồng quân dù thiệt hại khủng khiếp nhưng đã thắng trận Kursk [3] . Tuy nhiên ở trận đánh với quy mô và mức độ như trận Kursk thì một vài hạn chế đã xảy ra đối với Hồng quân là không thể tránh khỏi được . Chiến thắng cuối cùng của LX tại Kursk không thể che giấu được việc quân Đức đã khiến Hồng quân thiệt hại khủng khiếp .
Lần đầu tiên , bởi gần đây chúng ta vừa tìm thấy giấy tờ trong kho tư liệu nên bài viết này mới có thể công bố con số chính xác về thiệt hại về các loại AFV (bao gồm thiết giáp , pháo xung kích và pháo tự hành diệt thiết) của Quân đoàn thiết giáp SS II. trong chiến dịch Zitadelle (5-16.7.1943) . Bởi vì chỉ có các đơn vị của Quân đoàn thiết giáp SS II. chiến đấu ở Prokhorovka vào ngày 12.7.43 nên tài liệu này sẽ có ảnh hưởng rất lớn đối với công việc đính chính lịch sử về trận chiến ấy . Bài viết này sẽ cho thấy từ tháng 7 năm 1943 , thay vì bị tiêu diệt thì Quân đoàn thiết giáp SS II. hầu như không chịu thiệt hại đáng kể nào sau chiến dịch Zitadelle và , nếu không phải do sai lầm chiến lược và chiến dịch của AH, thì có lẽ đã đóng vai trò quan trọng (ít nhất là trong giai đoạn đầu) trong quá trình phòng ngự Kharkov khoảng 1 tháng sau đó .
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong bài viết này và các bài luận trước của tác giả có thể được gọi là ''nghiên cứu sâu'' (tra cứu toàn bộ dữ liệu có được ở nhiều kho tài liệu theo thứ tự thời gian). Phương pháp nghiên cứu tỉ mỉ hàng đống dữ liệu từ cấp đại đội đến cấp cụm tập đoàn quân trong một thời kì nhất định giúp nâng tầm hiểu biết hơn trong phạm vi chiến dịch và chiến lược của cuộc chiến . Ví dụ như , phương pháp này đã giúp tác giả khám phá được sức mạnh chính xác của Quân đoàn thiết giáp SS II. ngay sau chiến dịch Zitadelle và trận Prokhorovka về số lượng thiết giáp trong kho cũng như mức độ sẵn sàng chiến đấu . Chỉ khi thông tin này được biết thì hậu quả về quyết định của AH sau trận Prokhorovka mới được rõ ràng . Nhiều nhà sử học khác có thể làm việc hiệu quả hơn bằng phương pháp này . Mặc dù phương pháp này rất tốn thời gian nhưng kết quả chắc chắn là rất xứng đáng .
Bằng phương pháp này , người đọc sẽ hiểu sâu hơn về trận Prokhorovka và loại bỏ những truyền thuyết và nghiên cứu sai trong quá khứ . Các nhà sử học Liên Xô và phương Tây trong suốt nhiều năm đã đưa ra con số thiệt hại của Quân đoàn thiết giáp SS II. về AFV giao động từ 76.6% (400 AFV) và 57.5% (300 AFV) bị tiêu diệt trong trận đánh . Thậm chí gần đây vào năm 2020 thì ở Nga cũng có các báo cáo đưa ra số liệu về thiệt hại của Quân đoàn thiết giáp SS II. gồm 75% số lượng AFV bị tiêu diệt [5]. Tuy nhiên bởi vì tác giả vừa tìm được giấy tờ của Quân đoàn thiết giáp SS II. sau chiến dịch Zitadelle về tình trạng thiết giáp (20.7.43 - trước đó ai cũng nghĩ rằng văn bản này đã bị mất), bài viết này sẽ chứng minh rằng trên thực tế thì con số tối đa là 3.1% (16 AFV - bao gồm 2 chiếc buộc phải gửi về nhà máy để sửa chữa) AFV của Quân đoàn thiết giáp SS II. đã bị tiêu diệt trong giai đoạn 11-20.7.1943 , nghĩa là bao gồm cả trận Prokhorovka (12.7.43.) . Từ đó thì có thể xác định được Quân đoàn thiết giáp SS II. chỉ mất khoảng 7.5% (41 AFV) số lượng các loại AFV trước chiến dịch Zitadelle . Ngoài ra , thì rõ ràng rằng trận Prokhorovka không hề có ảnh hưởng lâu dài đến mức độ sẵn sàng chiến đấu của lực lượng thiết giáp Đức . Vào rạng sáng 11.7.43. (1 ngày trước trận đánh) Quân đoàn thiết giáp SS II. sở hữu 339 AFV trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu trong khi vào tối ngày 18.7.43 thì quân đoàn có tới 350 AFV trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu . Nghĩa là sức mạnh chiến đấu của quân đoàn thậm chí còn tăng thêm 11 AFV sau giai đoạn ngắn này (khoảng 4 thiết giáp mới đã được giao cho quân đoàn trong giai đoạn 5-18.7.43) . [6]
Tuy nhiên , khi đọc bài luận này thì ta cũng không được quên rằng Sư đoàn thiết lựu SS Leibstandarte SS AH (LSSAH) , Das Reich (DR) và Totenkopf (SS-T) - thành phần của Quân đoàn thiết giáp SS II. thuộc một tổ chức bán quân sự chiến đấu vì và là một phần của chính quyền cực đoan tàn ác dựa trên tư tưởng phân biệt chủng tộc một cách không dung thứ, hận thù và chủ nghĩa bành trướng .
Ba sư đoàn của Quân đoàn thiết giáp SS II. cùng với Sư đoàn thiết lựu ,,Großdeutschland'' của lục quân (do được biên chế mở rộng hơn so với bảng biên chế tiêu chuẩn) đều là các Sonderverbände (đội hình đặc biệt) . Do đó các đội hình này đóng vai trò quan trọng trong trận chiến tại Kursk vào tháng 7 và tháng 8 năm 1943 [7] . Vào tháng 7 năm 1943 thì các sư đoàn thuộc Quân đoàn thiết giáp SS II. đang ở đỉnh cao về chất lượng nhân lực , về kinh nghiệm chiến thuật , về khí tài và mức độ sẵn sàng chiến đấu so với Hồng quân [8] . Mặc dù vào cuối tháng 8 năm 1943 thì Waffen SS khi dần nhận được thiết giáp Panther thì chất lượng nhân lực và ưu thế chiến thuật đã dần bị hòa tan dần , số lượng AFV sẵn sàng chiến đấu giảm xuống và vấn đề tiếp tế bắt đầu xuất hiện . Vào mùa hè năm 1943 , Hồng quân dù vượt trội về số lượng thiết giáp , nhưng phần lớn vẫn là loại T-34 với pháo 76mm - khó có thể đọ được pháo 75mm nòng dài được lắp trên Pz.IV. bản mới nhất . Số lượng lớn loại này được biên chế cho Quân đoàn thiết giáp SS II. vào đầu tháng 7 (168 chiếc , chỉ 8 chiếc trong số đó là bản hỗ trợ bộ binh cũ) . Thiết giáp Tiger dù chỉ có số lượng ít ỏi (42 chiếc) nhưng có sức càn lướt rất tốt trên chiến trường . Loại Pz.III. với pháo 50mm nòng dài lỗi thời vẫn được dùng bởi quân đoàn (138 chiếc - chủ yếu bởi sư đoàn DR và sư đoàn SS-T) vẫn là mối nguy cơ đối với Hồng quân nếu được vận hành bởi kíp lái kinh nghiệm . [9]
Chiến thuật vượt trội (thường là về độ linh hoạt) , về chỉ huy liên lạc (toàn bộ thiết giáp Đức đều được trang bị radio 2 chiều , trong khi chỉ có thiết giáp đại đội trưởng của Hồng quân mới được trang bị loại này) , tháp pháo 3 người (so với 2 người trên T-34/76) , kính ngắm chất lượng cao và vũ khí chính xác cao càng khiến thử thách dành cho các lính tăng Hồng quân càng khó khăn hơn vào mùa hè năm 1943 [10] . Toàn bộ những yếu tố này góp phần vào việc giải thích nguyên nhân vì sao thiệt hại về AFV của các sư đoàn SS lại thấp một cách vô lí như vậy , khi so với thiệt hại của các đơn vị thiết giáp Hồng quân vào tháng 7 và tháng 8 năm 1943 . Ngộ nghĩnh là việc người Đức không thể sửa chữa được số lượng lớn thiết giáp bị hỏng cũng dẫn đến việc mức độ thiệt hại hoàn toàn về AFV của Đức (Totalausfälle) - bởi có xe nào trên chiến trường để bị bắn đâu ! [11] .
Hai bài luận trước của tác giả tập trung chủ yếu về trận Prokhorovka vào ngày 12.7.1943 và ảnh hưởng hạn chế của trận chiến này đối với Quân đoàn thiết giáp SS II. về tình trạng thiết giáp và thậm chí là mức độ sẵn sàng chiến đấu (xem quá trình chuẩn bị cho chiến dịch Roland bên dưới và mức độ sẵn sàng chiến đấu của các loại AFV trong bảng 6). Bài luận đầu tiên ''Nhận xét trực quan chiến trường trận Prokhorovka'' đã mô tả trực quan trận chiến bằng cách đưa ra các bức không ảnh của Luftwaffe được chụp vào tháng 7 và tháng 8 năm 1943 (bao gồm hướng sự chú ý đến đoạn hào chống tăng trong các bức ảnh) ; nói cách khác thì bài luận khám phá mức độ ảnh hưởng ngay sau trận chiến . Bài viết thứ hai ''Sống sót qua Prokhorovka : độ thọ của thiết giáp Đức ở mặt trận phía đông 1943-1944'' chỉ ra rằng phần lớn các loại thiết giáp của LSSAH và DR đã sống sót qua trận chiến và nhiều chiếc trong số đó vẫn sống thọ tới tận mùa đông 1943/1944 [13] . Bài luận do đó bàn về ảnh hưởng về lâu dài của trận Prokhorovka . Về DR thì kết luận này được đưa ra nhờ đối chiếu số sê ri khung gầm của thiết giáp (bao gồm 52 chiếc từng qua tay của LSSAH , nhận vào ngày 28.743 - 51 trong số đó từng ở Prokhorovka ) trước và sau trận đánh (từ tháng 10.1943) trong báo cáo thường niên vào mỗi tháng của sư đoàn . Sau chiến dịch Zitadelle thì LSSAH không tham chiến cho tới tháng 11.1943 . Cho nên có thể kết luận rằng toàn bộ số thiết giáp còn lại của LSSAH sau chiến dịch là hàng từ Prokhorovka . Ngoài ra dù SS-T hầu như không tham gia trận Prokhorovka , nhưng báo cáo hậu Zitadelle của sư đoàn được đưa ra vào đúng hôm 28.7.43 khi sư đoàn nhận 42 thiết giáp cũ từng qua tay LSSAH (38 trong số đó là hàng từ Prokhorovka) [14] .
Trong bài luận thứ hai thì tác giả cũng chỉ ra một vài vấn đề liên quan đến thiệt hại hoàn toàn của LSSAH trong trận Prokhorovka . Ví dụ như có thể là 3 chứ không phải 4 Pz.IV. thuộc nhóm loại khỏi biên chế (một chiếc Pz.IV. khác của LSSAH đã được phân lại vào nhóm 3a. sau đó để gửi về nhà máy sửa chữa) [15] . Ngoài ra cũng cho thấy rằng khả năng một chiếc Tiger của LSSAH đã bị loại khỏi vòng chiến (bởi vì chiếc này hoạt động rất gần vị trí của SS-T) nên cuối cùng không bị xếp vào nhóm loại khỏi biên chế [16] . Bài luận này sẽ đưa ra các dẫn chứng hỗ trợ khác về số phận của chiếc Tiger này . Ngoài ra thì ta cũng sẽ biết được số lượng T-34 chiến lợi phẩm của DR bị mất trong chiến dịch Zitadelle - bao gồm khả năng có 1 chiếc bị mất trong trận Prokhorovka . Cuối cùng là đưa ra một bức tranh chính xác về tổng thiệt hại tại Prokhorovka . Bài luận này nên được xem là phần kết của hai bài trước của tác giả .
Báo cáo cuối tuần của Tập đoàn quân 6 về tình trạng thiết giáp và pháo xung kích 1.8.1943
Trước đó thì hầu như chả có dẫn chứng nào xác nhận về số lượng thiệt hại hoàn toàn (nhóm 3.a & 3.b) của Quân đoàn thiết giáp SS II. trong chiến dịch Zitadelle , mặc dù chấp nhận rằng có rất ít báo cáo về thiệt hại vào tháng 7 năm 1943 [17] . Một trong những bản báo cáo thiệt hại đến từ một nguồn rất uy tín - kỹ sư trưởng Quân đoàn thiết giáp SS II. . Báo cáo mô tả thiệt hại của quân đoàn trong giai đoạn 5-18.7.43. [18] . Báo cáo này liệt kê một là thuộc nhóm thiệt hại hoàn toàn (3.b) , hai là đem về nhà máy sửa chữa (3.a hoặc một cách không chính thức khi liệt vào nhóm 2.c - nghĩa là được phép để lại trong kho của sư đoàn). Như tác giả biết thì tài liệu này xuất hiện lần đầu trong một cuốn sử viết về trận Kursk vào năm 2017 [19] . Bởi chỉ kỹ sư trưởng mới có quyền quyết định để loại biên một chiếc thiết giáp nên tầm quan trọng của tài liệu này là rất rõ ràng .
Tuy nhiên , bởi vì (có vẻ như) không có giấy tờ nào của các đội hình SS về báo cáo mười ngày hoặc báo cáo cuối tháng trong giai đoạn 11-20.7.43 hoặc 21.7 - 1.8.43 mô tả giai đoạn sau của chiến dịch Zitadelle (11-16.7.43 , bao gồm trận Prokhorovka vào ngày 12.7.43) và các chiến dịch phòng ngự (trong giai đoạn 17-20.7.43 , HQ Quân đoàn thiết giáp SS II. , LSSAH và DR rút lui khỏi mặt trận vào ngày 17 trong khi SS-T chỉ rút lui vào đêm 20) và giai đoạn trước khi Quân đoàn thiết giáp SS II. trở lại chiến đấu vào ngày 30.7.43 (21-30.7.43) nên chúng ta chưa thể đưa ra kết luận rằng báo cáo thiệt hại của kỹ sư trưởng là hoàn toàn chính xác , một phần là về thiệt hại của SS-T [20] . Báo cáo của kỹ sư dù gần như hoàn thiện nhưng lại thiếu dẫn chứng xác nhận từ giai đoạn nửa cuối tháng 7 nên chưa thể kết luận được .
Quan trọng nhất là điều này giờ đây chúng ta đã có thể được xác định được nơi lưu trữ bản báo cáo cuối tuần về tình hình thiết giáp và pháo xung kích của Tập đoàn quân 6 vào ngày 1.8.43 - mô tả giai đoạn 21.7 - 1.8.43. Tài liệu này đưa ra số lượng các loại thiết giáp và pháo xung kích sẵn sàng chiến đấu , sửa chữa ngắn hạn (dưới 14 ngày) và sửa chữa dài hạn (trên 14 ngày) theo từng loại trong kho khí tài của Tập đoàn quân 6 tại mặt trận sông Mius [21] . Quan trọng là bởi vì tài liệu này có bao gồm cả Sư đoàn thiết lựu SS Das Reich và Totenkopf , vào vài ngày trước đó đã được chuyển sang cho Tập đoàn quân 6 [22] . Tài liệu này cho thấy Das Reich có 172 thiết giáp trong kho vào ngày 1.8.43 và SS-T có 159 chiếc [23] . Nếu chúng ta bao gồm cả pháo xung kích và pháo tự hành diệt thiết mà DR cùng SS-T có vào ngày hôm đó thì tổng số lượng AFV là : DR 216 chiếc , SS-T 202 chiếc [24] .
![]() |
Báo cáo của kỹ sư Quân đoàn thiết giáp SS II. vào ngày 28.7.1943 |
![]() |
Báo cáo cuối tuần của Tập đoàn quân 6 vào ngày 1.8.1943 |
Ngoài ra , tài liệu này cũng cho ta biết kho thiết giáp của DR và SS-T trong báo cáo mười ngày vào hôm 20.7.43 ; báo cáo này mô tả giai đoạn 11-20.7.43 . Vào ngày 20.7.43 thì DR có 130 thiết giáp trong kho , trong khi SS-T có 132 thiết giáp [25] . Nếu bao gồm cả pháo xung kích và pháo tự hành diệt thiết thì con số này lần lượt là DR 174 chiếc , SS-T 175-177 chiếc [26]. Bản báo cáo tình trạng AFV vào ngày 20.7.43 là chìa khóa quan trọng để có thể xác định được thiệt hại của Quân đoàn thiết giáp SS II. trong chiến dịch Zitadelle và trận Prokhorovka , được chiến đấu vào ngày 12.7.43 bởi các đơn vị của quân đoàn (chủ yếu là bởi LSSAH và DR) . Bằng cách so sánh kho thiết giáp của các đơn vị này trước chiến dịch Zitadelle vào ngày 4.7.43 và vào các ngày 10.7.43 , 20.7.43 , 1.8.43 chúng ta có thể tìm ra số lượng thiệt hại về AFV của Quân đoàn thiết giáp SS II. trong chiến dịch Zitadelle [27] . Công dụng chính của bản báo cáo tình trạng ngày 1.8.43 là giúp chúng ta xác định được chính xác tình trạng của từng loại thiết giáp vào ngày 20.7.43 . Do đó bài luận mới này sẽ giải thích về ảnh hưởng ngắn hạn của chiến dịch Zitadelle và trận Prokhorovka đối với các sư đoàn của Quân đoàn thiết giáp SS II. (Xem bảng 1 tới bảng 8)
Việc phải giải quyết số lượng lớn các loại thiết giáp như vậy dẫn đến việc rất khó có thể xác định 100% rằng các con số này có hoàn toàn chính xác hay không , bởi một vài chiếc vẫn có thể được tái phân loại . Tuy nhiên bản báo cáo cuối tuần của Tập đoàn quân 6 giúp chúng ta xác định cực kỳ gần đúng số lượng thiết giáp của Quân đoàn thiết giáp SS II. đã mất trong chiến dịch Zitadelle và trận Prokhorovka .
Vào ngày mà bản báo cáo này được viết thì DR và SS-T đang thực hiện một đòn phản công được tung ra từ ngày 31.7.1943 nhằm tiêu diệt đầu cầu sông Mius của Hồng quân tại Dmitrievka [36] . Đầu cầu này được hình thành sau chiến dịch tấn công nghi binh được thực hiện vào ngày 17.7.1943 . Chiến dịch này đã thành công trong việc nhử các đội hình thiết giáp mạnh nhất của Đức từ khu vực Kharkov trước khi họ tung ra chiến dịch tấn công nhằm vào đó (Chiến dịch Polkovodets Rumyantsev) vào ngày 3.8.1943 . Chiến lược này đã thành công khi Quân đoàn thiết giáp SS II. (giờ đây có cả Sư đoàn thiết giáp 3 để thay thế cho LSSAH) hành quân đến mặt trận sông Mius .
Chỉ riêng bản báo cáo cuối tuần là đủ dể ta xác định được số lượng AFV chính xác trong kho của DR và SS-T ngay sau chiến dịch Zitadelle (5-16.7.43) và ba ngày sau đó (17.7-20.7.43) [38] . Từ các nguồn khác ta biết được rằng số lượng AFV mới được nhận bởi Quân đoàn thiết giáp SS II. giữa chiến dịch Zitadelle và cuối tháng 7. Như vậy chúng ta có thể kết hợp với dữ liệu của báo cáo cuối tuần để phản ánh chính xác số lượng thiết giáp trong kho của các sư đoàn SS sau chiến dịch Zitadelle . Chỉ có 5 Tiger mới được giao cho LSSAH vào ngày 25.7.43 (vào ngày 28.7.43 thì một chiếc trong số đó được nhường lại cho DR , 4 chiếc còn lại thì nhường cho SS-T) và 4 pháo tự hành diệt thiết được giao vào ngày 10.7.43 . Do 4 pháo này chỉ bắt đầu khởi hành từ Đức vào ngày 6.7.43 nên khó có khả năng rằng chúng kịp đến tay của LSSAH để tham gia trận Prokhorovka 6 ngày sau đó .
Bởi báo cáo cuối tuần 1.8.43 thực chất là một bản báo cáo mười ngày về tình trạng của các đơn vị thiết giáp thuộc Tập đoàn quân 6 nên báo cáo này cũng bao gồm nguồn gốc và số lượng các AFV được nhận bởi từng đơn vị trong giai đoạn 21.7 - 1.8.43 (tương tự như các báo cáo tình trạng mười ngày của sư đoàn) . Bản báo cáo cuối tuần do đó một lần nữa khẳng định vào ngày 28.7.43 LSSAH đã chuyển phần lớn số thiết giáp của mình cho DR (4 Pz III , 39 Pz IV , 9 Tiger ) và SS-T (4 Pz III , 30 Pz IV , 8 Tiger) [43] . Ngoài ra ta cũng có các tài liệu khác chỉ ra rằng LSSAH đã chuyển thêm 3 Pz III cho HQ Quân đoàn thiết giáp SS II. và chỉ giữ lại 2 Pz I , 4 Pz II , 1 Pz III và 5 Pz IV cùng toàn bộ StuG và pháo tự hành diệt thiết khi bắt đầu được vận chuyển đến Ý vào ngày 29.7.43 [44] . Cả DR lẫn SS-T đều không nhận được AFV mới vào tháng 7.43 . [45] . Như vậy cộng thêm các loại khí tài được chuyển từ LSSAH sang cho DR và SS-T thì : vào ngày 29.7.43 DR có 182 thiết giáp còn SS-T có 174 thiết giáp [46] . Nếu ta bao gồm cả pháo xung kích và pháo tự hành diệt thiết thì còn số này lần lượt là 226 AFV và 217-219 AFV .
Thiệt hại thiết giáp , pháo xung kích và pháo tự hành diệt thiết
Theo danh sách của bản báo cáo cuối tuần thì thiệt hại trong giai đoạn 21.7.43 - 1.8.43 theo từng đơn vị , theo từng loại thiết bị chỉ ra cường độ chiến đấu tại trận chiến tại mặt trận sông Mius và cụ thể là trận chiến giành giật đồi 213.9 , sau cùng rơi vào tay SS vào ngày 1.8.43 sau khi chiến đấu suốt 3 ngày [48] . Việc bổ sung thiệt hại hoàn toàn giúp chúng ta có thể cộng thêm những thiệt hại này vào các kho thiết giáp của DR và SS-T vào ngày 1.8.43, từ đó thiết lập số liệu cho kho thiết giáp của cả hai sư đoàn vào ngày 29.7.43, một ngày trước khi bắt đầu cuộc phản công tại mặt trận sông Mius vào ngày 30.7.43. Nếu chúng ta trừ đi những bổ sung gần đây của LSSAH vào DR và SS-T, chúng ta sẽ có số liệu kho thiết giáp cuối cùng của DR và SS-T sau khi được triển khai ở khu vực Belgorod/Prokhorovka (Chiến dịch Zitadelle và hậu chiến dịch – DR từ 5–17.7.43 và SS-T từ 5–20.7.1943). Điều quan trọng là các số liệu này trùng khớp với số lượng AFV mà báo cáo cuối tuần ghi nhận có trong kho thiết giáp của DR và SS-T vào ngày 20.7.43, lần lượt là 130 và 132 AFV. Rõ ràng, điều này càng củng cố các số liệu kho thiết giáp của DR và SS-T vào ngày 20.7.43. Khi so sánh thông tin trong báo cáo cuối tuần với số liệu kho thiết giáp của ba sư đoàn SS và báo cáo của kỹ sư Quân đoàn thiết giáp SS II từ ngày 1–2.7.43, trước Chiến dịch Zitadelle và báo cáo về thiệt hại của Quân đoàn tại khu vực Belgorod từ ngày 5–18.7.1943 (được cập nhật với thông tin nhận được cho đến ngày 22.7.43), có thể thấy kết quả đối với SS-T thì thông tin này rất hữu ích [49] .
Nếu chúng ta trừ đi số lượng thiết giáp của LSSAH vào ngày 4.7.43 (118 thiết giáp – không bao gồm thiết giáp nhẹ) theo báo cáo thiệt hại của kỹ sư Quân đoàn thiết giáp SS II (1 Pz III, 9 Pz IV (2 trong số đó bảo trì tại nhà máy), 1 Tiger (bảo trì tại nhà máy), 118–11 = 107), số thiết giáp nhường lại cho HQ Quân đoàn thiết giáp SS II (3 Pz III, 107–3 = 104) và số còn lại được LSSAH giữ lại (1 Pz III, 5 Pz IV, 9 Bef, 104–15 = 89), chúng ta sẽ tính ra số lượng thiết giáp theo báo cáo cuối tuần cho biết LSSAH đã chuyển giao bao nhiêu cho DR và SS-T (8 Pz III, 69 Pz IV và 12 Tiger = 89, không bao gồm 5 Tiger mới mà LSSAH nhận vào ngày 25.7.43) [50]. Điều này chứng tỏ rằng báo cáo của kỹ sư Quân đoàn thiết giáp SS II đã đưa ra số liệu chính xác về thiệt hại của LSSAH trong giai đoạn từ 5.7 đến 18.7.43. Tuy nhiên, một số thiết giáp bị tiêu diệt sau cùng lại được thay thế trong hồ sơ bằng một thiết giáp cùng loại. Điều này có nghĩa là một thiết giáp khác bị đưa vào danh sách bị tiêu diệt (3.a hoặc 3.b), trong khi một thiết giáp ban đầu được có trong danh sách này nhưng vì lí do nào đó lại được đưa trở lại biên chế . Bài luận trước của tác giả đã chỉ ra rằng việc tái phân loại lại AFV là một điều diễn ra khá thường xuyên. Ví dụ, trong Chiến dịch Zitadelle điều này đã xảy ra đối với chiếc Pz III mang số khung gầm 77 604 của LSSAH, và cùng với một chiếc Tiger của LSSAH sau trận Prokhorovka [51].
Về pháo xung kích của LSSAH, báo cáo sư đoàn ngày 1.9.43 cho biết LSSAH vẫn còn 32 StuG, đúng với số lượng 3 khẩu pháo bị thiệt hại được báo cáo bởi kỹ sư Quân đoàn thiết giáp SS II. LSSAH bắt đầu Chiến dịch Zitadelle với 35 StuG [52] . Về các pháo tự hành diệt thiết, chúng ta biết từ báo cáo sức mạnh tác chiến hằng ngày vào 24.7.43 rằng LSSAH vẫn có tất cả 22 pháo tự hành diệt thiết hoạt động, bao gồm 4 pháo tự hành diệt thiết mới bổ sung. Điều này xác nhận rằng kỹ sư Quân đoàn thiết giáp SS II đã chính xác khi liệt kê 3 pháo tự hành diệt thiết là thiệt hại với 2 pháo tự hành diệt thiết là thiệt hại hoàn toàn (3.b) và 1 pháo tự hành diệt thiết cần đưa về hậu phương sửa chữa (3.a). LSSAH bắt đầu Chiến dịch Zitadelle với 21 pháo tự hành diệt thiết trong kho của mình [53].
Báo cáo cuối tuần của Tập đoàn quân 6 cho biết DR sở hữu trong kho vào ngày 20.7.43 130 thiết giáp, trong khi vào ngày 1.8.43 DR có 182 thiết giáp trong kho (sau khi bổ sung 10 thiệt hại được ghi nhận trong báo cáo cuối tuần; những thiệt hại này xảy ra từ ngày 30.7 đến 1.8.43 tại mặt trận sông Mius, 172 + 10 = 182). Con số này khớp với số lượng thiết giáp theo loại trong báo cáo cuối tuần của DR vào ngày 20.7.43 (130, cũng là số lượng cuối cùng của DR sau Chiến dịch Zitadelle) sau khi chúng ta loại bỏ 28 thiết giáp bổ sung của LSSAH vào ngày 28.7.43 khỏi con số trong báo cáo ngày 1.8.43 (182–52 = 130, 2 Pz III nòng dài đã được tính vào, có thể là do nhầm lẫn hoặc cố tình, cùng với Pz III chỉ huy của sư đoàn) [54]. Trong khi đó, nếu chúng ta trừ đi thiệt hại được báo cáo bởi kỹ sư Quân đoàn thiết giáp SS II và 3 chiếc T-34 bị mất (tổng cộng 12 chiếc bị mất) từ kho thiết giáp của DR trước Chiến dịch Zitadelle với 142 chiếc (142–12 = 130), kết quả là cũng tính ra số lượng thiết giáp trong báo cáo cuối tuần vào ngày 20.7.43 là 130 [55]. Những phép tính này xác nhận lẫn nhau về số lượng thiết giáp của DR (theo loại thiết giáp) trong báo cáo cuối tuần của Tập đoàn quân 6 và các thiệt hại được báo cáo bởi kỹ sư Quân đoàn thiết giáp SS II.
Bằng cách áp dụng công thức tương tự, chúng ta cũng có thể thấy rằng báo cáo cuối tuần và báo cáo của kỹ sư Quân đoàn thiết giáp SS II cũng khớp với số lượng pháo xung kích của DR vào ngày 20.7.43 và 1.8.43 (đều là 32). DR bắt đầu Chiến dịch Zitadelle với 34 StuG trong khi kỹ sư Quân đoàn thiết giáp SS II báo cáo có 2 khẩu pháo xung kích bị mất [56]. Mặc dù báo cáo cuối tuần không ghi lại số lượng pháo tự hành diệt thiết, nhưng chúng ta biết rằng báo cáo của kỹ sư Quân đoàn thiết giáp SS II cũng chính xác khi tuyên bố rằng DR không gặp phải thiệt hại nào về pháo tự hành diệt thiết trong Chiến dịch Zitadelle. Chúng ta biết điều này vì vào ngày 11.8.43, sư đoàn báo cáo rằng tất cả 12 pháo tự hành diệt thiết của họ vẫn hoạt động – không có pháo tự hành diệt thiết mới nào được cấp trước ngày này [57].
Do đó, chúng ta có thể tự tin rằng báo cáo thiệt hại của kỹ sư Quân đoàn thiết giáp SS II là chính xác về số lượng thiệt hại AFV của cả LSSAH và DR trong giai đoạn từ ngày 5 đến 18.7.43. LSSAH và DR cùng với HQ Quân đoàn thiết giáp SS II đã rút khỏi mặt trận vào ngày 17.7.43. Vì báo cáo của kỹ sư Quân đoàn thiết giáp SS II bao gồm việc phân loại lại AFV cho đến ngày 22.7.43 nên có đủ thời gian để viết lại báo cáo chính xác về hai sư đoàn này (mặc dù như đã đề cập trước đó tình trạng tái phân loại thiết giáp vẫn xảy ra trong báo cáo). Báo cáo cuối tuần cũng cung cấp báo cáo chính xác về số lượng T-34 bị mất của DR trong Chiến dịch Zitadelle. DR bắt đầu Chiến dịch Zitadelle với 24 chiếc T-34 trong kho. Việc sử dụng T-34 (chiếm được từ một nhà máy ở Kharkov) của DR là giải pháp tạm thời trước khi tiểu đoàn Panther của DR được giao đến mặt trận (Panther bắt đầu tham chiến ở phía tây Kharkov vào ngày 22 tháng 8 năm 1943). T-34 cũng được sử dụng tại mặt trận sông Mius. Chúng ta biết rằng DR đã mất 2 chiếc T-34 trước ngày 11.7.43 theo báo cáo tổng thiệt hại của DR và SS-T từ ngày 5 đến 10.7.43 . báo cáo thiệt hại của kỹ sư Quân đoàn thiết giáp SS II không ghi nhận thiệt hại T-34 của DR. Tuy nhiên, thực tế là báo cáo cuối tuần ngày 1.8.43 ghi nhận rằng DR có 21 chiếc T-34 trong kho, cho thấy thêm một chiếc T-34 đã bị mất trong giai đoạn từ ngày 11 đến 20.7.43 [58]. Các xe T-34 của DR đã trải qua một quá trình nâng cấp chỉnh sửa toàn diện trước Chiến dịch Zitadelle. Ví dụ như lắp đặt thêm một bộ radio hai chiều. Vì vậy, rất khó có thể nói rằng DR có đủ thời gian để nâng cấp thêm các T-34 mới để thay thế trong giai đoạn này, vì đại đội sửa chữa không có nhiều thời gian để làm công việc này vào lúc đó [59].
![]() |
Vị trí xảy ra các thiệt hại của DR trong giai đoạn 5-10.7.1943 |
Báo cáo cuối tuần của Tập đoàn quân 6 , khác với số liệu liên quan đến LSSAH và DR, thì phần số liệu liên quan đến SS-T trong báo cáo của ngày 20.7.43 và 1.8.43 (bao gồm cả thiệt hại tại mặt trận sông Mius từ ngày 30.7 đến 1.8.43) không khớp với báo cáo của kỹ sư Quân đoàn thiết giáp SS II sau khi đã trừ đi các thiệt hại từ báo cáo của kỹ sư này khỏi kho thiết giáp của SS-T trước Chiến dịch Zitadelle. Báo cáo cuối tuần của SS-T vào ngày 20.7.43 và 1.8.43 cho thấy rằng, khi so sánh với báo cáo tổng thiệt hại của SS-T từ ngày 5–10.7.43, SS-T thực sự không mất thiết giáp nào trong khoảng thời gian từ 11–20.7.43 [60].
Số lượng thiết giáp trong kho mà báo cáo cuối tuần của Tập đoàn quân 6 đưa ra cho SS-T vào ngày 1.8.43 là 174 (sau khi bổ sung 15 thiết giáp bị mất tại mặt trận sông Mius từ ngày 30.7–1.8.43, 159 + 15 = 174). Sau khi trừ đi 42 thiết giáp bổ sung của LSSAH khỏi con số này (174–42 = 132), chúng ta có số lượng thiết giáp trong báo cáo cuối tuần của SS-T vào ngày 20.7.43 là 132. Kỹ sư Quân đoàn thiết giáp SS II báo cáo rằng có tổng cộng 12 thiết giáp của SS-T bị mất trong gian đoạn từ 5–18.7.43, trong khi kho thiết giáp của SS-T trước Chiến dịch Zitadelle là 139. Tuy nhiên, khi chúng ta trừ đi 12 thiết giáp từ kho trước Chiến dịch Zitadelle với 139 chiếc (139–12 = 127), chúng ta có thể thấy số liệu này thiếu hụt 5 thiết giáp so với số lượng 132 được đưa ra trong báo cáo cuối tuần vào ngày 20.7.43. Cả báo cáo thiệt hại của DR và SS-T từ ngày 5–10.7.43 và báo cáo tình trạng của SS-T vào giai đoạn 1–10.7.43 đều xác nhận rằng SS-T đã mất 7 thiết giáp trong giai đoạn đầu của Chiến dịch Zitadelle, điều này có nghĩa là SS-T kết thúc ngày 10.7.43 với 132 thiết giáp trong kho , đó chính là con số được báo cáo trong báo cáo cuối tuần vào ngày 20.7.43 (Bảng 12) [61].
Báo cáo tình trạng của SS-T vào ngày 20.7.43 không thể là bản báo cáo muộn (hoặc sao chép) của bản báo cáo tình trạng SS-T trước đó vào ngày 10.7.43 vì rõ ràng rằng việc liệt kê thiết giáp trong báo cáo tình trạng ngày 1.8.43 sẽ cũng sẽ bị sai sót. Việc liệt kê thiết giáp vào ngày 1.8.43 thành các loại sẵn sàng chiến đấu , hư hỏng ngắn hạn, hư hỏng dài hạn, mới và mất đã được thực hiện một cách rất chi tiết. Nhưng thông tin này chỉ có thể được cung cấp vào hoặc sau ngày 1.8.43. Thực tế là báo cáo tình trạng thiết giáp của SS-T vào ngày 1.8.43 có thể được xác nhận chính xác bằng cách trở lại ngày 20.7.43 và loại bỏ các thiệt hại và bổ sung mới trong khoảng thời gian giữa hai ngày này . Điều đó chứng tỏ rằng số liệu trong báo cáo cuối tuần của SS-T vào ngày 20.7.43 là chính xác [63].
Việc số liệu báo cáo của LSSAH và DR trong báo cáo cuối tuần và báo cáo của kỹ sư Quân đoàn thiết giáp SS II trùng khớp với nhau giúp chúng ta chắc chắn rằng báo cáo cuối tuần là một tài liệu chính xác. Báo cáo tình trạng cuối tuần vào ngày 1.8.43 báo cáo rằng tổng số thiệt hại trong ba ngày đầu tiên (giai đoạn căng thẳng nhất) của trận chiến bốn ngày tại mặt trận sông Mius là như sau: đối với DRh, có 4 Pz III và 6 Pz IV bị mất. Số liệu Pz III của DR không rõ trong tài liệu gốc – nhưng điều này đã được xác nhận bằng cách trừ đi 6 Pz IV bị mất từ tổng số kho thiết giáp của DR vào ngày 29.7.43 là 182 (182–6 = 176), điều này có nghĩa là 4 Pz III cũng phải bị mất để khớp với số lượng thiết giáp trong kho (172 chiếc) của DR vào ngày 1.8.43. SS-T mất: 4 Pz III nòng dài, 9 Pz IV nòng dài và 2 Pz IV nòng ngắn. Như vậy trận chiến tại mặt trận sông Mius dù ngắn nhưng đã gây thiệt hại nặng cho cả hai sư đoàn SS [64]. Cường độ chiến đấu trong ngày đầu tiên của trận chiến tại đồi 213.9 được thể hiện bởi báo cáo thiệt hại của Quân đoàn thiết giáp SS II vào lúc 23:30 ngày 30.7.43, cho biết rằng DR có 25 thiết giáp bị hư hỏng hoặc bị phá hủy còn SS-T mất tới 48 thiết giáp (bao gồm 8 chiếc Tiger) và 12 pháo xung kích [65].
![]() |
Báo cáo của quân nhu trưởng Pz.AOK.4 về tình trạng thiết giáp của SS-T |
![]() |
SS-T tấn công lên đồi 213.9 vào ngày 30.7.1943 |
![]() |
SS-T tấn công lên đồi 213.9 vào ngày 31.7.1943 |
![]() |
SS-T chiếm đồi 213.9 vào ngày 1.8.1943 |
![]() |
SS-T tiến tới sông Mius vào ngày 2.8.1943 |
Với số lượng lớn thiệt hại AFV mà SS-T phải chịu từ ngày 30.7 đến 1.8.1943 và biết rằng SS-T không tham gia trận chiến lớn nào từ ngày 19 đến ngày 29.7.1943, ta có thể kết luận rằng toàn bộ thiệt hại của SS-T được báo cáo từ ngày 21.7 đến ngày 1.8.1943 đều xảy ra sau khi cuộc tấn công tại mặt trận sông Mius bắt đầu vào ngày 30.7.1943, chứ không phải là những thiệt hại bổ sung muộn từ chiến dịch Zitadelle. SS-T chịu thiệt hại nặng hơn DR trong cuộc tấn công này do phải thực hiện một cuộc tấn công trực diện lên đồi 213 , trong khi DR đánh vòng qua ngọn đồi từ phía nam nên tránh được khu vực phòng thủ kiên cố nhất trên đồi . [66].
Các dẫn chứng bổ sung
Chúng ta sẽ xem xét một số yếu tố để hiểu lý do tại sao có sự khác biệt giữa báo cáo thiệt hại của kỹ sư Quân đoàn thiết giáp SS II dành cho SS-T và các bản kiểm kê sau chiến dịch Zitadelle vào ngày 20.7.43 và 1.8.43 cho cùng sư đoàn, được đưa ra trong báo cáo cuối tuần của Tập đoàn quân số 6 [67].
Vào ngày 17.7.43, HQ Quân đoàn thiết giáp SS II (bao gồm cả kỹ sư quân đoàn)cùng LSSAH và DR tiến hành rút khỏi chiến tuyến . Đến ngày 18.7.43 , các đơn vị này bắt đầu di chuyển tới khu vực của Tập đoàn thiết giáp 1 để chuẩn bị đối phó với đầu cầu của Hồng Quân đang dần hình thành trên sông Donets. Kể từ ngày 18.7.43, SS-T không còn nằm dưới sự kiểm soát của Quân đoàn thiết giáp SS II , mà tiếp tục tham chiến cho đến ngày 20.7.43 dưới quyền chỉ huy của Quân đoàn thiết giáp XXXXVIII. Sau đó thì SS-T cũng được rút lui và bắt đầu hành quân xuống phía nam tới khu vực của Tập đoàn quân số 6 – nơi mà SS-T sẽ hội quân với Quân đoàn thiết giáp SS II trước cuộc tấn công tại mặt trận sông Mius.
Do đó suốt giai đoạn từ ngày 18.7.43 thì kỹ sư của Quân đoàn thiết giáp SS II không hề biết gì về tình trạng của SS-T . Điều này có thể đã ảnh hưởng đến khả năng trong việc thu thập thông tin chính xác về thiệt hại AFV của SS-T của kỹ sư Quân đoàn thiết giáp SS II.
Mặc dù kỹ sư Quân đoàn thiết giáp SS II đã cập nhận báo cáo của mình cho đến ngày 22.7.43, điều này khó có thể cải thiện được độ chính xác đối với SS-T, bởi vào thời điểm này cả ba sư đoàn và HQ Quân đoàn thiết giáp SS II đều đang trên đường vận chuyển, hoặc tới Tập đoàn thiết giáp 1 tại sông Donets (HQ, LSSAH và DR) , hoặc tới Tập đoàn quân số 6 tại sông Mius (SS-T) [68].
![]() |
Quân đoàn thiết giáp SS II. vào 14-18.7.1943 |
![]() |
Lịch trình hành quân vào ngày 18-22.7.1943 của Quân đoàn thiết giáp SS II. |
Ngày 18.7.43 là ngày cuối cùng mà trung đoàn thiết giáp của SS-T tham gia vào các hoạt động tác chiến cường độ cao . Vào ngày 19.7.43, SS-T có thể đã phải đối đầu với một cuộc tấn công nhỏ của 15 thiết giáp Liên Xô (8 trong số đó đã bị tiêu diệt), trong khi vào ngày 20.7.43, trung đoàn thiết giáp của SS-T không tham gia bất kỳ hoạt động chiến đấu nào trước khi rút khỏi khu vực của Tập đoàn thiết giáp 4 vào lúc 21:00 . Do đó, thiệt hại AFV của SS-T trong khoảng thời gian từ 19–20.7.43 là rất khó có thể xảy ra.
Vì SS-T đã tự lập các báo cáo tình trạng của mình nên sư đoàn có đủ thời gian để thu thập và báo cáo thông tin chính xác về thiệt hại AFV cho Quân đoàn thiết giáp XXXXVIII và Tập đoàn thiết giáp 4 trước khi bản báo cáo tình trạng ngày 20.7.43 được phát hành. Tuy nhiên, vào thời điểm này, chúng ta không thể chắc chắn về việc bộ phận nào đã đưa ra bản báo cáo tình trạng ngày 20.7.43. Như đã đề cập trước đó, SS-T đã rời khỏi khu vực của Quân đoàn thiết giáp XXXXVIII và Tập đoàn thiết giáp 4 vào tối ngày 20.7.43 để bắt đầu quá trình chuyển quân về phía nam tới mặt trận sông Mius. Do đó thật may khi báo cáo tình trạng ngày 20.7.43 của SS-T đã được bao gồm trong bản báo cáo cuối tuần của Tập đoàn quân 6 vào ngày 1.8.43 [69].
![]() |
Kế hoạch tấn công dự kiến vào ngày 24.7.1943 của LSSAH và DR tại khu vực của Pz.AOK.1 |
Vào ngày 24.7.43, AH đã hủy bỏ chiến dịch tại sông Donets của Tập đoàn thiết giáp 1 vào phút chót, khi LSSAH và DR đã có mặt tại khu vực tập trung để chuẩn bị tấn công. Cả hai sư đoàn này sau đó tiếp tục di chuyển về phía nam đến khu vực của Tập đoàn quân 6 và đến nơi vào ngày 25–26.7.43. Totenkopf do gặp phải vấn đề chậm trễ trong vận chuyển đã không đến được khu vực của Tập đoàn quân 6 cho đến ngày 26–27.7.43 . Do đó khoảng thời gian tách xa nhau giữa SS-T và kỹ sư Quân đoàn thiết giáp SS II kéo dài từ 18–26.7.43. Các chuyến vận chuyển diễn ra trong khoảng thời gian này hầu như không thể hỗ trợ HQ Quân đoàn thiết giáp SS II trong việc đánh giá tình trạng AFV của SS-T một cách hiệu quả. Bởi vì kỹ sư Quân đoàn thiết giáp SS II, do tách xa với SS-T, đã không có thông tin chính xác liên quan đến thiệt hại AFV của SS-T trong giai đoạn cuối của Chiến dịch Zitadelle [70] .
![]() |
Lịch trình hành quân vào ngày 24-29.7.1943 của Quân đoàn thiết giáp SS II. |
Báo cáo của kỹ sư Quân đoàn thiết giáp SS II ghi rõ rằng một số thiết giáp của SS-T (1 Pz III và 1 Pz IV) ban đầu được ghi nhận là thiệt hại hoàn toàn nhưng thực tế đã được thu hồi lại và sửa chữa. Điều này đã đặt ra tiền lệ cho các sai sót trong việc báo cáo thiệt hại AFV của SS-T ; có lẽ điều đáng chú ý là không có sai sót tương tự được báo cáo bởi kỹ sư về thiệt hại của LSSAH hay DR. Như bài luận trước của tác giả đã làm rõ, các báo cáo về phân loại thiệt hại/thiết giáp bị hư hỏng luôn luôn được cập nhật liên tục. Có rất nhiều ví dụ về một chiếc thiết giáp ban đầu được báo cáo là thiệt hại hoàn toàn (3b) sau đó được tái phân loại thành sửa chữa tại nhà máy (3a) hoặc thậm chí nhanh chóng quay trở lại biên chế . Cũng có những trường hợp mặc dù được liệt kê là thiệt hại hoàn toàn hoặc cần sửa chữa tại nhà máy nhưng vẫn nằm trong kho của sư đoàn. Do đó báo cáo thiệt hại chưa chắc đã chính xác 100%. Tuy nhiên, khó có khả năng sai sót tới tận 5 chiếc thiết giáp của SS-T mà đã được tái phân loại từ thiệt hại thành bị hư hỏng hoặc hoạt động trong khoảng thời gian này. Việc tái phân loại với từng chiếc đơn lẻ là điều phổ biến, nhưng việc tái phân loại số lượng lớn thiết giáp sau trận chiến thì xảy ra ít hơn. Cũng có thể là sau khi rút lui khỏi mặt trận vào ngày 17–18.7.43, kỹ sư Quân đoàn thiết giáp SS II vì không có báo cáo trực tiếp từ SS-T về thiệt hại AFV của SS-T nên buộc phải làm việc với thông tin lỗi thời hoặc sai lệch. [71]
Một bằng chứng khác cho thấy độ chính xác cao hơn của báo cáo cuối tuần so với báo cáo thiệt hại của kỹ sư Quân đoàn thiết giáp SS II (liên quan đến thiệt hại AFV của SS-T) là khi so sánh báo cáo thiệt hại tổng thể (số khung gầm) của DR và SS-T từ ngày 5–10.7.43 (do kỹ sư Quân đoàn thiết giáp SS II cung cấp cho Tập đoàn thiết giáp 4) với các thiệt hại của sư đoàn được báo cáo bởi Cụm tập đoàn quân ,,Nam'' cho Thanh tra thiết giáp binh . [72]
Về số lượng (một vài số khung gầm bị ghi sai) AFV được ghi nhận trong báo cáo thiệt hại hoàn toàn của DR và SS-T từ ngày 5–10.7.43 trong khoảng thời gian này thì số liệu của DR đa khớp với các nguồn đã biết, điều này có nghĩa là tài liệu này cũng có thể chính xác đối với SS-T. Do đó, chúng ta có thể nói một cách tự tin rằng SS-T đã mất 2 Pz III, 4 Pz IV và 1 Tiger từ ngày 5–10.7.43. Điều này có nghĩa là theo báo cáo cuối tuần của Tập đoàn quân 6, SS-T không mất thêm thiết giáp nào sau ngày 10.7.1943 trong Chiến dịch Zitadelle. Mặc cho báo cáo của kỹ sư Quân đoàn thiết giáp SS II ghi nhận việc mất thêm 3 chiếc Pz III và 2 chiếc Pz IV. [73]
Cũng có một số dẫn chứng khác cho thấy không có thiệt hại hoàn toàn nào của SS-T xảy ra sau ngày 10.7.1943 trong Chiến dịch Zitadelle. Thứ nhất, báo cáo thiệt hại của Cụm tập đoàn quân ,,Nam'' từ ngày 5–17.7.43 gửi cho Thanh tra thiết giáp binh chỉ liệt kê 2 Pz III là thiệt hại của SS-T trong suốt Chiến dịch Zitadelle. Thứ hai, mặc dù báo cáo thiệt hại của Cụm tập đoàn quân ,,Nam'' từ ngày 5–17.7.43 liệt kê 8 chiếc Pz IV bị mất, nhưng tất cả đều được ghi nhận trong bản báo cáo của Cụm tập đoàn quân ,,Nam'' từ ngày 5–10.7.43 (Bảng 13). Do đó, mặc dù số liệu thiệt hại trong báo cáo thiệt hại của Cụm tập đoàn quân ,,Nam'' từ ngày 5–10.7.43 có thể không khớp với báo cáo thiệt hại hoàn toàn của DR và SS-T (theo số khung gầm) từ ngày 5–10.7.43, rõ ràng là không có thiệt hại nào của SS-T xảy ra sau ngày 10.7.43 [74]. Do đó tất cả các thiệt hại của SS-T đều xảy ra trong khoảng thời gian từ 5–10.7.43. Chúng ta cũng biết rằng SS-T đã rút lui gọn gàng từ đầu cầu tại sông Psel vào đêm 17–18.7.43 ( sư đoàn thậm chí còn có đủ thời gian để tháo dỡ cầu phao của mình), vì vậy có thể một số thiết giáp bị kỹ sư Quân đoàn thiết giáp SS II liệt vào nhóm thiệt hại hoàn toàn ở bên kia sông Psel dù tất cả thực tế đã được thu hồi và vẫn nằm trong kho của SS-T sau ngày 20.7.43. [75]
Như vậy báo cáo của kỹ sư Quân đoàn thiết giáp SS II liên quan đến thiệt hại AFV của SS-T trong nửa sau của Chiến dịch Zitadelle (sau ngày 10.7.43) là không chính xác , điều này lại càng làm tăng khả năng rằng kỹ sư Quân đoàn thiết giáp SS II chưa ghi nhận một chiếc Tiger của LSSAH đã bị thiệt hại hoàn toàn sau trận Prokhorovka. Bởi chiếc Tiger ấy của LSSAH đã bị bắn hỏng sát khu vực của các đơn vị SS-T trong trận Prokhorovka vào ngày 12.7.43. Bất kỳ chiếc Tiger LSSAH nào bị bắn hỏng đều sẽ nằm gần khu vực của SS-T sau ngày 12.7.43 cho đến khi SS-T rút lui khỏi khu vực vào đêm 18/19.7.43. Chúng ta biết vị trí của 4 chiếc Tiger LSSAH hoạt động vào ngày 12.7.43 bởi chúng phải leo lên một đỉnh đồi để ngắm bắn xe tăng của Hồng quân gần Andreyevka – đây là cuộc giao tranh thứ hai trong ngày của những chiếc Tiger thuộc LSSAH. Như vậy Kỹ sư Quân đoàn thiết giáp SS II có lẽ đã thiếu rõ ràng về số phận cuối cùng của một chiếc Tiger "Prokhorovka" của LSSAH do nó nằm sát khu vực hoạt động của SS-T, giống như với các chiếc thiết giáp thuộc sở hữu của SS-T. Cũng rất có thể rằng chiếc Tiger LSSAH mà kỹ sư Quân đoàn thiết giáp SS II đã báo cáo là cần sửa chữa tại nhà máy (xem báo cáo trạng thái 10 ngày của LSSAH từ ngày 1–10.7.43 ) vẫn ở lại trong kho của LSSAH trái với quy định (trường hợp tương tự xảy ra với một chiếc Tiger của SS-T vào mùa xuân năm 1943) và đã được chuyển sang tay DR hoặc SS-T trong tình trạng cần được sửa chữa vào ngày 28.7.43. Vào ngày 28.7.43, DR nhận được 8 chiếc Tiger cũ của LSSAH (và 1 chiếc mới), trong khi SS-T nhận được 4 chiếc Tiger cũ của LSSAH (và 4 chiếc mới). [77]
Vấn đề các đơn vị từ chối bàn giao các thiết giáp bị hư hại nặng về nhà máy (vì sợ không được đền lại bằng thiết giáp mới) trở nên nghiêm trọng đến mức cuối cùng OKH phải ra lệnh yêu cầu rằng các thiết giáp gửi về sửa chữa tại nhà máy vẫn là tài sản của sư đoàn ban đầu . Vào ngày 21.10.43, OKH/GenStdH/GenQu/Abt.III đã ra quy định : "Các phương tiện bọc thép gửi về nước để sửa chữa sẽ vẫn là tài sản của đơn vị lục quân đã gửi và sẽ được trả lại sau khi sửa chữa xong." [78] Như chúng ta đã thấy qua ví dụ của SS-T vào mùa xuân năm 1943 (ít nhất là đối với các chiếc Tiger của SS).
Báo cáo của kỹ sư Quân đoàn thiết giáp SS II cũng cho biết rằng SS-T đã mất 2 Sf Pak . Chúng ta vẫn chưa thể xác nhận liệu hai chiếc Sf Pak này có bị mất trong phần cuối của Chiến dịch Zitadelle (11–18.7.43) hay sau đó trên mặt trận sông Mius. Tuy nhiên, một báo cáo thiếu hụt trang thiết bị sau chiến dịch sông Mius, trong đó chỉ ra SS-T thiếu bao nhiêu thiết bị theo biên chế tiêu chế tiểu chuẩn cho biết sư đoàn này thiếu 1 Sf Pak. Con số theo biên chế tiêu chuẩn là 10 Sf Pak, như vậy SS-T đã kết thúc trận chiến tại sông Mius với 9 Sf Pak (SS-T bắt đầu Chiến dịch Zitadelle với 11 Sf Pak). Một trong số 9 Sf Pak đang sửa chữa dài hạn. Chúng ta biết điều này vì báo cáo của sư đoàn và bảng biên chế ngày 1.8.43 cho thấy chỉ có 8 Sf Pak có sẵn cho sư đoàn (trong trường hợp này là sẵn sàng chiến đấu hoặc đang sửa chữa dưới 3 tuần – bảng biên chế không liệt kê số lượng thiết giáp trong kho của SS-T). Báo cáo của kỹ sư Quân đoàn thiết giáp SS II đã đúng khi chỉ ra rằng SS-T đã mất 1 chiếc StuG trong khoảng thời gian này (ghi nhận vào ngày 5–10.7.43), số liệu này trùng khớp với báo cáo cuối tuần 1.8.43.
Các báo cáo hàng ngày của sư đoàn trong chiến dịch sông Mius cho thấy SS-T chỉ có rất ít Pz III hoạt động. Vào ngày 1.8.43, con số này chỉ đạt 5 chiếc, trong khi cùng ngày, báo cáo cuối tuần liệt kê có 40 Pz III đang hoạt động (mặc dù bị ghi nhầm thành Pz III pháo nòng ngắn 7.5cm – SS-T chỉ sở hữu Pz III pháo nòng dài 5cm). Lý do có sự chênh lệch lớn về số lượng Pz III hoạt động trong các báo cáo có thể là vì chỉ một phần trong số đó được đưa vào khu vực chiến đấu. Báo cáo hàng ngày của sư đoàn ngày 28.7.43 cho biết SS-T có 52 Pz III nòng dài hoạt động, trong khi số lượng Pz III các loại khác trong báo cáo cuối tuần tương đối khớp với các báo cáo hàng ngày của sư đoàn vào ngày 1.8.43. Do không có thêm kíp lái mới đi cùng với việc chuyển giao xe tăng của LSSAH cho DR và SS-T vào ngày 28.7.43. Nên khả năng là phần lớn lớn các kíp lái Pz III của SS-T đã được chuyển sang dùng Pz IV nòng dài mạnh hơn, với số lượng 30 chiếc được chuyển giao từ LSSAH. Bằng chứng rằng SS-T thực sự có số lượng Pz III hoạt động lớn hơn so với số đã được đưa ra trong chiến dịch sông Mius có thể được tìm thấy trong một báo cáo hàng tháng của Thanh tra thiết giáp binh , được đưa ra vào ngày 1.8.43. Báo cáo này cho biết SS-T có 49 chiếc Pz III hoạt động (bao gồm cả xe chỉ huy). Tuy nhiên, báo cáo này không bao gồm các phương tiện thiết giáp đang sửa chữa dài hạn trên 3 tuần. Có một số lỗi sai trong số liệu trình bày trong báo cáo của Thanh tra thiết giáp binh – ví dụ, báo cáo này liệt kê SS-T có 49 StuG đang hoạt động và 21 chiếc StuG đang sửa chữa dưới 3 tuần, trong khi 10 chiếc Tiger được báo cáo là hoạt động và 18 chiếc khác đang sửa chữa dưới 3 tuần. Tuy nhiên, mặc dù có những lỗi lặt vặt này cùng các lỗi khác, báo cáo của thanh tra thiết giáp ít nhất cung cấp thêm bằng chứng rằng SS-T không tung phần lớn các Pz III đang hoạt động của mình vào trận chiến sông Mius. Do đó, có vẻ như các báo cáo hàng ngày của SS-T trong trận chiến sông Mius đã bỏ qua số lượng Pz III đang hoạt động bổ sung trong các báo cáo của họ. [80]
Chiến dịch phản công thất bại tại Kharkov - Tháng 8 năm 1943
Thống chế Erich von Manstein đã sẵn sàng, cả trong và sau Chiến dịch Zitadelle, nhằm ngắn Hồng quân có thể tự do hành động ở các khu vực phía nam trong nhóm quân của ông, với điều kiện là phải tập trung toàn lực trong trận chiến tại Kursk. Vào tháng 5 năm 1943, Manstein tuyên bố:
"Trong trường hợp của Zitadelle, yếu tố quyết định là trận chiến Kursk, và trận chiến đó phải được tiến hành, ngay cả khi điều đó có thể dẫn đến một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng ở khu vực Donets. Do đó, phải giả định ngay từ đầu rằng kẻ thù sẽ thành công trong việc tạo ra những lỗ hổng sâu trong mặt trận rộng lớn của Cụm tập đoàn quân, ở các khu vực của Tập đoàn quân 6 và Tập đoàn thiết giáp 1." [81]
Như Karl-Heinz Frieser đã viết một cách ngắn gọn:
"Manstein đã phát triển một ý tưởng tuyệt vời rằng trận chiến trên Mius phải được chiến đấu tại Kursk. Ở đó, bằng cách kiềm chế và tiêu diệt càng nhiều lực lượng kẻ thù càng tốt, rủi ro từ các cuộc tấn công vào các khu vực khác trên mặt trận có thể được ngăn chặn. Ý tưởng của ông là buộc Hồng Quân phải điều động nhiều xe tăng vào trận chiến Kursk đến mức họ không thể thực hiện cuộc tấn công mùa hè dự định hoặc chỉ có thể thực hiện với lực lượng không đủ. Điều này không phải là vô lý chút nào, như thể hiện qua số lượng thiệt hại rất lớn của Hồng quân . Cường quốc Liên Xô chỉ nguy hiểm nếu họ có thể đưa ưu thế về số lượng vào trận chiến – đặc biệt là vũ khí mạnh nhất của họ, pháo binh – trong một cuộc tấn công được chuẩn bị kỹ càng. Tuy nhiên tại Kursk thì có một cơ hội để làm rối loạn các đơn vị thiết giáp của Liên Xô trong các cuộc giao tranh , trong đó các chỉ huy thiết giáp Đức có thể tận dụng sự vượt trội về chiến thuật của mình." [82]
Quy mô khủng khiếp về thiệt hại này thực sự đã xảy ra, khi mặc dù Vatutin đã triển khai kỹ lưỡng các đơn vị phòng thủ trong Chiến dịch Zitadelle nhưng lực lượng xe tăng Hồng quân vẫn phải chịu thiệt hại thảm khốc. Các đơn vị xe tăng của Tập đoàn quân 6 và 7 hầu như đã bị tiêu diệt trong hai ngày đầu tiên của chiến dịch tấn công. Đến ngày 10.7.43, Tập đoàn xe tăng 1 đã giảm từ 646 xe xuống chỉ còn 100 xe tăng và pháo tự hành. Tính đến ngày 13.7.43, Phương diện quân Voronezh (cùng với các đội hình dự bị được triển khai) đã mất (bị bắn hỏng và bị tiêu diệt) tổng cộng 1.223 xe tăng và pháo tự hành (1.397 xe tăng và 33 pháo tự hành tính đến ngày 22.7.43). Một tỷ lệ lớn trong số các thiệt hại này đã xảy ra trong vài ngày đầu của trận chiến. Ngược lại, tính đến ngày 10.7.43, các đơn vị tấn công của Cụm Tập đoàn quân ,,Nam'' chỉ mất 116 thiết giáp và pháo tự hành (175 thiết giáp và pháo tự hành tính đến ngày 17.7.43), mặc dù họ phải chiến đấu vượt qua các vị trí của kẻ thù dưới những điều kiện vô cùng bất lợi. [83]
Kết quả là, sau trận Prokhorovka, Manstein hy vọng sẽ tiếp tục tận dụng ưu thế này hơn nữa thông qua việc triển khai Chiến dịch Roland. Mục đích của chiến dịch là chuyển trục tiến công chính của đòn đánh về hướng tây bắc, xa khỏi Prokhorovka (bởi các lực luộng phòng ngự chống tăng của và các đơn vị xe tăng Hồng quân đã thành công trong việc chặn đứng bất kỳ nỗ lực nào để tiếp cận Prokhorovka) theo hướng Oboyan. Qua đó, Manstein hy vọng có thể gây thiệt hại lớn hơn nữa cho lực lượng dự bị của Hồng quân. Nếu nhìn vào sức mạnh thiết giáp của LSSAH và Das Reich vào ngày 18.7.43 (ngày dự định bắt đầu cuộc tấn công), ta có thể thấy rằng đòn đánh của Đức sẽ được tổ chức với lực lượng mạnh (xem Bảng 15). Tuy nhiên, vào ngày 13.7.43 , AH đã quyết định hủy bỏ Chiến dịch Zitadelle (chiến dịch tấn công quy mô lớn của Hồng quân nhằm vào vòng cung Orel bắt đầu vào ngày 12.7.43), sau đó rút Quân đoàn thiết giáp SS II và từ chối Chiến dịch Roland của Manstein. AH muốn gửi Quân đoàn thiết giáp SS II đến Ý nhằm hỗ trợ đồng minh phe trục . Từ ngày 17.7.43, AH cũng bị phân tâm bởi các lý do kinh tế để bảo vệ ngành công nghiệp ở lưu vực Donets cùng với Quân đoàn thiết giáp SS II (xem Bảng 14 đến 18). [84]
Trong trận chiến Kursk, việc Cụm Tập đoàn Quân Nam duy trì càng nhiều đơn vị thiết giáp của mình ở khu vực Kharkov trong suốt trận chiến sẽ mang lại lợi thế cho Đức, điều này dĩ nhiên bao gồm việc phòng thủ chính Kharkov. Việc để mất lãnh thổ ở xa hai trung tâm chính ở mặt trận Đông (Kursk/Kharkov) là hậu quả không thể tránh khỏi của quyết định này, thì đó sẽ là một cái giá đáng phải trả. Mặc dù các chiến dịch Zitadelle và Roland đã bị hủy bỏ, AH lẽ ra phải nhận ra sự cấp thiết trong việc giữ nguyên một Quân đoàn thiết giáp SS II còn nguyên vẹn trong khu vực này, để có thể được triển khai ngay lập tức nếu cần phòng thủ Kharkov. Thay vì gửi các sư đoàn của nó đến Tập đoàn thiết giáp 1 và Tập đoàn quân 6, OKH sẽ có lợi hơn nếu cho phép Quân đoàn thiết giáp SS II nghỉ ngơi, sửa chữa phần lớn các phương tiện chiến đấu thiết giáp bị hư hại và sau đó trở thành lực lượng dự bị chính của Cụm Tập đoàn Quân Nam ở khu vực Kharkov. Vào giữa tháng 7 năm 1943, rõ ràng Kharkov sẽ là mục tiêu của cuộc tấn công lớn tiếp theo từ Liên Xô. Nếu AH cho phép Manstein triển khai Quân đoàn thiết giáp SS II với gần đầy đủ sức mạnh và tập trung để thực hiện một cuộc phản công lớn vào sườn các lực lượng thiết giáp Hồng quân đang tiến quân, thì điều này sẽ gây thiệt hại lớn cho kế hoạch của họ trong việc giải phóng Kharkov một cách nhanh chóng.
Việc triển khai lực lượng dự bị của Cụm Tập đoàn Quân Nam gồm Quân đoàn thiết giáp XXIV, đến phía nam đã giúp ngăn chặn cuộc tấn công của Hồng quân vào khu vực của Tập đoàn thiết giáp 1 (Sư đoàn thiết lựu SS ,,Wiking'' và Sư đoàn thiết giáp 17 tại Donets) và Tập đoàn quân 6 (Sư đoàn thiết giáp 23 tại Mius) vào ngày 17.7.43. Tuy nhiên, xét trong bối cảnh chiến lược nghiêm trọng trên mặt trận Đông, thực tế là nếu không có sự tiếp viện thêm (Quân đoàn thiết giáp SS II) thì cả hai đầu cầu của Liên Xô khó có thể bị tiêu diệt, nhưng điều này dường như không có gì quan trọng. Chiến lược tổng thể của Manstein tại Kursk, bao gồm cả Quân đoàn thiết giáp SS II, lẽ ra không nên bị cản trở.
Mặc dù Quân đoàn thiết giáp SS II (trừ LSSAH) cuối cùng đã tiêu diệt được đầu cầu tại sông Mius, nhưng thực tế chiến dịch này (cùng với sự khăng khăng của AH trong việc gửi LSSAH và HQ Quân đoàn thiết giáp SS II đến Ý) đã có một tác động "thảm họa" đối với khả năng của Đức trong việc chống lại cuộc chiến dịch tấn công quy mô lớn của Hồng quân nhằm vào Kharkov (Chiến dịch Polkovodets Rumyantsev) bắt đầu vào ngày 3.8.43. Quyết định rút lui Quân đoàn thiết giáp SS II đã loại bỏ quân đoàn thiết giáp mạnh nhất của Đức khỏi mặt trận Đông và làm giảm số lượng các phương tiện thiết giáp lẽ ra đã được hoàn thành sửa chữa . Việc các sư đoàn SS liên tục di chuyển trong nửa cuối tháng 7 và việc rời khỏi khu vực tập trung chính với các kho phụ tùng thay thế trên mặt trận Đông đã cản trở công tác sửa chữa (đặc biệt là đối với DR). Hơn nữa, cuộc phản công ở sông Mius sau đó đã làm giảm nghiêm trọng khả năng sẵn sàng chiến đấu của DR và SS-T cho trận chiến tại Kharkov khi cả hai sư đoàn này phải chịu thiệt hại lớn về thiết giáp với hơn 25 chiếc bị thiệt hại [95].
Kết quả của những diễn biến tiêu cực này là khi DR và SS-T cuối cùng thực hiện cuộc phản công phối hợp về phía tây Kharkov vào ngày 12.8.43, họ chỉ có 155 AFV còn hoạt động. [94] Ngược lại, ngay trước khi LSSAH rời đi vào ngày 28.7.43, Quân đoàn thiết giáp SS II có tới 356 AFV còn hoạt động. [95] Vì vậy, sự kết hợp giữa quyết định của AH gửi LSSAH sang Ý và việc tiến hành chiến dịch sông Mius một cách không cần thiết đã khiến cho cuộc phản công của 2 sư đoàn SS tại Kharkov vào ngày 12.8.43 không có đủ sức mạnh , mất đi ít nhất 200 AFV hoạt động được . Theo quyết định của OKH khi rút bỏ nhiều lực lượng thiết giáp của Cụm Tập đoàn Quân Nam sau khi chiến dịch Zitadelle kết thúc thì toàn bộ lực lượng phòng thủ của Đức (Tập đoàn thiết giáp 4 và Cụm quân đoàn ,,Kempf'') đối phó với chiến dịch tấn công của Hồng quân nhằm vào Kharkov vào ngày 3.8.43 chỉ có tổng cộng 237 AFV còn hoạt động được . Khoảng tuần sau, vào ngày 10.8.43, sau khi năm sư đoàn thiết giáp (bao gồm DR và SS-T) được điều động gấp đến khu vực Kharkov, quân Đức vẫn chỉ có thể huy động 567 AFV hoạt động được. [96] Nếu Quân đoàn thiết giáp SS II vẫn ở khu vực Kharkov (tương tự với Sư đoàn thiết giáp 3 và Sư đoàn thiết lựu ,,Großdeutschland'' ) từ ngày 20.7-3.8.43 để tiến hành sửa chữa phương tiện chiến đấu thiết giáp, thì số lượng lớn AFV có thể đã sẵn sàng để chống lại cuộc tấn công của Hồng quân. Các đại đội sửa chữa của Đức lẽ ra đã có khoảng hai tuần để thực hiện việc sửa chữa thêm các phương tiện chiến đấu thiết giáp trong các cơ sở sửa chữa chất lượng cao mà Quân đoàn thiết giáp SS II đã sử dụng kể từ mùa xuân. Quân đoàn này cũng đã có thể tận dụng nguồn phụ tùng dự trữ tốt, được báo cáo là có sẵn trong khu vực như một phần trong công tác chuẩn bị cho chiến dịch Zitadelle . Ví dụ như sau trận Prokhorovka, khi tình trạng phương tiện chiến đấu thiết giáp của LSSAH và DR được cải thiện nhanh chóng giữa các ngày 13-18.7.43. [97] Như vậy các cơ sở này vẫn còn tiềm năng lớn để thực hiện thêm các sửa chữa, vì Quân đoàn thiết giáp SS II bao gồm LSSAH vẫn còn 515 AFV trong kho (với 142 chiếc Panther bổ sung cho LSSAH và DR dự kiến sẽ đến vào cuối tháng 8). [98] Ngay cả sau khi LSSAH rút lui, DR và SS-T (sau khi nhận lại thiết giáp của LSSAH) vẫn có hơn 400 AFV trong kho , điều này lại cho thấy rõ mức độ thiệt hại mà chiến dịch Mius đã gây ra đối với tình trạng sẵn sàng chiến đấu của DR và SS-T, vốn chỉ còn 155 chiếc vào ngày 11.8.43 (xem Bảng [19]). [99]
Với Quân đoàn thiết giáp SS II hoàn toàn sẵn sàng chiến đấu và đầy đủ dưới tay Manstein sẽ là một tình huống đáng sợ với Hồng quân . Bởi nếu Quân đoàn thiết giáp SS II được giữ làm dự bị (gần Kharkov) sau chiến dịch Zitadelle, thì quân đoàn này hoàn toàn có thể thực hiện một cuộc phản công phối hợp với hơn 400 AFV còn hoạt động, quan trọng hơn là vào một thời điểm sớm hơn nhiều. Tuy nhiên, ngay cả khi một cuộc phản công lớn tại Kharkov bởi một Quân đoàn thiết giáp SS II nguyên vẹn có thành công hay không, thì các sư đoàn trong quân đoàn này sẽ nhanh chóng bị hao mòn bởi các cuộc giao tranh liên tục, với kết quả không thể tránh khỏi là số lượng phương tiện chiến đấu thiết giáp còn hoạt động sẽ giảm mạnh. [101]
Ngay cả khi Manstein có thể thực hiện thành công đòn phản công một lần nữa tại Kharkov như ông đã làm vào tháng 2/tháng 3 năm 1943, với sự vượt trội về nhân lực và vật lực của Hồng quân,thì việc Kharkov thất thủ chỉ còn là vấn đề thời gian . Hồng quân vào lúc này đã có khả năng thực hiện các đòn cuộc tấn công phối hợp trên mặt trận phía đông, vì vậy, vào mùa hè năm 1943, một thành công quân sự cục bộ của Đức, dù lớn đến đâu, cũng sẽ không có ảnh hưởng lớn đến diễn biến chiến lược . [102]
Bằng cách so sánh báo cáo tình trạng phương tiện chiến đấu thiết giáp của Tập đoàn quân 6 (báo cáo cuối tuần) vào ngày 1.8.43 với báo cáo tình trạng phương tiện của sư đoàn vào ngày 1.9.43 (được tìm thấy trong biểu đồ tổ chức chiến đấu đi kèm báo cáo sư đoàn 1.9.43), chúng ta có thể thấy rằng trên sau trận chiến tại Kharkov và khu vực xung quanh, DR đã mất: 18 Pz III và Bef (ít nhất 13 trong số đó là Pz III thường), 12 Pz IV (DR đã nhận thêm 10 chiếc Pz IV mới vào giữa tháng 8), 5 Pz V (như đã đề cập, tiểu đoàn Panther với 71 chiếc của DR đã tham chiến vào ngày 22.8.43) , 3 Tiger , 4 StuG và 4 Sf Pak trong giai đoạn này. Vì vậy, tổng cộng DR đã mất 46 AFV trong trận chiến phòng ngự gần Kharkov. Tất nhiên, có thể một vài trong số những thiệt hại này đã xảy ra vào ngày 2.8.43, ngày cuối cùng của chiến dịch sông Mius. Tuy nhiên, trái ngược hoàn toàn với các cuộc giao tranh trong những ngày trước, ngày 2.8.43 là một cuộc hành quân nhanh về bờ sông Mius. Vì vậy, khó có thể xảy ra việc mất mát phương tiện chiến đấu thiết giáp lớn trong ngày hôm đó (Bảng [20] đến [24]). [103]
Vì vậy, số lượng AFV tối đã mà SS-T có thể đã mất trong khoảng thời gian từ 1.8.43 đến 1.9.43 là: 11 Pz III, 35 Pz IV, 4 Pz VI và 1 xe chỉ huy. Dĩ nhiên, một phần trong số những thiệt hại này có thể đã xảy ra trong tháng 9. SS-T cũng đã mất 4 StuG và 2 Sf Pak trong các cuộc giao tranh vào tháng 8 xung quanh Kharkov. Số lượng Pz IV còn hoạt động của SS-T không bao giờ vượt quá mức 20 chiếc trong suốt tháng 8 năm 1943, có vẻ như nhiều chiếc trong số 47 chiếc Pz IV mà báo cáo cuối tuần ngày 1.8.43 cho biết cần sửa chữa ngắn hạn trên thực tế đã không tham gia chiến đấu. Những chiếc này có thể đã bị bỏ lại trong cuộc rút lui vào tháng 9 về phía sông Dnieper hoặc được đưa về nhà máy ở hậu phương . Như vậy t không thể đánh giá thấp tác động tiêu cực kéo dài của chiến dịch sông Mius. [110]
Tổng quan trong chiến dịch Rumyantsev, Tập đoàn tăng cận vệ 5 (đã được tái tổ chức sau trận Prokhorovka) và Tập đoàn tăng 1 một lần nữa phải chịu những thiệt hại thảm khốc. Sau 20 ngày chiến đấu , sức mạnh của Tập đoàn tăng cận vệ 5 từ 543 xe tăng giảm xuống chỉ còn 50 chiếc, trong khi Q Tập đoàn tăng 1 mất tới 1.042 AFV (đội hình này đã được tiếp tế liên tục với xe tăng mới trong suốt chiến dịch). Khi trung tâm giao thông, cung cấp và liên lạc quan trọng Kharkov cuối cùng đã rơi vào tay Hồng quân vào ngày 23.8.43 thì họ phải trả một cái giá rất đắt với thiệt hại (bị hỏng và bị tiêu diệt) tổng cộng gồm 1.864 xe tăng và pháo tự hành trong suốt chiến dịch. Sau khi Kharkov thất thủ , một cuộc rút lui của quân Đức về sông Dnieper là điều không thể tránh khỏi. Thành công của Hồng quân trên toàn bộ mặt trận phía đông trong tháng 7 và tháng 8 đã đặt được với cái giá phải trả rất tàn khốc, với thiệt hại tổng cộng gồm 9.294 xe tăng và pháo tự hành. Trong cùng giai đoạn đó, Wehrmacht chỉ mất 1.331 thiết giáp và pháo tự hành. [111]
Đính chính Prokhorovka
![]() |
Báo cáo của Thanh tra thiết giáp binh vào ngày 5.10.1943 |
Quan điểm của tác giả cho rằng, chỉ có thể hợp lý khi nghiên cứu lịch sử về trận Prokhorovka từ liên quan đến thiệt hại về AFV của Đức, chuyển sang nghiên cứu số lượng thiệt hại tối đa mà người Đức có thể đã phải chịu vào ngày 12.7.43 (thiệt hại được ghi nhận bởi LSSAH và DR từ 11–20.7.43) (Bảng 25). Lần đầu tiên, con số này có thể được đưa ra một cách chính xác. Số lượng thiệt hại AFV tối đa mà người Đức chịu đựng tại Prokhorovka là 14 AFV; trong đó có 12 chiếc bị tiêu diệt hoàn toàn và 2 chiếc buộc phải gửi về nhà máy sửa chữa. Ngay cả khi tính đến thiệt hại của SS-T, con số này cũng chỉ tăng lên 16 AFV. [112]
Như đã được chỉ ra trong bài luận này và bài luận trước của tác giả, không có tài liệu lưu trữ nào có thể được chứng minh là đủ đáng tin cậy để xác định chính xác từng chiếc hoặc nhiều chiếc về AFV mà Quân đoàn thiết giáp II phải gánh chịu từ ngày 11–20.7.43 là thực sự đến từ trận Prokhorovka vào ngày 12.7.43. Thực tế là có quá nhiều trường hợp tái phân loại và sai sót trong các ghi chép hàng ngày khiến việc này là khó có thể xảy ra . Chúng ta có thể ước tính số lượng thiệt hại trong ngày 12.7.43 (đặc biệt là trong khu vực LSSAH) thông qua các nhật ký tác chiến, lời thuật lại của nhân chứng, hình ảnh do thám và v.v. Tuy nhiên, khác với các giai đoạn từ 5–10.7.43 và 21.7–1.8.43, hiện tại chúng ta vẫn chưa thể xác định chính xác được từ những tài liệu ít ỏi đã được chứng minh là chính xác. Do đó, thật sự không thể đưa ra bất kỳ tuyên bố chắc chắn nào về số lượng chính xác các phương tiện chiến đấu thiết giáp của Đức bị mất vào ngày 12.7.43 trong trận Prokhorovka. Tuy nhiên, con số này có thể là, gần như chắc chắn, từ năm đến mười chiếc AFV của Đức bị tiêu diệt hoàn toàn. [114]
Mặc dù Quân đoàn thiết giáp SS II không ghi nhận thiệt hại nào vào ngày 12.7.43, nhưng rõ ràng đây là một đánh giá sai lệch ban đầu. Báo cáo thiệt hại về thiết giáp trong giai đoạn 5–17.7.43 của Thanh tra thiết giáp binh (hàng ngày từ 10.7.43 trở đi) đối với Cụm tập đoàn quân ,,Nam'' đã chứng minh là không chính xác khi gán thiệt hại thiết giáp cho những ngày cụ thể. Báo cáo thiệt hại thiết giáp từ 5–18.7.43 của kỹ sư Quân đoàn thiết giáp SS II thì lại chính xác về số lượng thiết giáp bị mất của LSSAH và DR (mặc dù vẫn phải tái phân loại trong bảng số liệu này). Khi đối chiếu báo cáo của kỹ sư Quân đoàn thiết giáp SS II với các báo cáo thiệt hại hoàn toàn từ 5–10.7.43 của LSSAH, DR và thậm chí là SS-T, chúng ta có thể ước tính chính xác số lượng thiệt hại thiết giáp của LSSAH và DR trong khoảng thời gian từ 11–18.7.43. [115]
![]() |
Thiệt hại hoàn toàn theo số khung gầm của LSSAH vào giai đoạn 1-10.7.1943 |
Tuy nhiên, không có cách nào để xác định chính xác tỷ lệ phần trăm thiệt hại của LSSAH và DR từ 11–18.7.43 là do trận chiến vào ngày 12.7.43. Vẫn còn khả năng một số thiệt hại này đã xảy ra vào ngày 13.7.43 trong đợt tấn công cuối cùng của LSSAH nhằm chiếm Prokhorovka, hoặc thậm chí vào những ngày sau đó . Nếu không có các báo cáo xác định vị trí của các xe bị tiêu diệt đáng tin cậy trong giai đoạn 11–20.7.43 thì gần như không thể xác định chính xác được . Thậm chí cũng không thể khẳng định rằng chiếc Tiger của LSSAH nằm hơi lệch về đỉnh đồi 252.2 trong các hình ảnh do thám của Đức từ ngày 16.7.43 và 7.8.43, thực sự đã bị mất vào ngày 12.7.43. Bên cạnh việc sử dụng các hình ảnh do thám, chúng ta phải dựa vào các báo cáo chiến đấu và lời khai của cựu binh , nhưng không thể coi đây là những nguồn thông tin hoàn toàn chắc chắn. Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh rằng tổng thể các bằng chứng cho thấy gần như chắc chắn rằng vào ngày 12.7.43, Đức đã mất 3 Pz IV (thiệt hại hoàn toàn) và 1 chiếc Pz IV (bảo dưỡng tại nhà máy) gần đồi 252.2. Mặc dù vậy, tác giả muốn làm rõ hơn vấn đề này với người đọc. [116]
![]() |
Tình trạng thiết giáp của LSSAH vào giai đoạn 1-10.7.1943 |
Số lượng tối đa thiệt hại xe tăng mà quân Đức có thể đã phải chịu trong trận Prokhorovka được liệt kê như sau: đối với LSSAH có 3 Pz IV (thiệt hại hoàn toàn) và 1 Pz IV (bảo dưỡng tại nhà máy), 1 Tiger (thiệt hại hoàn toàn) (để điều này xảy ra, chiếc Tiger được phân vào mục sửa chữa tại nhà máy từ 5–10.7.43’ phải vẫn nằm trong kho của LSSAH )có nhiều trường hợp tương tự đã xảy ra), chúng ta biết rằng chiếc Tiger này trước đó chưa bao giờ được xếp vào nhóm thiệt hại hoàn toàn. Do đó Tiger “Prokhorovka ” của LSSAH có thể đã nằm lọt vào trong khu vực của SS-T - đội hình với số liệu bị sai sót trong báo cáo của kỹ sư Quân đoàn thiết giáp SS II , 1 StuG thiệt hại hoàn toàn, và 1 Sf Pak sửa chữa tại nhà máy.
Đối với Das Reich, thiệt hại thiết giáp trong trận Prokhorovka gồm: 1 chiếc T-34 thiệt hại hoàn toàn , 4 Pz IV thiệt hại hoàn toàn và 2 StuG thiệt hại hoàn toàn . Phần lớn thiệt hại của DR trong giai đoạn 11–18.7.43 có thể đã xảy ra trong đợt tấn công ngắn của sư đoàn về phía đông để hội quân với Quân đoàn thiết giáp III, bắt đầu vào ngày 14.7.43. thiệt hại Pz IV của DR đã được đưa vào báo cáo của Thanh tra thiết giáp binh vào ngày 15.7.43. Điều này có vẻ phù hợp với giả thuyết rằng các thiệt hại của DR đã xảy ra trong đợt tấn công về phía đông. Tuy nhiên, chúng ta biết rằng thiệt hại của chiếc Tiger của DR, đã được xác nhận trước ngày 11.7.43, chỉ được đưa vào báo cáo hàng ngày của Thanh tra thiết giáp binh vào ngày 15.7.43 (vị trí thiệt hại thực tế của chiếc Tiger này được thể hiện trong báo cáo thiệt hại hoàn toàn từ 5–10.7.43). Điều này tự nhiên chỉ ra rằng một số thiệt hại Pz IV của DR được báo cáo bởi Tổng Thanh tra thiết giáp binh có thể đã xảy ra vào một ngày trước đó so với ngày 15.7.43, có thể là vào ngày 12.7.43. Thanh tra thiết giáp binh (và kỹ sư Quân đoàn thiết giáp SS II) không liệt kê thiệt hại T-34 của DR. Tuy nhiên, chúng ta biết từ báo cáo thiệt hại hoàn toàn của DR rằng 2 chiếc T-34 đã bị mất trong giai đoạn 5–10.7.43, có nghĩa là thiệt hại thêm 1 chiếc T-34 nữa, được nêu trong báo cáo cuối tuần ngày 1.8.43, đã xảy ra ở giai đoạn cuối của Chiến dịch Zitadelle và thực tế có thể đã bị mất trong trận Prokhorovka.
Đôi khi người ta nhắc đến việc tiểu đoàn pháo xung kích của SS-T đã chiến đấu phía nam con sông và do đó tham gia vào trận Prokhorovka. Tuy nhiên, SS-T không mất bất kỳ chiếc thiết giáp hay StuG nào trong giai đoạn 11–20.7.43. Vì vậy, điều này không ảnh hưởng đến số lượng thiệt hại xe tăng của Đức trong trận Prokhorovka. Tuy nhiên, SS-T đã mất 2 Sf Pak trong giai đoạn 11.7–2.8.43, điều này để lại khả năng rằng 2 Sf Pak này có thể đã bị mất vào ngày 12.7.43 tại Prokhorovka. [117]
Vào ngày 12.7.43 tại Prokhorovka, theo nghiên cứu mới nhất của Valeriy Zamulin, Hồng quân có 192 xe tăng và pháo tự hành bị tiêu diệt , con số này tăng lên 235 xe tăng vào ngày 17.7.43, chủ yếu là do quân Đức phá hủy các xe tăng của Hồng quân bị bỏ lại trên chiến trường sau trận chiến. Con số 235 này trùng khớp với số liệu của Frieser. Tuy nhiên, mặc dù Quân đoàn thiết giáp SS II đã gây ra thiệt hại khủng khiếp cho Hồng quân trong trận Prokhorovka, nhưng Hồng quân vẫn có thể tuyên bố chiến thắng, vì họ đã đạt được một trong những mục tiêu chính là chặn đứng mũi tiến của Quân đoàn thiết giáp SS II nhằm vào Prokhorovka. Vào ngày 12.7.43, Hồng quân đã dựng lên một hàng rào chống tăng gần như không thể xuyên thủng tại khu vực xung quanh Prokhorovka. Điều này đã loại bỏ khả năng đánh chiếm thị trấn của quân Đức . Mặc dù vũ khí mạnh nhất của Hồng quân, pháo binh, vẫn chưa được triển khai hoàn toàn tại Prokhorovka. Hơn nữa, mặc dù phải chịu thiệt hại nặng nề vào ngày 12.7.43, đến ngày 17.7.43, Tập đoàn tăng cận vệ 5 vẫn có khả năng triển khai 444 xe tăng (bao gồm cả Quân đoàn súng trường cơ giới cận vệ 5) để phòng thủ Prokhorovka, trong khi 211 xe tăng khác đang được sửa chữa hoặc đang chuyển đến mặt trận. Vì vậy, quân Đức buộc phải chuyển hướng tiến quân sang phía tây bắc để tránh khỏi Prokhorovka, và tiến theo hướng Oboyan (Chiến dịch Roland). [118]
Kết luận
Nhờ phát hiện ra báo cáo ''Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschützlages'' của Tập đoàn quân 6 vào ngày 1.8.43, nên chúng ta có thể điều chỉnh tổng số thiệt hại thiết giáp mà Quân đoàn thiết giáp SS II đã gánh chịu trong Chiến dịch Zitadelle và một vài ngày sau đó (5–20.7.43) (Bảng 26). Tổng thiệt hại về thiết giáp của Đức trong chiến dịch này là cực kỳ thấp, chỉ có 41 thiết giáp (42 nếu tính thêm 1 xe chỉ huy của LSSAH). Điều này có nghĩa là trong số 547 thiết giáp ban đầu (không tính Pz I và Pz II) tham gia chiến dịch vào ngày 5.7.43, thì 506 xe (92,5%) vẫn còn nguyên trong kho của Quân đoàn thiết giáp SS II vào ngày 20.7.43 (4 Sf Pak mới được nhận sau ngày 10.7.43). [119]
Vào sáng sớm ngày 11.7.43, Quân đoàn thiết giáp SS II có 521–522 thiết giáp trong kho (95,4% so với số xe trước Chiến dịch Zitadelle). Do đó, Quân đoàn thiết giáp SS II chỉ mất 15–16 xe trong giai đoạn 11–20.7.43 (521/522–15/16 = 506), và tất nhiên, bao gồm cả trận Prokhorovka vào ngày 12.7.43. Khi Quân đoàn thiết giáp SS II bắt đầu trận Prokhorovka với không quá 522 chiếc trong kho và kết thúc trận chiến với không ít hơn 506 chiếc, thì ít nhất 96,9% số lượng thiết giáp của Quân đoàn thiết giáp SS II đã sống sót qua trận đánh, hay nói cách khác, Quân đoàn thiết giáp SS II chỉ mất không quá 3,1% số xe trong kho trước trận (ngày 11.7.43) vào ngày 12.7.43 (Bảng 27). [121] Tại thời điểm này, chúng ta cần nhớ lại rằng trong nhiều năm sau chiến tranh, các sử gia Liên Xô và phương Tây đều cho rằng Quân đoàn thiết giáp SS II đã mất 300 thiết giáp trong trận Prokhorovka (57,5% số xe trước trận), trong khi tướng Rotmistrov, chỉ huy Tập đoàn tăng cận vệ 5 tuyên bố rằng Quân đoàn thiết giáp SS II đã mất 400 xe tăng (76,6% số xe trước trận). [122]
Rõ ràng là Chiến dịch Zitadelle vào giai đoạn 5–10.7.43 gây thiệt hại lớn hơn cho Quân đoàn thiết giáp SS II về số lượng thiết giáp so với giai đoạn 11–20.7.43. Điều có lẽ còn đáng chú ý hơn là vào tối ngày 18.7.43, 350 thiết giáp của Quân đoàn thiết giáp SS II vẫn còn hoạt động, tăng 11 xe so với ngày 11.7.43 (ngày trước trận Prokhorovka). Tuy nhiên, đây vẫn là 138 chiếc ít hơn so với 488 chiếc hoạt động vào ngày 4.7.43, ngày trước khi Chiến dịch Zitadelle bắt đầu (Bảng 28). [124]
Điều mà giới sử học về Chiến dịch Zitadelle luôn thiếu, ngay cả sau khi diễn biến thực sự của sự kiện này được biết đến rộng rãi, là một bảng tổng kết số lượng thiết giáp của Quân đoàn thiết giáp SS II sau Prokhorovka và sau Chiến dịch Zitadelle, có thể so sánh trực tiếp với bảng tổng kết số lượng thiết giáp của Quân đoàn thiết giáp SS II trước Chiến dịch Zitadelle. Chính vì vậy, báo cáo *Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschützlages* của Tập đoàn quan 6 vào ngày 1.8.43 trở thành một tài liệu vô cùng quan trọng và có giá trị lịch sử. Ngay cả khi báo cáo này được đọc riêng lẻ, tài liệu này cũng chứng minh rằng vào ngày 20.7.43 (chỉ bốn ngày sau khi Chiến dịch Zitadelle kết thúc), Quân đoàn thiết giáp SS II sở hữu ít nhất 351 thiết giáp(88%) trong tổng số 399 thiết giáp ban đầu trước Chiến dịch Zitadelle (không tính Pz I và Pz II). Theo báo cáo cuối tuần , vào ngày 20.7.43, số lượng thiết giáp được phân bổ giữa ba sư đoàn SS như sau: LSSAH 89 chiếc (bao gồm cả những chiếc được nhường lại cho DR và SS-T – không tính 5 chiếc Tiger mới nhận vào ngày 25.7.43), DR 130 chiếc và SS-T 132 chiếc. [126] Dĩ nhiên, chúng ta cũng biết rằng sau Chiến dịch Zitadelle, LSSAH đã nhường lại 3 chiếc Pz III cho Quân đoàn thiết giáp SS II và giữ lại 1 Pz III, 5 Pz IV và 9 xe chỉ huy (không tính Pz I và Pz II),như vậy cộng thêm 18 chiếc vào số xe sống sót thực tế sau Chiến dịch Zitadelle. Do đó, tổng số thiết giáp sống sót thực tế là 369 chiếc (92,5%). [127] Do vậy, tầm quan trọng của báo cáo cuối tuần của Tập đoàn quân 6 không thể bị đánh giá thấp, vì chính tài liệu này cho thấy ít nhất 88% số thiết giáp của Quân đoàn thiết giáp SS II trước Chiến dịch Zitadelle đã sống sót qua chiến dịch và do đó cũng là qua trận Prokhorovka.
Như chúng ta đã thấy, Chiến dịch Zitadelle không phải là một thảm họa đối với Quân đoàn thiết giáp SS II. Nhờ vào lượng linh kiện thay thế dồi dào (được tích lũy cho Chiến dịch Zitadelle), vào tháng 7 năm 1943, số lượng thiết giáp bị hư hỏng đã được sửa chữa và đưa vào hoạt động nhanh chóng. Đến ngày 18.7.43 (ngày dự kiến bắt đầu Chiến dịch Roland), có 350 thiết giáp đạt trạng thái sẵn sàng chiến đấu. Để so sánh , Quân đoàn thiết giáp III (Sư đoàn thiết giáp 6, Sư đoàn thiết giáp 7, Sư đoàn thiết giáp 19, Tiểu đoàn trọng thiết 503 và Tiểu đoàn pháo xung kích 228) đã bắt đầu Chiến dịch Zitadelle với 377 thiết giáp trong kho của mình . Tuy nhiên, quyết định sai lầm của AH khi điều Quân đoàn thiết giáp SS II về mặt trận sông Mius và Ý (bị ảnh hưởng bởi các yếu tố kinh tế và chính trị) đã gây khó khăn lớn cho việc tăng cường số lượng thiết giáp còn hoạt động. Kết quả là, vào ngày 12.8.43, khi DR và SS-T bắt đầu phản công ở phía tây Kharkov thì họ chỉ có 155 thiết giáp còn hoạt động, thay vì một đòn phản công mạnh của toàn bộ Quân đoàn thiết giáp SS II với sức mạnh trên 400 thiết giáp . Tuy nhiên, một cuộc phản công như vậy chắc chắn sẽ là dấu chấm hết cho Quân đoàn thiết giáp SS II tại mặt trận phía Đông. Thậm chí nếu cuộc phản công đó thành công, vào cuối tháng 8, khi các nguồn linh kiện thay thế xe tăng đã cạn kiệt và thời gian sửa chữa lớn đã hết, số lượng thiết giáp hoạt động của Quân đoàn thiết giáp SS II sẽ nhanh chóng giảm sút. Hơn nữa, những cuộc tấn công lớn tiếp theo của Hồng quân vào các sườn của Quân đoàn thiết giáp SS II cuối cùng sẽ buộc họ phải rút lui khỏi Kharkov. [129]
Trên thực tế, trong ba tuần chiến đấu phòng thủ quanh Kharkov, DR đã mất thêm 46 thiết giáp ngoài 10 chiếc mất trong 3–4 ngày chiến đấu ở mặt trận sông Mius. Nếu cộng thêm vào số này 14 chiếc mất trong Chiến dịch Zitadelle, chúng ta sẽ thấy rằng trong suốt hai tháng chiến đấu ở Kursk (và tại sông Mius), DR đã mất tổng cộng 70 thiết giáp. Đây mới là thiệt hại nghiêm trọng nhất là số lượng thiết giáp không hoạt động mà DR đã tích lũy được trong tháng 7 , không phải là thiệt hại thiết giáp trong Chiến dịch Zitadelle đã gây cản trở cho các hoạt động tiếp theo xung quanh Kharkov. Các xe này đã được sửa chữa phần lớn vào ngày 18.7.43 (tương tự với LSSAH). [130]
Mặc dù chúng ta không thể xác định chính xác số lượng thiết giáp bị tiêu diệt của SS-T khi phòng ngự tại Kharkov , nhưng ta vẫn có thể dự đoán số lượng thiết giáp bị thiệt hại của DR, bởi vì hai sư đoàn này đã trở lại tham chiến vào cùng một thời điểm. Trước khi tham gia phản công tại sông Mius, SS-T hành quân với lịch trình hơi khác so với DR, khi sư đoàn này đã tham chiến lâu hơn ở phía Bắc Belgorod và sau đó vận chuyển (dù bị chậm trễ) tới Tập đoàn quân 6. Điều này đã làm chậm quá trình phục hồi số lượng thiết giáp của SS-T sau Chiến dịch Zitadelle . Số lượng thiết giáp hoạt động của SS-T chỉ phục hồi kịp thời cho trận chiến tại sông Mius; tuy nhiên, khi chiến dịch bắt đầu, số lượng thiết giáp hoạt động của SS-T nhanh chóng giảm xuống do những khó khăn mà sư đoàn gặp phải trong việc chiếm đồi 213.9. [131]
Dẫn nguồn :
[1] Frieser, Karl-Heinz, “The Battle of the Kursk Salient” in The Research Institute for Military History, Potsdam, Germany, Germany and the Second World War Volume VIII – The Eastern Front 1943–1944 (Oxford: Clarendon Press 2017), 83–4. The breakdown of total write-offs of Soviet tanks and assault guns was 1,614 during the defensive phase (Operation Zitadelle), 2,586 during the Orel counter-offensive, and 1,864 during the Belgorod-Kharkov counter-offensive.
[2] Wegner, Bernd, “The War against the Soviet Union 1942–1943” in The Research Institute for Military History, Potsdam, Germany, Germany and the Second World War Volume VI – The Global War (Oxford: Clarendon Press 2015), 863–71.
See also Kroener, Bernhard R, “Management of Human Resources, Deployment of the Population, and Manning the Armed Forces in the Second Half of the War (1942–1944)” in The Research Institute for Military History, Potsdam, Germany, Germany and the Second World War Volume V/II
– Organization and Mobilization in the German Sphere of Power: Wartime Administration, Economy, and Manpower Resources 1942–1944/5 (Oxford: Clarendon Press 2015), 1012–23.
[3] Frieser, Karl-Heinz, “The Battle of the Kursk Salient” in The Research Institute for Military History, Potsdam, Germany, Germany and the Second World War Volume VIII – The Eastern Front 1943–1944, 200 & 200 n. According to Russian sources during the battle of Kursk the Soviets lost 863,303 men, of whom 254,470 dead or missing. Of these personnel losses, 177,847 were incurred in the defensive phase, 429, 890 during the Orel counter-offensive, and 255,566 during the Belgorod-Kharkov counter-offensive. Boris V Sokolov points out a number of contradictions in the official Soviet account and estimates the losses at 1,677,000 men. See Sokolov, Boris V “The Battle for Kursk, Orel and Charkov: Strategic Intentions and Results. A Critical View of Soviet Historiography”, in Gezeitenwechsel, 69–88. German losses over this period (5.7–23.8.43) were approximately 170,000, of whom 46,500 dead or missing. 54,182 (11,023 dead or missing) during Operation Zitadelle; Orel offensive 86,064 (25,515 dead or missing); Belgorod-Kharkov offensive just under 30,000 (10,000 dead or missing).
[4] All archival documents in this article are located at the US National Archives and Records Administration, College Park, MD unless otherwise stated. AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F000441.
[5] Frieser, Karl-Heinz, “The Battle of the Kursk Salient” in The Research Institute for Military History, Potsdam, Germany, Germany and the Second World War Volume VIII – The Eastern Front 1943–1944, 120–21, 128–34; See post from the Official Twitter account of the Ministry of Foreign Affairs of Russia on 12.7.2020: ‘On 12 July 1943 the largest tank battle in history commenced at Prokhorovka, part of the enormous Battle of Kursk. The Red Army withstood Nazi onslaught, pushed them back, destroying 75% of their tanks. That same day Soviets launched counter offensive to crush the enemy’ https://twitter.com/mfa_russia/status/1282197556626432000 accessed on 12.7.2020.
[6] See Table 25, Table 26, Table 27 and Table 28. The lack of an II SS Panzer Korps AFV inventory for 20.7.43 is alluded to in the transcript of a 2018 interview with the noted Kursk historian Valeriy Zamulin. This transcript can be found on the excellent Tank Archives blog: http://www.tankarchives.ca/2018/11/zamulin-on-losses.html accessed on 15.12.2018.
[7] Friedli, Lukas, Repairing the Panzers: German Tank Maintenance in World War 2 Vol 1. (Monroe: Panzerwrecks Publishing 2010), 162.
[8] Frieser, Karl-Heinz, “The Battle of the Kursk Salient” in The Research Institute for Military History, Potsdam, Germany, Germany and the Second World War Volume VIII – The Eastern Front 1943–1944, 157–68.
[9] PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR & SS-T, Fahrgestell-Nr. Pz.kpf.Wg. 1–2.7.43, T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR and SST, Gep. Kfz. Bestandsmeldung . 1–2.7.43 & 10.7.43, T313, R390.
[10] Frieser, Karl-Heinz, “The Battle of the Kursk Salient” in The Research Institute for Military History, Potsdam, Germany, Germany and the Second World War Volume VIII – The Eastern Front 1943–1944, 157–68.
[11] Compare declining operational AFV numbers in Tables 20–24 and Figure 15.
[12] NARA Series RG 373: German Flown Aerial Photography, 1939–1945. See specifically photographs relating to the battlefield of Prokhorovka: for 14 July see; GX-2696-SK-23, GX-2696-SK-24 and GX-2696-SK-52. For 16 July see; GX-3734- SK-61 (incorrectly dated as 15 July by NARA). For 7 August see; GX-3942-SK-69. Ben Wheatley, “A Visual Examination of the Battle of Prokhorovka,” Journal of Intelligence History, Vol.18, No.2 (2019), 115–63.
[13] Ben Wheatley, “Surviving Prokhorovka: German Armoured longevity on the Eastern Front 1943–1944,” Journal of Intelligence History, published online 2020, 1–87.
[14] II SS Panzer Korps, DR & SS-T Ia 667/43 & 668/43, 28.7.43, T354, R605, F000879-80.
[15] PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR and SS-T, Betr.: Totalausfälle an Pz.Kpfwg. und gep. Kfz. 1–10.7.43, (LSSAH written 12.7.43, DR & SS-T Lageskizzen written 23.7.43) T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR & SS-T, Gep. Kfz. Bestandsmeldung. 10.7.43, T313, R390; II SS Panzer Korps, Ingenieur, Betr.: Kinsatz Raum Belgorod. 5–18.7.43, updated to 22.7.43 (written 28.7.43), T354, R607, F000629-31. Ben Wheatley, “Surviving Prokhorovka: German Armoured longevity on the Eastern Front 1943–1944,” Journal of Intelligence History, published online 2020, 19–24.
[16] Frieser, Karl-Heinz, “The Battle of the Kursk Salient” in The Research Institute for Military History, Potsdam, Germany, Germany and the Second World War Volume VIII – The Eastern Front 1943–1944, p.127 & p.127 n.; XXXXVIII.Pz-AK, XXXXVIII.Pz-AK daily report, Totenkopf reports Soviet attacks throughout the day in the area in question. 18.7.43, T314, R1171, F000388; XXXXVIII.Pz-AK, XXXXVIII Korps HQ planned orders for Totenkopf to begin to evacuate the area on the night of 18–19.7,43. 18.7.43, T314, R1171, F000394; II SS Panzer Korps, War diary entries for 17–19.7.43, T354, R605, F000100-10; II SS Panzer Korps, Map of korps actions, new and proposed front lines 14–18.7.43, T354, R606, F000035; III Pz-AK, Map of korps frontline 17.7.43, T314, R198, F000323; III Pz-AK, Map of Attila line etc. 17–19.7.43, T314, R198, F000325; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR and SS-T, Betr.: Totalausfälle an Pz.Kpfwg. und gep. Kfz. 1–10.7.43, (LSSAH written 12.7.43, DR & SS-T Lageskizzen written 23.7.43) T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR & SS-T, Gep. Kfz. Bestandsmeldung. 10.7.43, T313, R390; II SS Panzer Korps, Ingenieur, Betr.: Kinsatz Raum Belgorod. 5–18.7.43, updated to 22.7.43 (written 28.7.43), T354, R607, F000629-31; Ben Wheatley, “Surviving Prokhorovka: German Armoured longevity on the Eastern Front 1943–1944,” Journal of Intelligence History, published online 2020, 24–32.
[17] Bundesarchiv/Militärarchiv, RH 10/64, General Inspector of Panzer Troops – AGS, 5–17.7.43 Totalverluste; II SS Panzer Korps, Correspondence from II SS Panzer Korps 1a to AH’s SS adjutant Fritz Darges at FHQ, Status of II SS Panzer Korps at midday 21.7.43 (sent 23.7.43), T354, R605, F000853; II SS Panzer Korps, Ingenieur, Betr.: Kinsatz Raum Belgorod. 5–18.7.43, updated to 22.7.43 (written 28.7.43), T354, R607, F000629-31.
[18] II SS Panzer Korps, Ingenieur, Betr.: Kinsatz Raum Belgorod. 5–18.7.43, updated to 22.7.43 (written 28.7.43), T354, R607, F000629-31.
[19] See Alexander Tomzov’s chapter in Tankovy udar. Sovetskie tanki v boyakh. 1942–1943 (Moscow: Eksmo 2007)
[20] II SS Panzer Korps, Map of korps actions, new and proposed front lines 14–18.7.43, T354, R606, F000035; II SS Panzer Korps, Ablauf der Marschbewegungen II SS Panzer Korps, 18–22.7.43, T354, R606, F000038; II SS Panzer Korps, Gliederung des II SS Panzer Korps am 22 und 23.7.43 bis zur Bereitstellung und Lage bei XXXX.A.K., T354, R606, F000039; II SS Panzer Korps, Bereitstellungs u. Angriffsplan für den Angriff am 24.7.43, T354, R606, F000040; II SS Panzer Korps, Ablauf der Marschbewegungen II SS Panzer Korps, 24–29.7.43, T354, R606, F000043; II SS Panzer Korps, Bereitstellung des II SS Panzer Korps am 29.7.3 und Verlauf des 30.7.43, T354, R606, F000050-51.
[21] AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F000441.
[22] II SS Panzer Korps, Ablauf der Marschbewegungen II SS Panzer Korps, 24–29.7.43, T354, R606, F000043.
[23] AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F000441. For an unknown reason DR sole Pz II was not included in Wochenmeldung even though there was a column for this type – the Pz II was not lost until the autumn of 1943 – see appendix of author’s last article Surviving Prokhorovka . DR also had a Bef Pz I, however, Pz I were not recorded by the Wochenmeldung. SS-T had neither Pz I nor Pz II. The LSSAH also had begun Operation Zitadelle with 3 Pz I, of which 1 was Bef, and 4 Pz II. The only light panzer lost by the II SS Panzer Korps during Operation Zitadelle was a LSSAH Pz I Bef which was lost between 5–10.7.43, PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH Betr.: Totalausfälle an Pz.Kpfwg. und gep. Kfz. 1–10.7.43, written 12.7.43, T313, R390; For consistency the author has not recorded light tanks in the tables contained in this article.
[24] AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F000441; III Pz Korps, 1a Anlage z, KTB Band 1 & 2, DR Tagesmeldung, 11.8.43, T314, R201; II SS Panzer Korps, SS-T Fehlbestäde an Waffen und Grossgerät, 3.8.43, T354, R605, F001001; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR & SS-T, Gep. Kfz. Bestandsmeldung. 1–2.7.43 & 10.7.43, T313, R390; In addition for the launch of Operation Zitadelle each of the three divisions of the II SS Panzer Korps possessed 12 Wespe self-propelled light field howitzers and 6 Hummel selfpropelled heavy field howitzers. No losses to these weapons were reported during Operation Zitadelle. See appendix in author’s last article Surviving Prokhorovka.
[25] AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F000441.
[26] AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F000441; III Pz Korps, 1a Anlage z, KTB Band 1 & 2, DR Tagesmeldung, 11.8.43, T314, R201; II SS Panzer Korps, SS-T Fehlbestäde an Waffen und Grossgerät, 3.8.43, T354, R605, F001001; II SS Panzer Korps, Ingenieur, Betr.: Kinsatz Raum Belgorod. 5–18.7.43, updated to 22.7.43 (written 28.7.43), T354, R607, F000629-31; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR & SS-T, Gep. Kfz. Bestandsmeldung. 1–2.7.43 & 10.7.43, T313, R390.
[27] PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR & SS-T, Fahrgestell-Nr. Pz.kpf.Wg. 1–2.7.43, T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR & SS-T, Gep. Kfz. Bestandsmeldung. 1–2.7.43 & 10.7.43, T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR and SS-T, Betr.: Totalausfälle an Pz.Kpfwg. und gep. Kfz. 1–10.7.43, (LSSAH written 12.7.43, DR & SS-T Lageskizzen written 23.7.43) T313, R390; II SS Panzer Korps, Ingenieur, Betr.: Kinsatz Raum Belgorod. 5–18.7.43, updated to 22.7.43 (written 28.7.43), T354, R607, F000629-31; AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F000441; III Pz Korps, 1a Anlage z, KTB Band 1 & 2, DR Tagesmeldung, 11.8.43, T314, R201; II SS Panzer Korps, SS-T Fehlbestäde an Waffen und Grossgerät, 3.8.43, T354, R605, F001001; Full delivery reports for all panzer, assault gun and self-propelled gun types are available from the Sturmpanzer website.
[28] PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR & SS-T, Fahrgestell-Nr. Pz.kpf.Wg. 1–2.7.43, T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR & SS-T, Gep. Kfz. Bestandsmeldung. 1–2.7.43 & 10.7.43, T313, R390; Full delivery reports for all panzer, assault gun and selfpropelled gun types are available from the Sturmpanzer website.
[29] Zetterling, Niklas & Frankson, Anders, Kursk 1943: A Statistical Analysis (London: Frank Cass, 2000), 187–88.
[30] PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR & SS-T, Fahrgestell-Nr. Pz.kpf.Wg. 1–2.7.43, T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR & SS-T, Gep. Kfz. Bestandsmeldung. 1–2.7.43 & 10.7.43, T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR and SS-T, Betr.: Totalausfälle an Pz.Kpfwg. und gep. Kfz. 1–10.7.43, (LSSAH written 12.7.43, DR & SS-T Lageskizzen written 23.7.43) T313, R390; Full delivery reports for all panzer, assault gun and self-propelled gun types are available from the Sturmpanzer website. *This depends on which LSSAH Tiger was actually written off.
[31] Zetterling, Niklas & Frankson, Anders, Kursk 1943: A Statistical Analysis (London: Frank Cass, 2000), 187–88.
[32] PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR & SS-T, Fahrgestell-Nr. Pz.kpf.Wg. 1–2.7.43, T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR & SS-T, Gep. Kfz. Bestandsmeldung. 1–2.7.43 & 10.7.43, T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR and SS-T, Betr.: Totalausfälle an Pz.Kpfwg. und gep. Kfz. 1–10.7.43, (LSSAH written 12.7.43, DR & SS-T Lageskizzen written 23.7.43) T313, R390; II SS Panzer Korps, Ingenieur, Betr.: Kinsatz Raum Belgorod. 5–18.7.43, updated to 22.7.43 (written 28.7.43), T354, R607, F000629-31; AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F000441; III Pz Korps, 1a Anlage z, KTB Band 1 & 2, DR Tagesmeldung, 11.8.43, T314, R201; II SS Panzer Korps, SS-T Fehlbestäde an Waffen und Grossgerät, 3.8.43, T354, R605, F001001; II SS Panzer Korps, LSSAH Ia, Tagesmeldung für den 24.7.43, T354, R605, F000867; II SS Panzer Korps, DR & SS-T Ia 667/43 & 668/43, 28.7.43, T354, R605, F000879-80; Gen Insp. d Pz Truppen, Waffen SS monthly divisional Meldung and OB charts, LSSAH, 1.9.43, T78, R719; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, Gep. Kfz. Bestandsmeldung . 1.11.43, T313, R391; Full delivery reports for all panzer, assault gun and self-propelled gun types are available from the Sturmpanzer website. *2 SS-T Pak SF lost sometime between 11.7.43 and end of Mius operation.
[33] Zetterling, Niklas & Frankson, Anders, Kursk 1943: A Statistical Analysis (London: Frank Cass, 2000), 187–88; II SS Panzer Korps, Daily reports for LSSAH, DR and SS-T 18.7–2.8.43, T354, R605, F000807-982; XXXXVIII.Pz-AK, XXXXVIII.Pz-AK daily reports for SS-T 18–20.7.43 T314, R1171, F000388-482
[34] AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F000441; II SS Panzer Korps,; III Pz Korps, 1a Anlage z, KTB Band 1 & 2, DR Tagesmeldung, 11.8.43, T314, R201; II SS Panzer Korps, SS-T Fehlbestäde an Waffen und Grossgerät, 3.8.43, T354, R605, F001001; Full delivery reports for all panzer, assault gun and self-propelled gun types are available from the Sturmpanzer website. *2 Pz III lg listed under Bef
[35] AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F000441; II SS Panzer Korps, Daily reports for LSSAH, DR and SS-T 18.7–2.8.43, T354, R605, F000807-982.
[36] II SS Panzer Korps, Bereitstellung des II SS Panzer Korps am 29.7.3 und Verlauf des 30.7.43, T354, R606, F000050-51.
[37] Frieser, Karl-Heinz, “The Battle of the Kursk Salient” in The Research Institute for Military History, Potsdam, Germany, Germany and the Second World War Volume VIII – The Eastern Front 1943–1944, 143–44; see also Frieser, Karl-Heinz, “The Swing of the Pendulum: The Withdrawal of the Eastern Front from Summer 1943 to Summer 1944” in The Research Institute for Military History, Potsdam, Germany, Germany and the Second World War Volume VIII – The Eastern Front 1943–1944 (Oxford: Clarendon Press 2017), 338–43.
[38] AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F000441.
[39] Full delivery reports for all panzer, assault gun and self-propelled gun types are available from the Sturmpanzer website. Regarding the transfer of LSSAH Tigers see Ben Wheatley, “Surviving Prokhorovka: German Armoured longevity on the Eastern Front 1943–1944,” Journal of Intelligence History, published online 2020, 36–37. As early as 29.6.43 the LSSAH daily AFV reports seem to contradict the more detailed LSSAH 1.7.43 inventory and 1.7.43 & 10.7.43 ten day AFV status reports by recording operational numbers above the 21 Sf Pak 75 mm in the division’s inventory, seemingly indicating the presence of 4 new Sf Pak. However, it is likely the LSSAH daily AFV reports are including Sf Pak which, although already issued to LSSAH (on 10.6.43), had not yet reached the troops on the frontline – or even left Germany (they departed 6.7.43)! Neither the 1.7.43 nor 10.7.43 ten day status reports record any new Sf Pak arriving at the front (the latter does include 16 new Pz IV), instead an inventory of 21 and 19 Sf Pak is respectively recorded. See PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, Fahrgestell-Nr. Pz.kpf.Wg. 1.7.43, T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH Gep. Kfz. Bestandsmeldung. 1.7.43 & 10.7.43, T313, R390 and II SS Panzer Korps, LSSAH daily AFV reports 29.6–10.7.43, T354, R605, F000401-636
[40] Gen Insp. d Pz Truppen, Waffen SS monthly divisional Meldung and OB charts, LSSAH, 1.9.43 & 1.10.43, T78, R719; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, Gep. Kfz. Bestandsmeldung . 1.11.43, T313, R391; Full delivery reports for all panzer, assault gun and self-propelled gun types are available from the Sturmpanzer website.
[41] Full delivery reports for all panzer, assault gun and self-propelled gun types are available from the Sturmpanzer website; PzAOK 4, O.Qu.V, DR, Gep. Kfz. Bestandsmeldung . 31.10.43, T313, R391.
[42] Full delivery reports for all panzer, assault gun and self-propelled gun types are available from the Sturmpanzer website; Gen.Insp.d.Pz.Truppen, Stabsoffizier für AOK 8, 5.10.43, T78, R619, F000836.
[43] AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F000441.
[44] PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR and SS-T, Betr.: Totalausfälle an Pz.Kpfwg. und gep. Kfz. 1–10.7.43, (LSSAH written 12.7.43, DR & SS-T Lageskizzen written 23.7.43) T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR & SS-T, Gep. Kfz. Bestandsmeldung. 10.7.43, T313, R390; II SS Panzer Korps, Ingenieur, Betr.: Kinsatz Raum Belgorod. 5–18.7.43, updated to 22.7.43 (written 28.7.43), T354, R607, F000629-31; II SS Panzer Korps, LSSAH, Rgt.Bef.Std., 27.7.43, T354, R607, F000825; II SS Panzer Korps, DR & SS-T Ia 667/43 & 668/43, 28.7.43, T354, R605, F000879-80; II SS Panzer Korps, LSSAH Ia, Tagesmeldung für den 24.7.43, T354, R605, F000867; Images of the tanks retained by the LSSAH can be found on the following website: https://www.thirdreichmedals.com/article/WSS.html; Jentz, Thomas, (ed.) Panzer Truppen II, p.136; Gen Insp. d Pz Truppen, Waffen SS monthly divisional Meldung and OB charts, LSSAH, 1.9.43, T78, R719; See June/July 1943 delivery reports for 5 LSSAH Tigers, 4 LSSAH selfpropelled guns and August delivery report for 53 LSSAH Pz IV on Sturmpanzer website; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, Gep. Kfz. Bestandsmeldung . 1.11.43, T313, R391.
[45] See delivery reports for all panzer, assault gun and self-propelled gun types are available from the Sturmpanzer website.
[46] AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F000441.
[47] AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F000441; III Pz Korps, 1a Anlage z, KTB Band 1 & 2, DR Tagesmeldung, 11.8.43, T314, R201; II SS Panzer Korps, SS-T Fehlbestäde an Waffen und Grossgerät, 3.8.43, T354, R605, F001001; II SS Panzer Korps, Ingenieur, Betr.: Kinsatz Raum Belgorod. 5–18.7.43, updated to 22.7.43 (written 28.7.43), T354, R607, F000629-31; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR & SS-T, Gep. Kfz. Bestandsmeldung. 1–2.7.43 & 10.7.43, T313, R390.
[48] AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F000441; II SS Panzer Korps, War diary entries for 30.7–2.8.43, T354, R605, F000123-41.
[49] AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F000441; II SS Panzer Korps, Ingenieur, Betr.: Kinsatz Raum Belgorod. 5–18.7.43, updated to 22.7.43 (written 28.7.43), T354, R607, F000629-31; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR & SS-T, Gep. Kfz. Bestandsmeldung. 1–2.7.43 & 10.7.43, T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR & SS-T, Fahrgestell-Nr. Pz.kpf.Wg. 1–2.7.43, T313, R390; PzAOK 4, O.Qu. V, LSSAH, DR and SS-T, Betr.: Totalausfälle an Pz.Kpfwg. und gep. Kfz. 1–10.7.43, (LSSAH written 12.7.43, DR & SS-T Lageskizzen written 23.7.43) T313, R390.
[50] AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F000441; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR and SS-T, Betr.: Totalausfälle an Pz.Kpfwg. und gep. Kfz. 1–10.7.43, (LSSAH written 12.7.43, DR & SS-T Lageskizzen written 23.7.43) T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR & SS-T, Gep. Kfz. Bestandsmeldung. 10.7.43, T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR & SS-T, Fahrgestell-Nr. Pz.kpf.Wg. 1–2.7.43, T313, R390; II SS Panzer Korps, Ingenieur, Betr.: Kinsatz Raum Belgorod. 5–18.7.43, updated to 22.7.43 (written 28.7.43), T354, R607, F000629-31; II SS Panzer Korps, LSSAH, Rgt.Bef.Std., 27.7.43, T354, R607, F000825; II SS Panzer Korps, DR & SS-T Ia 667/43 & 668/43, 28.7.43, T354, R605, F000879-80; II SS Panzer Korps, LSSAH Ia, Tagesmeldung für den 24.7.43, T354, R605, F000867; Images of the tanks retained by the LSSAH can be found on the following website: https://www.thirdreichmedals.com/article/ WSS.html; Jentz, Thomas, (ed.) Panzer Truppen II, p.136; Gen Insp. d Pz Truppen, Waffen SS monthly divisional Meldung and OB charts, LSSAH, 1.9.43, T78, R719; See June/July 1943 delivery reports for 5 LSSAH Tigers, 4 LSSAH self-propelled guns and August delivery report for 53 LSSAH Pz IV on Sturmpanzer website; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, Gep. Kfz. Bestandsmeldung . 1.11.43, T313, R391
[51] See examples in Ben Wheatley, “Surviving Prokhorovka: German Armoured longevity on the Eastern Front 1943–1944,” Journal of Intelligence History, published online 2020, 14–16, 8–10 and article’s appendix.
[52] Gen Insp. d Pz Truppen, Waffen SS monthly divisional Meldung and OB charts, LSSAH, 1.9.43, T78, R719; II SS Panzer Korps, Ingenieur, Betr.: Kinsatz Raum Belgorod. 5–18.7.43, updated to 22.7.43 (written 28.7.43), T354, R607, F000629-31; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR & SS-T, Fahrgestell-Nr. Pz.kpf.Wg. 1–2.7.43, T313, R390.
[53] II SS Panzer Korps, LSSAH Ia, Tagesmeldung für den 24.7.43, T354, R605, F000867; See June 1943 delivery report for 4 LSSAH self-propelled guns on Sturmpanzer website; II SS Panzer Korps, Ingenieur, Betr.: Kinsatz Raum Belgorod. 5–18.7.43, updated to 22.7.43 (written 28.7.43), T354, R607, F000629-31; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, Betr.: Totalausfälle an Pz.Kpfwg. und gep. Kfz. 1–10.7.43, (written 12.7.43) T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, Gep. Kfz. Bestandsmeldung. 10.7.43, T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, Fahrgestell-Nr. Pz.kpf.Wg. 1.7.43, T313, R390. In relation to the arrival date of 4 new Sf Pak see footnote 37 above. It can reasonably be expected that the 4 new Sf Pak which left Germany on 6.7.43 would have reached the LSSAH troops by 24.7.43.
[54] AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F000441.
[55] AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F000441; II SS Panzer Korps, Ingenieur, Betr.: Kinsatz Raum Belgorod. 5–18.7.43, updated to 22.7.43 (written 28.7.43), T354, R607, F000629-31; PzAOK 4, O.Qu.V, DR and SS-T, Betr.: Totalausfälle an Pz.Kpfwg. und gep. Kfz.1–10.7.43 (DR & SS-T Lageskizzen written 23.7.43) T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, DR Gep. Kfz. Bestandsmeldung. 1.7.43 & 10.7.43, T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, DR, Fahrgestell-Nr. Pz.kpf.Wg. 1.7.43, T313, R390
[56] Ibid.
[57] II SS Panzer Korps, Ingenieur, Betr.: Kinsatz Raum Belgorod. 5–18.7.43, updated to 22.7.43 (written 28.7.43), T354, R607, F000629-31; PzAOK 4, O.Qu.V, DR and SS-T, Betr.: Totalausfälle an Pz.Kpfwg. und gep. Kfz. 1–10.7.43 (DR & SS-T Lageskizzen written 23.7.43) T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, DR Gep. Kfz. Bestandsmeldung. 1.7.43 & 10.7.43, T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, DR, Fahrgestell-Nr. Pz.kpf.Wg. 1.7.43, T313, R390; III Pz Korps, 1a Anlage z, KTB Band 1 & 2, DR Tagesmeldung, 11.8.43, T314, R201.
[58] AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F000441; II SS Panzer Korps, Ingenieur, Betr.: Kinsatz Raum Belgorod. 5–18.7.43, updated to 22.7.43 (written 28.7.43), T354, R607, F000629-31; PzAOK 4, O.Qu.V, DR and SS-T, Betr.: Totalausfälle an Pz.Kpfwg. und gep. Kfz. 1–10.7.43 (DR & SS-T Lageskizzen written 23.7.43) T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, DR Gep. Kfz. Bestandsmeldung. 1.7.43 & 10.7.43, T313, R390; II SS Panzer Korps, see T-34 amongst DR vanguard units for Mius counter-offensive, 28.7.43, T354, R605, F000888-89; Forczyk, Robert, Panther vs T-34: Ukraine 1943 (Oxford: Osprey Publishing 2007), 24–25 & 61–63.
[59] Chamberlain, Peter, and Doyle, Hilary, Encyclopaedia of German Tanks of World War Two (London: Arms & Armour 2001), 238–39
[60] AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F000441; II SS Panzer Korps, Ingenieur, Betr.: Kinsatz Raum Belgorod. 5–18.7.43, updated to 22.7.43 (written 28.7.43), T354, R607, F000629-31; PzAOK 4, O.Qu.V, DR and SS-T, Betr.: Totalausfälle an Pz.Kpfwg. und gep. Kfz. 1–10.7.43 (DR & SS-T Lageskizzen written 23.7.43) T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, SS-T Gep. Kfz. Bestandsmeldung. 1.7.43 & 10.7.43, T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, SS-T, Fahrgestell-Nr. Pz.kpf.Wg. 2.7.43, T313, R390.
[61] Ibid
[62] PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR and SS-T, Betr.: Totalausfälle an Pz.Kpfwg. und gep. Kfz. 1–10.7.43, (LSSAH written 12.7.43, DR & SS-T Lageskizzen written 23.7.43) T313, R390.
[63] Ibid
[64] AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F000441.
[65] II SS Panzer Korps, Meldung über Verluste, durchgegeben am 30.7, 23,30 Uhr, Fernmündl. An 0 1 AOK..6,T354, R605, F000940.
[66] AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F000441; II SS Panzer Korps, Meldung über Verluste, durchgegeben am 30.7, 23,30 Uhr, Fernmündl. An 0 1 AOK..6,T354, R605, F000940; II SS Panzer Korps, War diary entries for 18.7–2.8.43, T354, R605, F000104-41; II SS Panzer Korps, Bereitstellung des II SS Panzer Korps am 29.7.3 und Verlauf des 30.7.43, T354, R606, F000050-51; II SS Panzer Korps, Verlauf des 31.7.43, T354, R606, F000052-53; II SS Panzer Korps, Verlauf des 1.8.43, T354, R606, F000055-56; II SS Panzer Korps, Verlauf des 2.8.43, T354, R606, F000059.
[67] AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F000441; II SS Panzer Korps, Ingenieur, Betr.: Kinsatz Raum Belgorod. 5–18.7.43, updated to 22.7.43 (written 28.7.43), T354, R607, F000629-31.
[68] II SS Panzer Korps, War diary entries for 17.7–2.8.43, T354, R605, F000100-41; XXXXVIII.Pz-AK, XXXXVIII.Pz-AK daily reports relating to Totenkopf 18–20.7.43, T314, R1171, F000388-482; II SS Panzer Korps, Map of korps actions, new and proposed front lines 14–18.7.43, T354, R606, F000035; II SS Panzer Korps, Ablauf der Marschbewegungen II SS Panzer Korps, 18–22.7.43, T354, R606, F000038; II SS Panzer Korps, Gliederung des II SS Panzer Korps am 22 und 23.7.43 bis zur Bereitstellung und Lage bei XXXX.A.K., T354, R606, F000039; II SS Panzer Korps, Bereitstellungs u. Angriffsplan für den Angriff am 24.7.43, T354, R606, F000040; II SS Panzer Korps, Ablauf der Marschbewegungen II SS Panzer Korps, 24–29.7.43, T354, R606, F000043; II SS Panzer Korps, Bereitstellung des II SS Panzer Korps am 29.7.3 und Verlauf des 30.7.43, T354, R606, F000050-51; AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F000441; II SS Panzer Korps, Ingenieur, Betr.: Kinsatz Raum Belgorod. 5–18.7.43, updated to 22.7.43 (written 28.7.43), T354, R607, F000629-31.
[69] Ibid
[70] Frieser, Karl-Heinz, “The Swing of the Pendulum: The Withdrawal of the Eastern Front from Summer 1943 to Summer 1944” in The Research Institute for Military History, Potsdam, Germany, Germany and the Second World War Volume VIII – The Eastern Front 1943–1944, 339–41; II SS Panzer Korps, Bereitstellungs u. Angriffsplan für den Angriff am 24.7.43, T354, R606, F000040; II SS Panzer Korps, Ablauf der Marschbewegungen II SS Panzer Korps, 24–29.7.43, T354, R606, F000043.
[71] 1II SS Panzer Korps, Ingenieur, Betr.: Kinsatz Raum Belgorod. 5–18.7.43, updated to 22.7.43 (written 28.7.43), T354, R607, F000629-31; AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F00044; See examples reclassifications in Ben Wheatley, “Surviving Prokhorovka: German Armoured longevity on the Eastern Front 1943–1944,” Journal of Intelligence History, published online 2020, 14–16, 8–10 and article’s appendix.
[72] II SS Panzer Korps, Ingenieur, Betr.: Kinsatz Raum Belgorod. 5–18.7.43, updated to 22.7.43 (written 28.7.43), T354, R607, F000629-31; AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F00044; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR and SS-T, Betr.: Totalausfälle an Pz.Kpfwg. und gep. Kfz. 1–10.7.43, (LSSAH written 12.7.43, DR & SS-T Lageskizzen written 23.7.43) T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR & SS-T, Gep. Kfz. Bestandsmeldung. 10.7.43, T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR & SS-T, Fahrgestell-Nr. Pz.kpf.Wg. 1–2.7.43, T313, R390; Bundesarchiv/Militärarchiv, RH 10/64, General Inspector of Panzer Troops – AGS, 5–10.7.43 Totalverluste, see also: 5–13.7.43, 5–14.7.43, 5–15.7.43, 5–16.7.43 and 5–17.7.43 editions.
[73] Ibid
[74] Ibid
[75] II SS Panzer Korps, War diary entries for 17–19.7.43, T354, R605, F000100-110; XXXXVIII.Pz-AK, XXXXVIII.Pz-AK daily reports relating to Totenkopf 18–20.7.43, T314, R1171, F000388-482.
[76] Bundesarchiv/Militärarchiv, RH 10/64, General Inspector of Panzer Troops – AGS, 5–10.7.43 Totalverluste, see also: 5–13.7.43, 5–14.7.43, 5–15.7.43, 5–16.7.43 and 5–17.7.43 editions.
[77] See section The Tiger on the Hill – was a LSSAH Tiger lost at Prokhorovka in Ben Wheatley, “Surviving Prokhorovka: German Armoured longevity on the Eastern Front 1943–1944,” Journal of Intelligence History, published online 2020, 24–32.
[78] Lukas Friedli, Repairing the Panzers: German Tank Maintenance in World War 2, Vol 2. (Monroe: Panzerwrecks Publishing 2011), 235.
[79] AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F000441; III Pz Korps, 1a Anlage z, KTB Band 1 & 2, DR Tagesmeldung, 11.8.43, T314, R201; II SS Panzer Korps, SS-T Fehlbestäde an Waffen und Grossgerät, 3.8.43, T354, R605, F001001; II SS Panzer Korps, Ingenieur, Betr.: Kinsatz Raum Belgorod. 5–18.7.43, updated to 22.7.43 (written 28.7.43), T354, R607, F000629-31; PzAOK 4, O.Qu.V, SS-T, Gep. Kfz. Bestandsmeldung. 1–2.7.43 & 10.7.43, T313, R390; Gen Insp. d Pz Truppen, Waffen SS monthly divisional Meldung and OB charts, SS-T, 1.8.43, T78, R719; PzAOK 4, O.Qu.V, DR and SS-T, Betr.: Totalausfälle an Pz.Kpfwg. und gep. Kfz. 1–10.7.43, DR & SS-T Lageskizzen written 23.7.43, T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, SS-T, Fahrgestell-Nr. Pz.kpf.Wg. 1–2.7.43, T313, R390.
[80] AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F000441; Zetterling, Niklas & Frankson, Anders, Kursk 1943: A Statistical Analysis (London: Frank Cass, 2000), 218–19; II SS Panzer Korps, Daily report for SS-T, 28.7.43, T354, R605, F000886; II SS Panzer Korps, Daily report, 1.8.43, T354, R605, F000970-71.
[81] Frieser, Karl-Heinz, “The Battle of the Kursk Salient” in The Research Institute for Military History, Potsdam, Germany, Germany and the Second World War Volume VIII – The Eastern Front 1943–1944, 144. Reproduced with permission of the Licensor through PLSclear.
[82] Ibid
[83] Frieser, Karl-Heinz, “The Battle of the Kursk Salient” in The Research Institute for Military History, Potsdam, Germany, Germany and the Second World War Volume VIII – The Eastern Front 1943–1944, 117 & 150–52.
[84] XXXXVIII.Pz-AK, XXXXVIII.Pz-AK preparations for Operation Roland 16.7.43, T314, R1171, F000361-63; II SS Panzer Korps, War diary entries regarding Operation Roland preparations 17–19.7.43, T354, R605, F000097-102; Frieser, Karl-Heinz, “The Battle of the Kursk Salient” in The Research Institute for Military History, Potsdam, Germany, Germany and the Second World War Volume VIII – The Eastern Front 1943–1944, 138–45
[85] PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR & SS-T, Fahrgestell-Nr. Pz.kpf.Wg. 1–2.7.43, T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR & SS-T, Gep. Kfz. Bestandsmeldung. 1–2.7.43 & 10.7.43, T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR and SS-T, Betr.: Totalausfälle an Pz.Kpfwg. und gep. Kfz. 1–10.7.43, (LSSAH written 12.7.43, DR & SS-T Lageskizzen written 23.7.43) T313, R390; II SS Panzer Korps, Ingenieur, Betr.: Kinsatz Raum Belgorod. 5–18.7.43, updated to 22.7.43 (written 28.7.43), T354, R607, F000629-31; AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F000441; III Pz Korps, 1a Anlage z, KTB Band 1 & 2, DR Tagesmeldung, 11.8.43, T314, R201; II SS Panzer Korps, SS-T Fehlbestäde an Waffen und Grossgerät, 3.8.43, T354, R605, F001001; II SS Panzer Korps, LSSAH Ia, Tagesmeldung für den 24.7.43, T354, R605, F000867; II SS Panzer Korps, DR & SS-T Ia 667/43 & 668/43, 28.7.43, T354, R605, F000879-80; Gen Insp. d Pz Truppen, Waffen SS monthly divisional Meldung and OB charts, LSSAH, 1.9.43, T78, R719; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, Gep. Kfz. Bestandsmeldung . 1.11.43, T313, R391; Full delivery reports for all panzer, assault gun and self-propelled gun types are available from the Sturmpanzer website. *Includes 4 new LSSAH Pak Sf. #*2 Pak SF lost sometime between 11.7.43 and end of Mius operation.
[86] Zetterling, Niklas & Frankson, Anders, Kursk 1943: A Statistical Analysis (London: Frank Cass, 2000), 187–88; II SS Panzer Korps, Daily reports for LSSAH, DR and SS-T 18.7–2.8.43, T354, R605, F000807-982; XXXXVIII.Pz-AK, XXXXVIII.Pz-AK, Daily reports for SS-T 18–20.7.43, T314, R1171, F000388-482.
[87] II SS Panzer Korps, Daily reports for LSSAH, DR and SS-T 18.7–2.8.43, T354, R605, F000807-982. *Unlikely to be less than 6 as this number of SS-T Pak Sf was operational on 31.7.43
[88] PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR & SS-T, Fahrgestell-Nr. Pz.kpf.Wg. 1–2.7.43, T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR & SS-T, Gep. Kfz. Bestandsmeldung. 1–2.7.43 & 10.7.43, T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR and SS-T, Betr.: Totalausfälle an Pz.Kpfwg. und gep. Kfz. 1–10.7.43, (LSSAH written 12.7.43, DR & SS-T Lageskizzen written 23.7.43) T313, R390; II SS Panzer Korps, Ingenieur, Betr.: Kinsatz Raum Belgorod. 5–18.7.43, updated to 22.7.43 (written 28.7.43), T354, R607, F000629-31; AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F000441; II SS Panzer Korps,; III Pz Korps, 1a Anlage z, KTB Band 1 & 2, DR Tagesmeldung, 11.8.43, T314, R201; II SS Panzer Korps, SS-T Fehlbestäde an Waffen und Grossgerät, 3.8.43, T354, R605, F001001; II SS Panzer Korps, LSSAH Ia, Tagesmeldung für den 24.7.43, T354, R605, F000867; II SS Panzer Korps, DR & SS-T Ia 667/43 & 668/43, 28.7.43, T354, R605, F000879-80; Gen Insp. d Pz Truppen, Waffen SS monthly divisional Meldung and OB charts, LSSAH, 1.9.43, T78, R719; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, Gep. Kfz. Bestandsmeldung . 1.11.43, T313, R391; Full delivery reports for all panzer, assault gun and self-propelled gun types are available from the Sturmpanzer website. *2 Pak SF lost sometime between 11.7.43 and end of Mius operation.
[89] II SS Panzer Korps, Daily reports for LSSAH, DR and SS-T 18.7–2.8.43, T354, R605, F000807-982. *Previous day. #Unlikely to be less than 6 as this number of SS-T Pak Sf was operational on 31.7.43.
[90] Frieser, Karl-Heinz, “The Battle of the Kursk Salient” in The Research Institute for Military History, Potsdam, Germany, Germany and the Second World War Volume VIII – The Eastern Front 1943–1944, 144.
[91] Frieser, Karl-Heinz, “The Swing of the Pendulum: The Withdrawal of the Eastern Front from Summer 1943 to Summer 1944” in The Research Institute for Military History, Potsdam, Germany, Germany and the Second World War Volume VIII – The Eastern Front 1943–1944, 338–41; Rebentisch, Ernst, The Combat History of the 23rd Panzer Division (Mechanicsburg: Stackpole Books 2012), 280–85. The 6th Army Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand for 20.7.43 and 1.8.43 shows that containing the 17–24.7.43 Soviet offensive cost the 16th Panzergrenadier Division 13 tanks and the 23rd Panzer Division 12 tanks. See AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 20.7.43 T312, R1483, F000417 and 1.8.43, T312, R1483, F000441.
[92] II SS Panzer Korps, War diary entries for 30.7–2.8.43, T354, R605, F000123-41; Manstein, Erich von, Lost Victories, (Munich: Bernard & Graefe Verlag 1982), 452; AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F000441; II SS Panzer Korps, Map of korps actions, new and proposed front lines 14–18.7.43, T354, R606, F000035; II SS Panzer Korps, Ablauf der Marschbewegungen II SS Panzer Korps, 18–22.7.43, T354, R606, F000038; II SS Panzer Korps, Gliederung des II SS Panzer Korps am 22 und 23.7.43 bis zur Bereitstellung und Lage bei XXXX.A.K., T354, R606, F000039; II SS Panzer Korps, Bereitstellungs u. Angriffsplan für den Angriff am 24.7.43, T354, R606, F000040; II SS Panzer Korps, Ablauf der Marschbewegungen II SS Panzer Korps, 24–29.7.43, T354, R606, F000043; II SS Panzer Korps, Bereitstellung des II SS Panzer Korps am 29.7.3 und Verlauf des 30.7.43, T354, R606, F000050-51; Zetterling, Niklas & Frankson, Anders, Kursk 1943: A Statistical Analysis, 46 and 187–88; II SS Panzer Korps, Daily reports for LSSAH, DR and SS-T 18.7–2.8.43, T354, R605, F000807-982; XXXXVIII.Pz-AK, XXXXVIII. Pz-AK daily reports for SS-T 18–20.7.43 T314, R1171, F000388-482; Lukas Friedli, Repairing the Panzers: German Tank Maintenance in World War 2 Vol 1. (Monroe: Panzerwrecks Publishing 2010) 152, 154 and 160.
[93] AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F000441; II SS Panzer Korps, DR & SS-T Ia 667/43 & 668/43, 28.7.43, T354, R605, F000879-80; II SS Panzer Korps, LSSAH Ia, Tagesmeldung für den 24.7.43, T354, R605, F000867; Jentz, Thomas, (ed.) Panzer Truppen II, p.136; Gen Insp. d Pz Truppen, Waffen SS monthly divisional Meldung and OB charts, LSSAH, 1.9.43, T78, R719; See June/July 1943 delivery reports for 71 LSSAH Panthers, 5 LSSAH Tigers, 4 LSSAH self-propelled guns and August delivery report for 53 LSSAH Pz IV on Sturmpanzer website; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, Gep. Kfz. Bestandsmeldung . 1.11.43, T313, R391; Heiber, Helmut & Glantz, David, Hitler and his Generals: Military Conferences 1942–1945, (New York: Enigma Books 2004), Midday Situation Report, 26.7.1943, 248–49; Forczyk, Robert, Panther vs T-34: Ukraine 1943 (Oxford: Osprey Publishing 2007), 24–25 & 61–63. The reliability of the 71 LSSAH Panthers was so poor that, without seeing combat, they were in October 1943 exchanged for 96 new Panthers. The original faulty LSSAH Panthers were refitted in Germany and in December 1943 sent to Army Group North where they were used by Panzer Regiment 29 as semi-mobile pillboxes. In February 1944 Panzer Regiment 29 transferred its 13 surviving Panthers to SS Panzergrenadier Division Nordland, which operated them as conventional panzers. 2 of these ex-LSSAH Panthers even participated in the battle of Berlin in April 1945. Jentz, Thomas, (ed.) Panzer Truppen II (Atglen: Schiffer 1996), 257; MacDougall, Roddy and Neely, Darren, Nürnberg’s Panzer Factory, A Photographic Study (Monroe: Panzerwrecks Publishing 2013), 106–117; Archer, Lee, Kraska, Robert, and Lippert, Mario, Panzers in Berlin 1945 (Old Heathfield: Panzerwrecks Publishing 2019), 12.
[94] III Pz Korps, 1a Anlage z, KTB Band 1 & 2, DR Tagesmeldung, 9–21.8.43, T314, R201; III Pz Korps, 1a Anlage z, KTB Band 1 & 2, SS-T Tagesmeldung, 9–22.8.4
[95] II SS Panzer Korps, LSSAH Ia, Tagesmeldung für den 24.7.43, T354, R605, F000867; II SS Panzer Korps, LSSAH Ia, daily report for LSSAH, DR and SS-T 28–29.7.43, T354, R605, F000885-921.
[96] Frieser, Karl-Heinz, “The Battle of the Kursk Salient” in The Research Institute for Military History, Potsdam, Germany, Germany and the Second World War Volume VIII – The Eastern Front 1943–1944, 189–90
[97] Zetterling, Niklas & Frankson, Anders, Kursk 1943: A Statistical Analysis, 187–88; Lukas Friedli, Repairing the Panzers: German Tank Maintenance in World War 2 Vol 1. (Monroe: Panzerwrecks Publishing 2010), 152, 154 and 160
[98] PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR & SS-T, Fahrgestell-Nr. Pz.kpf.Wg. 1–2.7.43, T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR & SS-T, Gep. Kfz. Bestandsmeldung. 1–2.7.43 & 10.7.43, T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR and SS-T, Betr.: Totalausfälle an Pz.Kpfwg. und gep. Kfz. 1–10.7.43, (LSSAH written 12.7.43, DR & SS-T Lageskizzen written 23.7.43) T313, R390; II SS Panzer Korps, Ingenieur, Betr.: Kinsatz Raum Belgorod. 5–18.7.43, updated to 22.7.43 (written 28.7.43), T354, R607, F000629-31; AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F000441; III Pz Korps, 1a Anlage z, KTB Band 1 & 2, DR Tagesmeldung, 11.8.43, T314, R201; II SS Panzer Korps, SS-T Fehlbestäde an Waffen und Grossgerät, 3.8.43, T354, R605, F001001; Full delivery reports for all panzer, assault gun and self-propelled gun types are available from the Sturmpanzer website. See delivery of 5 Tigers and 4 Sf Pak in July plus June/July 1943 delivery reports for 71 LSSAH Panthers & 71 DR Panthers
[99] AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F000441; III Pz Korps, 1a Anlage z, KTB Band 1 & 2, DR Tagesmeldung, 9–21.8.43, T314, R201; III Pz Korps, 1a Anlage z, KTB Band 1 & 2, SS-T Tagesmeldung, 9–22.8.43, T314, R201; II SS Panzer Korps, SS-T Fehlbestäde an Waffen und Grossgerät, 3.8.43, T354, R605, F001001.
[100] III Pz Korps, 1a Anlage z, KTB Band 1 & 2, DR Tagesmeldung, 9–21.8.43, T314, R201; III Pz Korps, 1a Anlage z, KTB Band 1 & 2, SS-T Tagesmeldung, 9–22.8.43, T314, R201. *closest recorded operational number. 2.8.43 for T-34 and 13.8.43 for Bef.
[101] II SS Panzer Korps, Daily reports for LSSAH, DR and SS-T 18.7–2.8.43, T354, R605, F000807-982; XXXXVIII.Pz-AK, XXXXVIII.Pz-AK daily reports for SS-T 18–20.7.43 T314, R1171, F000388-482; Zetterling, Niklas & Frankson, Anders, Kursk 1943: A Statistical Analysis, 187–88; Gen.Insp.d.Pz.Truppen, Stabsoffizier für AOK 8, 5.10.43, T78, R619, F000836; XI Korps, 1a Anlagen z, KTB Band 13, SS-T Tagesmeldung, 15–21.9.43 & 28–30.9.43, T314, R493; III Pz Korps, 1a Anlage z, KTB Band 1 & 2, SS-T Tagesmeldung, 9–22.8.43, T314, R201.
[102] Frieser, Karl-Heinz, “The Battle of the Kursk Salient” in The Research Institute for Military History, Potsdam, Germany, Germany and the Second World War Volume VIII – The Eastern Front 1943–1944, 84, 143, 99–101, 171–72.
[103] AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F000441; Gen Insp. d Pz Truppen, Waffen SS monthly divisional Meldung and OB charts, DR, 1.9.43, T78, R719; III Pz Korps, 1a Anlage z, KTB Band 1 & 2, DR Tagesmeldung, 11.8.43, T314, R201; See August delivery report for 10 DR Pz IV on Sturmpanzer website; II SS Panzer Korps, Verlauf des 2.8.43, T354, R606, F000059.
[104] III Pz Korps, 1a Anlage z, KTB Band 1 & 2, DR Tagesmeldung, 9–21.8.43, T314, R201.
[105] III Pz Korps, 1a Anlage z, KTB Band 1 & 2, SS-T Tagesmeldung, 9–22.8.43, T314, R201.
[106] AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F00044; Gen Insp. d Pz Truppen, Waffen SS monthly divisional Meldung and OB charts, DR & SS-T, 1.9.43, T78, R719; Gen.Insp.d.Pz.Truppen, Stabsoffizier für AOK 8, 5.10.43, T78, R619, F000836; Full delivery reports for all panzer, assault gun and self-propelled gun types are available from the Sturmpanzer website
[107] Gen Insp. d Pz Truppen, Waffen SS monthly divisional Meldung and OB charts, DR & SS-T, 1.9.43, T78, R719
[108] XI Korps, 1a Anlagen z, KTB Band 13, SS-T Tagesmeldung, 15–21.9.43 & 28–30.9.43, T314, R493
[109] AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F000441; Gen.Insp.d.Pz.Truppen, Stabsoffizier für AOK 8, 5.10.43, T78, R619, F000836; Gen Insp. d Pz Truppen, Waffen SS monthly divisional Meldung and OB charts, SS-T, 1.9.43, T78, R719; II SS Panzer Korps, SS-T Fehlbestäde an Waffen und Grossgerät, 3.8.43, T354, R605, F001001; III Pz Korps, 1a Anlage z, KTB Band 1 & 2, SS-T Tagesmeldung, 9–22.8.43, T314, R201; Full delivery reports for all panzer, assault gun and self-propelled gun types are available from the Sturmpanzer website.
[110] AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F000441; Gen.Insp.d.Pz.Truppen, Stabsoffizier für AOK 8, 5.10.43, T78, R619, F000836; Gen Insp. d Pz Truppen, Waffen SS monthly divisional Meldung and OB charts, SS–T, 1.9.43, T78, R719; II SS Panzer Korps, SS–T Fehlbestäde an Waffen und Grossgerät, 3.8.43, T354, R605, F001001; III Pz Korps, 1a Anlage z, KTB Band 1 & 2, SS-T Tagesmeldung, 9–22.8.43, T314, R201; Full delivery reports for all panzer, assault gun and self-propelled gun types are available from the Sturmpanzer website
[111] Frieser, Karl-Heinz, “The Battle of the Kursk Salient” in The Research Institute for Military History, Potsdam, Germany, Germany and the Second World War Volume VIII – The Eastern Front 1943–1944, 188–99.
[112] PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR & SS-T, Fahrgestell-Nr. Pz.kpf.Wg. 1–2.7.43, T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR & SST, Gep. Kfz. Bestandsmeldung. 1–2.7.43 & 10.7.43, T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR and SS-T, Betr.: Totalausfälle an Pz.Kpfwg. und gep. Kfz. 1–10.7.43, (LSSAH written 12.7.43, DR & SS-T Lageskizzen written 23.7.43) T313, R390; II SS Panzer Korps, Ingenieur, Betr.: Kinsatz Raum Belgorod. 5–18.7.43, updated to 22.7.43 (written 28.7.43), T354, R607, F000629-31; AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F000441; III Pz Korps, 1a Anlage z, KTB Band 1 & 2, DR Tagesmeldung, 11.8.43, T314, R201; II SS Panzer Korps, SS-T Fehlbestäde an Waffen und Grossgerät, 3.8.43, T354, R605, F001001; II SS Panzer Korps, LSSAH Ia, Tagesmeldung für den 24.7.43, T354, R605, F000867; II SS Panzer Korps, DR & SS-T Ia 667/43 & 668/43, 28.7.43, T354, R605, F000879-80; Gen Insp. d Pz Truppen, Waffen SS monthly divisional Meldung and OB charts, LSSAH, 1.9.43, T78, R719; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, Gep. Kfz. Bestandsmeldung . 1.11.43, T313, R391; Full delivery reports for all panzer, assault gun and self-propelled gun types are available from the Sturmpanzer website.
[113] PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR & SS-T, Fahrgestell-Nr. Pz.kpf.Wg. 1–2.7.43, T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR & SST, Gep. Kfz. Bestandsmeldung. 1–2.7.43 & 10.7.43, T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR and SS-T, Betr.: Totalausfälle an Pz.Kpfwg. und gep. Kfz. 1–10.7.43, (LSSAH written 12.7.43, DR & SS-T Lageskizzen written 23.7.43) T313, R390; II SS Panzer Korps, Ingenieur, Betr.: Kinsatz Raum Belgorod. 5–18.7.43, updated to 22.7.43 (written 28.7.43), T354, R607, F000629-31; AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F000441; III Pz Korps, 1a Anlage z, KTB Band 1 & 2, DR Tagesmeldung, 11.8.43, T314, R201; II SS Panzer Korps, SS-T Fehlbestäde an Waffen und Grossgerät, 3.8.43, T354, R605, F001001; II SS Panzer Korps, LSSAH Ia, Tagesmeldung für den 24.7.43, T354, R605, F000867; II SS Panzer Korps, DR & SS-T Ia 667/43 & 668/43, 28.7.43, T354, R605, F000879-80; Gen Insp. d Pz Truppen, Waffen SS monthly divisional Meldung and OB charts, LSSAH, 1.9.43, T78, R719; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, Gep. Kfz. Bestandsmeldung . 1.11.43, T313, R391; Full delivery reports for all panzer, assault gun and self-propelled gun types are available from the Sturmpanzer website
[114] Frieser, Karl-Heinz, “The Battle of the Kursk Salient” in The Research Institute for Military History, Potsdam, Germany, Germany and the Second World War Volume VIII – The Eastern Front 1943–1944, 129, 127 n, 136 n; Bundesarchiv/ Militärarchiv, RH 10/64, General Inspector of Panzer Troops – AGS, 5–10.7.43 Totalverluste, see also: 5–13.7.43, 5–14.7.43, 5–15.7.43, 5–16.7.43 and 5–17.7.43 editions; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR & SS-T, Fahrgestell-Nr. Pz.kpf. Wg. 1–2.7.43, T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR & SS-T, Gep. Kfz. Bestandsmeldung. 1–2.7.43 & 10.7.43, T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR and SS-T, Betr.: Totalausfälle an Pz.Kpfwg. und gep. Kfz. 1–10.7.43, (LSSAH written 12.7.43, DR & SS-T Lageskizzen written 23.7.43) T313, R390; II SS Panzer Korps, Ingenieur, Betr.: Kinsatz Raum Belgorod. 5–18.7.43, updated to 22.7.43 (written 28.7.43), T354, R607, F000629-31; AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F000441; III Pz Korps, 1a Anlage z, KTB Band 1 & 2, DR Tagesmeldung, 11.8.43, T314, R201; II SS Panzer Korps, SS-T Fehlbestäde an Waffen und Grossgerät, 3.8.43, T354, R605, F001001; II SS Panzer Korps, LSSAH Ia, Tagesmeldung für den 24.7.43, T354, R605, F000867; II SS Panzer Korps, DR & SS-T Ia 667/43 & 668/43, 28.7.43, T354, R605, F000879-80; Gen Insp. d Pz Truppen, Waffen SS monthly divisional Meldung and OB charts, LSSAH, 1.9.43, T78, R719; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, Gep. Kfz. Bestandsmeldung . 1.11.43, T313, R391;.II SS Panzer Korps, Map of korps actions, new and proposed front lines 14–18.7.43, T354, R606, F000035; Full delivery reports for all panzer, assault gun and self-propelled gun types are available from the Sturmpanzer website; Ben Wheatley, “A Visual Examination of the Battle of Prokhorovka,” Journal of Intelligence History, Vol.18, No.2 (2019), 115–63; Ben Wheatley, “Surviving Prokhorovka: German Armoured longevity on the Eastern Front 1943–1944,” Journal of Intelligence History, published online 2020, 24–32.
[115] Ibid
[116] Ibid
[117] Ibid
[118] Zamulin, Valeriy. “Soviet Troop Losses in the Battle of Prokhorovka,” 10–16 July 1943, Journal of Slavic Military Studies, 32:1 (2019), 118–21; Frieser, Karl-Heinz, “The Battle of the Kursk Salient” in The Research Institute for Military History, Potsdam, Germany, Germany and the Second World War Volume VIII – The Eastern Front 1943–1944, 136 n, 138–45 .
[119] PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR & SS-T, Fahrgestell-Nr. Pz.kpf.Wg. 1–2.7.43, T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR & SST, Gep. Kfz. Bestandsmeldung. 1–2.7.43 & 10.7.43, T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR and SS-T, Betr.: Totalausfälle an Pz.Kpfwg. und gep. Kfz. 1–10.7.43, (LSSAH written 12.7.43, DR & SS-T Lageskizzen written 23.7.43) T313, R390; II SS Panzer Korps, Ingenieur, Betr.: Kinsatz Raum Belgorod. 5–18.7.43, updated to 22.7.43 (written 28.7.43), T354, R607, F000629-31; AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F000441; III Pz Korps, 1a Anlage z, KTB Band 1 & 2, DR Tagesmeldung, 11.8.43, T314, R201; II SS Panzer Korps, SS-T Fehlbestäde an Waffen und Grossgerät, 3.8.43, T354, R605, F001001; II SS Panzer Korps, LSSAH Ia, Tagesmeldung für den 24.7.43, T354, R605, F000867; II SS Panzer Korps, DR & SS-T Ia 667/43 & 668/43, 28.7.43, T354, R605, F000879-80; Gen Insp. d Pz Truppen, Waffen SS monthly divisional Meldung and OB charts, LSSAH, 1.9.43, T78, R719; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, Gep. Kfz. Bestandsmeldung . 1.11.43, T313, R391; Full delivery reports for all panzer, assault gun and self-propelled gun types are available from the Sturmpanzer website.
[120] PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR & SS-T, Fahrgestell-Nr. Pz.kpf.Wg. 1–2.7.43, T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR & SST, Gep. Kfz. Bestandsmeldung. 1–2.7.43 & 10.7.43, T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR and SS-T, Betr.: Totalausfälle an Pz.Kpfwg. und gep. Kfz. 1–10.7.43, (LSSAH written 12.7.43, DR & SS-T Lageskizzen written 23.7.43) T313, R390; II SS Panzer Korps, Ingenieur, Betr.: Kinsatz Raum Belgorod. 5–18.7.43, updated to 22.7.43 (written 28.7.43), T354, R607, F000629-31; AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F000441; III Pz Korps, 1a Anlage z, KTB Band 1 & 2, DR Tagesmeldung, 11.8.43, T314, R201; II SS Panzer Korps, SS-T Fehlbestäde an Waffen und Grossgerät, 3.8.43, T354, R605, F001001; II SS Panzer Korps, LSSAH Ia, Tagesmeldung für den 24.7.43, T354, R605, F000867; II SS Panzer Korps, DR & SS-T Ia 667/43 & 668/43, 28.7.43, T354, R605, F000879-80; Gen Insp. d Pz Truppen, Waffen SS monthly divisional Meldung and OB charts, LSSAH, 1.9.43, T78, R719; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, Gep. Kfz. Bestandsmeldung . 1.11.43, T313, R391; Full delivery reports for all panzer, assault gun and self-propelled gun types are available from the Sturmpanzer website. *Pz I Bef.
[121] Ibid
[122] 2Frieser, Karl-Heinz, “The Battle of the Kursk Salient” in The Research Institute for Military History, Potsdam, Germany, Germany and the Second World War Volume VIII – The Eastern Front 1943–1944, 120–21, 128–34.
[123] PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR & SS-T, Fahrgestell-Nr. Pz.kpf.Wg. 1–2.7.43, T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR & SS-T, Gep. Kfz. Bestandsmeldung. 1–2.7.43 & 10.7.43, T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR and SS-T, Betr.: Totalausfälle an Pz.Kpfwg. und gep. Kfz. 1–10.7.43, (LSSAH written 12.7.43, DR & SS-T Lageskizzen written 23.7.43) T313, R390; II SS Panzer Korps, Ingenieur, Betr.: Kinsatz Raum Belgorod. 5–18.7.43, updated to 22.7.43 (written 28.7.43), T354, R607, F000629-31; AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F000441; III Pz Korps, 1a Anlage z, KTB Band 1 & 2, DR Tagesmeldung, 11.8.43, T314, R201; II SS Panzer Korps, SS-T Fehlbestäde an Waffen und Grossgerät, 3.8.43, T354, R605, F001001; II SS Panzer Korps, LSSAH Ia, Tagesmeldung für den 24.7.43, T354, R605, F000867; II SS Panzer Korps, DR & SS-T Ia 667/43 & 668/43, 28.7.43, T354, R605, F000879-80; Gen Insp. d Pz Truppen, Waffen SS monthly divisional Meldung and OB charts, LSSAH, 1.9.43, T78, R719; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, Gep. Kfz. Bestandsmeldung . 1.11.43, T313, R391; Full delivery reports for all panzer, assault gun and self-propelled gun types are available from the Sturmpanzer website. *This depends which LSSAH Tiger was actually written off. #Not including 3 Ex-LSSAH Pz III with II SS Panzer Korps HQ. ~2 Pz III lg listed under Bef.
[124] II SS Panzer Korps, Daily reports for LSSAH, DR and SS-T 18.7–2.8.43, T354, R605, F000807-982; XXXXVIII.Pz-AK, XXXXVIII.Pz-AK daily reports for SS-T 18–20.7.43 T314, R1171, F000388-482; Zetterling, Niklas & Frankson, Anders, Kursk 1943: A Statistical Analysis, 187–88.
[125] Zetterling, Niklas & Frankson, Anders, Kursk 1943: A Statistical Analysis (London: Frank Cass, 2000), 187–88; II SS Panzer Korps, Daily reports for LSSAH, DR and SS-T 18.7–2.8.43, T354, R605, F000807-982; XXXXVIII.Pz-AK, XXXXVIII.Pz-AK, Daily reports for SS-T 18–20.7.43, T314, R1171, F000388-482; III Pz Korps, 1a Anlage z, KTB Band 1 & 2, DR Tagesmeldung, 9–21.8.43, T314, R201; III Pz Korps, 1a Anlage z, KTB Band 1 & 2, SS-T Tagesmeldung, 9–22.8.43, T314, R201.
[126] PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR & SS-T, Fahrgestell-Nr. Pz.kpf.Wg. 1–2.7.43, T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR & SST, Gep. Kfz. Bestandsmeldung. 1–2.7.43 & 10.7.43, T313, R390; AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F000441.
[127] AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F000441; II SS Panzer Korps, Ingenieur, Betr.: Kinsatz Raum Belgorod. 5–18.7.43, updated to 22.7.43 (written 28.7.43), T354, R607, F000629-31; II SS Panzer Korps, LSSAH, Rgt.Bef.Std., 27.7.43, T354, R607, F000825; II SS Panzer Korps, DR & SS-T Ia 667/43 & 668/43, 28.7.43, T354, R605, F000879-80; II SS Panzer Korps, LSSAH Ia, Tagesmeldung für den 24.7.43, T354, R605, F000867; Images of the tanks retained by the LSSAH can be found on the following website: https://www.thirdreichmedals.com/article/WSS.html; Jentz, Thomas, (ed.) Panzer Truppen II,p.136; Gen Insp. d Pz Truppen, Waffen SS monthly divisional Meldung and OB charts, LSSAH, 1.9.43, T78, R719; See June/July 1943 delivery reports for 5 LSSAH Tigers, 4 LSSAH self-propelled guns and August delivery report for 53 LSSAH Pz IV on Sturmpanzer website; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, Gep. Kfz. Bestandsmeldung . 1.11.43, T313, R391.
[128] PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR & SS-T, Fahrgestell-Nr. Pz.kpf.Wg. 1–2.7.43, T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR & SST, Gep. Kfz. Bestandsmeldung. 1–2.7.43 & 10.7.43, T313, R390; AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F000441.
[129] II SS Panzer Korps, Daily reports for LSSAH, DR and SS-T 18.7–2.8.43, T354, R605, F000807-982; XXXXVIII.Pz-AK, XXXXVIII.Pz-AK daily reports for SS-T 18–20.7.43 T314, R1171, F000388-482; Zetterling, Niklas & Frankson, Anders, Kursk 1943: A Statistical Analysis, 30–31, 46, 187–88; Lukas Friedli, Repairing the Panzers: German Tank Maintenance in World War 2 Vol 1., 152, 154 and 160; III Pz Korps, 1a Anlage z, KTB Band 1 & 2, DR Tagesmeldung, 9–21.8.43, T314, R201; III Pz Korps, 1a Anlage z, KTB Band 1 & 2, SS-T Tagesmeldung, 9–22.8.43, T314, R201; XI Korps, 1a Anlagen z, KTB Band 13, SS-T Tagesmeldung, 15–21.9.43 & 28–30.9.43, T314, R493; Gen Insp. d Pz Truppen, Waffen SS monthly divisional Meldung and OB charts, LSSAH, DR & SS-T, 1.9.43, T78, R719; Gen.Insp.d.Pz.Truppen, Stabsoffizier für AOK 8, 5.10.43, T78, R619, F000836; Lukas Friedli, Repairing the Panzers: German Tank Maintenance in World War 2, Vol 2., 156.
[130] AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F000441; Gen Insp. d Pz Truppen, Waffen SS monthly divisional Meldung and OB charts, DR, 1.9.43, T78, R719; III Pz Korps, 1a Anlage z, KTB Band 1 & 2, DR Tagesmeldung, 11.8.43, T314, R201; See August delivery report for 10 DR Pz IV on Sturmpanzer website; II SS Panzer Korps, Verlauf des 2.8.43, T354, R606, F000059; II SS Panzer Korps,Daily reports for LSSAH, DR and SS-T 18.7–2.8.43, T354, R605, F000807-982; Zetterling, Niklas & Frankson, Anders, Kursk 1943: A Statistical Analysis, 187–88; III Pz Korps, 1a Anlage z, KTB Band 1 & 2, DR Tagesmeldung, 9–21.8.43, T314, R201.
[131] AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F000441; Gen.Insp.d.Pz.Truppen, Stabsoffizier für AOK 8, 5.10.43, T78, R619, F000836; Gen Insp. d Pz Truppen, Waffen SS monthly divisional Meldung and OB charts, SS-T, 1.9.43, T78, R719; II SS Panzer Korps, SS-T Fehlbestäde an Waffen und Grossgerät, 3.8.43, T354, R605, F001001; III Pz Korps, 1a Anlage z, KTB Band 1 & 2, SS-T Tagesmeldung, 9–22.8.43, T314, R201; Full delivery reports for all panzer, assault gun and self-propelled gun types are available from the Sturmpanzer website.
[132] PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, Fahrgestell-Nr. Pz.kpf.Wg. 1–2.7.43, T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, Gep. Kfz. Bestandsmeldung. 1.7.43 & 10.7.43, T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, Betr.: Totalausfälle an Pz.Kpfwg. und gep. Kfz. 1–10.7.43, written 12.7.43, T313, R390; II SS Panzer Korps, Ingenieur, Betr.: Kinsatz Raum Belgorod. 5–18.7.43, updated to 22.7.43 (written 28.7.43), T354, R607, F000629-31; AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F000441; II SS Panzer Korps, LSSAH Ia, Tagesmeldung für den 24.7.43, T354, R605, F000867; II SS Panzer Korps, DR & SS-T Ia 667/43 & 668/43, 28.7.43, T354, R605, F000879-80; Gen Insp. d Pz Truppen, Waffen SS monthly divisional Meldung and OB charts, LSSAH, 1.9.43, T78, R719; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, Gep. Kfz. Bestandsmeldung . 1.11.43, T313, R391; Full delivery reports for all panzer, assault gun and self-propelled gun types are available from the Sturmpanzer website; Zetterling, Niklas & Frankson, Anders, Kursk 1943: A Statistical Analysis (London: Frank Cass, 2000), 187–88; II SS Panzer Korps, Daily reports for LSSAH, 18.7–2.8.43, T354, R605, F000807-982. *This depends on which LSSAH Tiger was actually written off. #Includes 4 new Pak Sf. ~ Includes 5 new Tigers. 133PzAOK 4, O.Qu.V, DR, Fahrgestell.
[133] PzAOK 4, O.Qu.V, DR, Fahrgestell-Nr. Pz.kpf.Wg. 1.7.43, T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, DR, Gep. Kfz. Bestandsmeldung. 1.7.43 & 10.7.43, T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, DR and SS-T, Betr.: Totalausfälle an Pz.Kpfwg. und gep. Kfz. 1–10.7.43, DR & SS-T Lageskizzen written 23.7.43, T313, R390; II SS Panzer Korps, Ingenieur, Betr.: Kinsatz Raum Belgorod. 5–18.7.43, updated to 22.7.43 (written 28.7.43), T354, R607, F000629-31; AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F000441; II SS Panzer Korps, DR & SS-T Ia 667/43 & 668/43, 28.7.43, T354, R605, F000879-80; Full delivery reports for all panzer, assault gun and self-propelled gun types are available from the Sturmpanzer website; Zetterling, Niklas & Frankson, Anders, Kursk 1943: A Statistical Analysis (London: Frank Cass, 2000), 187–88; II SS Panzer Korps, Daily reports for DR, 18.7–2.8.43, T354, R605, F000807- 982; III Pz Korps, 1a Anlage z, KTB Band 1 & 2, DR Tagesmeldung, 9–21.8.43, T314, R201. *2 Pz III lg listed under Bef. #following day. ~previous day.
[134] PzAOK 4, O.Qu.V, SS-T, Fahrgestell-Nr. Pz.kpf.Wg. 2.7.43, T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, DR & SS-T, Gep. Kfz. Bestandsmeldung. 2.7.43 & 10.7.43, T313, R390; PzAOK 4, O.Qu.V, SS-T, Betr.: Totalausfälle an Pz.Kpfwg. und gep. Kfz. 1–10.7.43, SS-T Lageskizzen written 23.7.43, T313, R390; II SS Panzer Korps, Ingenieur, Betr.: Kinsatz Raum Belgorod. 5–18.7.43, updated to 22.7.43 (written 28.7.43), T354, R607, F000629-31; AOK 6, 1a, KTB 9, Zustandsberichte, Wochenmeldung über Panzer und Sturmgeschülzlage Stand 1.8.43 (written 6.8.43), T312, R1483, F000441; II SS Panzer Korps, SS-T Fehlbestäde an Waffen und Grossgerät, 3.8.43, T354, R605, F001001; II SS Panzer Korps, DR & SS-T Ia 667/43 & 668/43, 28.7.43, T354, R605, F000879-80; Full delivery reports for all panzer, assault gun and self-propelled gun types are available from the Sturmpanzer website; Zetterling, Niklas & Frankson, Anders, Kursk 1943: A Statistical Analysis (London: Frank Cass, 2000), 187–88; II SS Panzer Korps, Daily reports for SS-T 18.7–2.8.43, T354, R605, F000807- 982; XXXXVIII.Pz-AK, XXXXVIII.Pz-AK, Daily reports for SS-T 18–20.7.43, T314, R1171, F000388-482; III Pz Korps, 1a Anlage z, KTB Band 1 & 2, SS-T Tagesmeldung, 9–22.8.43, T314, R201. *2 Pak SF lost sometime between 11.7.43 and end of Mius operation. #Unlikely to be less than 6 as this number of SS-T Pak Sf was operational on 31.7.43. ~At some point after 2.8.43 two damaged pre-Zitadelle era SS-T Tigers 250 103 and 250 230 were sent to homeland maintenance and then converted into Sturmmörser 38 cm ‘Tiger’. In October 1944 250 103 was serving with Sturmmörser Kompanie 1001, while in December 1944 250 230 was serving with Sturmmörser Kompanie 1000. Delivery dates can be found at sturmpanzer.com
[135] II SS Panzer Korps, DR & SS-T Ia 667/43 & 668/43, 28.7.43, T354, R605, F000879-80; Gen Insp. d Pz Truppen, Waffen SS monthly divisional Meldung and OB charts, LSSAH, 1.9.43, T78, R719; PzAOK 4, O.Qu.V, LSSAH, Gep. Kfz. Bestandsmeldung . 1.11.43, T313, R391.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét