Trước chiến tranh thế giới thứ nhất , binh chủng pháo dã chiến của đế chế Đức có 3 phương pháp bắn chính :
1) Bắn trực tiếp : pháo thủ nhìn thấy mục tiêu trong kính ngắm của mình .
2) Bắn gián tiếp với đồn trinh sát pháo binh : pháo thủ không nhìn thấy mục tiêu , pháo được đặt trong vị trí ẩn nấp hoặc ở xa phía sau , bắn cẩu với đường đạn cầu vồng và giúp tầm bắn của pháo tăng lên đáng kể . Phương pháp được thực hiện dưới sự hỗ trợ của đồn trinh sát pháo binh triển khai lên phía trước để điều khiển hỏa lực pháo . Đây là phương pháp được phát triển sau chiến tranh Pháp-Phổ và được áp dụng rộng rãi kể từ sau chiến tranh Nga-Nhật .
3) Bắn gián tiếp với bản đồ lập sẵn : Phương pháp này thường được sử dụng vào ban đêm , sử dụng bản đồ 1:80 000 . Khu vực pháo kích rộng và độ chính xác không cao .
Vào giai đoạn vài tháng đầu Thế Chiến I , pháo binh Đức cơ động bằng ngựa cùng với tiền quân bộ binh vào vị trí và bắt đầu nã đạn về phía địch hệt như trong chiến tranh Pháp-Phổ . Tuy nhiên chỉ khoảng 1-2 tháng sau đó , chiến trường ở mặt trận phía Tây dần dần khựng lại và bước vào giai đoạn chiến tranh tiêu hao quanh các tuyến hầm hào . Do đó phương pháp 1) và 2) ngày càng hiếm khi được sử dụng , pháo binh các bên triển khai ở rất xa nhằm tận dụng tầm bắn tối đa và tránh hỏa lực phản pháo từ địch . Việc có thể ngắm bắn mục tiêu chính xác ở khoảng cách xa đòi hỏi kỹ thuật trinh sát pháo binh hiệu quả , giờ đây một pháo thủ cũng phải có cả kiến thức về hình học cũng như đo lường .Vào năm 1915 , pháo binh phe Hiệp ước hoàn toàn áp đảo pháo binh Đức về cường độ bắn phá cũng như hiệu quả trinh sát pháo binh .
Thượng tướng Ludendorff đã có nhận xét như sau :
''Theo một tài liệu chiếm được từ quân Anh , họ đã phát triển một hệ thống đo xa âm thanh trên lí thuyết tương đương với loại của chúng ta . Các biện pháp phù hợp đã được thực hiện nhằm ngụy trang âm thanh: ví dụ chỉ hiệu chỉnh pháo khi gió thổi ngược và nếu có hoạt động pháo binh đáng kể nào , nhiều khẩu đội sẽ khai hỏa cùng cùng , bắn cùng lúc từ các vị trí giả , v.v Người Anh cũng sử dụng các máy ghi âm tự động . Chúng ta cần phải chiếm được các máy này nếu có thể . Điều tương tự diễn ra ở chiến tuyến với quân Pháp'' .
Vào ngày 31/10/1916 , trường trinh sát pháo binh đã được thành lập ở Wahn nhằm đào tạo lực lượng trinh sát pháo binh hiệu quả trên chiến trường .
Hai phương pháp trinh sát pháo binh chính đã được nghiên cứu và phát triển vào thời điểm đó :
1) Phương pháp đo lường ánh sáng (Lichtmeßverfahren)
Ở phương pháp này , vị trí của mục tiêu sẽ được xác định bởi các đường kẻ trên bản đồ với thông số cung cấp bởi 2 hoặc nhiều hơn số trạm quan sát đổ lên đặt ở vị trí xa nhau , chiều rộng toàn bộ hệ thống thường vào khoảng 7-9km , tầm đo lường có thể lên tới 13-18km tùy địa hình . Vị trí của các trạm quan sát và điểm định hướng chính sẽ được xác định sẵn trên bản đồ , các trạm quan sát quan binh có thể là dạng cơ động hoặc xây dựng thành lô cốt nếu vị trí có thể được sử dụng lâu dài . 2 dạng lô cốt thường được dùng là loại Regelbau 519a/b và Regelbau 120/121a với tháp pháo bọc thép xoay được .
Ngay khi phát hiện chớp lửa đầu nòng hoặc khói phụt lên từ khẩu đội địch , các trạm quan sát sẽ nhắm thước đo góc về phía mục tiêu và tiến hành đo góc giữa đường kẻ từ vị trí hiện tại đến mục tiêu và đường kẻ từ vị trí hiện tại đến điểm định hướng chính . Góc đo được sẽ báo về trạm đo lường ở phía sau bằng điện thoại hoặc radio . Tại trạm đo lường sau khi sĩ quan chỉ huy nhận được các thông số về góc sẽ tiến hành kẻ các đường thẳng từ các trạm quan sát ấy , giao điểm của các đường thẳng sẽ là vị trí mục tiêu .

Nhiệm vụ tiếp theo của nhóm đo lường ánh sáng là hiệu chỉnh đường đạn của khẩu đội pháo binh . Ở giai đoạn này khẩu đội chỉ khai hỏa với 1 hoặc 2-3 khẩu pháo bắn đạn nổ mạnh với ngòi hẹn giờ sao cho đạn nổ cách mặt đất khoảng vài mét . Điều này nhằm giúp các trạm quan sát có thể quan sát điểm rơi của đạn tốt hơn , ít bị vật cản che khuất cũng như khiến địch không nghĩ rằng mình đang bị tấn công . Sau khi xác định vị trí điểm rơi của đạn , sĩ quan chỉ huy tiên hành điều chỉnh đường đạn bằng khẩu lệnh , ví dụ như sau :
Phát thứ nhất : ''100m quá thiếu , sang phải 200m''
Phát thứ hai : ''50m quá thừa , sang trái 100m''
Phát thứ ba : ''Trúng mục tiêu''
Tùy vào kinh nghiệm , kỹ năng của tổ vận hành cũng như điều kiện môi trường , thời gian hiệu chỉnh đường ngắm có thể mất từ 1-15 phút.
Sau khi có được đường ngắm chính xác , toàn bộ khẩu đội chuyển sang bắn hủy diệt (Vernichtungsschießen) - sử dụng đạn nổ mạnh ngòi nổ chạm và bắn vô lê cùng lúc , tiêu diệt mục tiêu .

Ảnh : Lô cốt trinh sát phản pháo
2) Phương pháp đo lường âm thanh (Schallmeßverfahren)
Phương pháp này được sử dụng trong điều kiện sương mù và vào ban đêm khi phương pháp đo lường ánh sáng không thể thực hiện được . Thiết bị đo lường âm thanh ban đầu khá thô sơ : gồm 2 loa hấp thụ âm thanh đặt cách xa nhau . Thiết bị được đưa vào trang bị từ năm 1916 với nguyên lí hoạt động khá đơn giản : nếu thời gian tiếng nổ từ khẩu đội địch đến hai bên tai chênh lệch nhau nghĩa là người sử dụng đang xoay thiết bị lệch hướng khỏi mục tiêu . Bởi thời gian tiếng nổ từ phát bắn của khẩu đội địch diễn ra rất nhanh cũng như tiếng ồn gây nhiễu khiến thiết bị hoạt động kém chính xác và không hiệu quả .

Một kỹ thuật đo lường âm thanh khác được phát triển bởi tiến sĩ Leo Löwenstein và thực hiện bởi Hội đồng quân sự đế chế từ ngày 25/1/1916 , sử dụng sự chênh lệch âm thanh giữa nhiều trạm thu âm ở vị trí khác nhau để tính toán vị trí nguồn phát . Hệ thống gồm một trạm kiểm soát ở tiền phương , các trạm thu âm ở phía sau đặt ở vị trí yên tĩnh và trạm đo lường . Tại trạm kiểm soát tiền phương , nếu nghe thấy âm thanh khai hỏa lực pháo binh địch hoặc chớp lửa đầu nòng các trinh sát vận hành sẽ sử dụng điện thoại để báo với các trạm thu âm ở phía sau . Tại các trạm thu âm ở phía sau các tổ vận hành tiến hành bấm đồng hồ trên tay ngay khi có tín hiệu từ trạm kiểm soát tiền phương , sau đó khi âm thanh khai hỏa từ khẩu đội địch dội tới thì sẽ dừng đồng hồ và báo thời gian lại cho trạm đo lường . Trạm đo lường sử dụng dữ liệu về độ chênh lệch thời gian để tính toán vị trí của mục tiêu . Tuy nhiên độ chính xác của kỹ thuật vận hành này rất thấp bởi tốc độ phản ứng của mỗi người mỗi khác và chỉ cần sai số khoảng 0.2 giây thì độ chênh lệch vị trí có thể lên tới 60m , do đó hệ thống tự động với các microphone được sử dụng để thay thế con người . Hệ thống được sản xuất hàng loạt từ cuối năm 1917 với 3 bộ phận chính : Trạm kích hoạt , Trạm thu âm và Trạm đo lường . 1-2 trạm kích hoạt sẽ được đặt gần chiến tuyến , ngay khi khẩu đội địch khai hỏa , hệ thống sẽ kích hoạt các microphone và máy đo lường . Khi microphone từ các trạm nhận được âm thanh , tín hiệu sẽ được truyền đến máy đo lường . Mỗi một microphone sẽ được kết nối với một cây bút lông vũ nhúng mực , dao động âm sẽ được bút vẽ trên một dải giấy chạy với tốc độ 2cm/s . Sĩ quan vận hành sau đó sẽ dùng thước để đo khoảng chênh lệch thời gian nhận tín hiệu giữa các cảm biến và dựa vào đó tính toán vị trí mục tiêu bằng phương pháp định vị bằng phương trình hyperbol . Tôi đã làm mẫu một ví dụ ở bên dưới .
Chiều rộng toàn bộ hệ thống vào khoảng 10-12km , khoảng cách đo lường lên tới 12-15km tùy vào địa hình . Do vận tốc âm thanh phụ thuộc vào điều kiện môi trường (ví dụ ở nhiệt độ 3,5° C , độ ẩm 78% và không có gió , vận tốc âm thanh được xác định ở mức 333m/s) , nên hệ thống cần có thông tin khí tượng chính xác và kịp thời để có thể hoạt động hiệu quả.
Về tổ chức :
Vào năm 1939 , mỗi Tiểu đoàn trinh sát pháo binh (Beobachstungabteilung) được biên chế tương tự như Thế chiến I với

- Sở chỉ huy gồm sĩ quan chỉ huy , đội ngũ sĩ quan phụ tá , tiểu đội cảnh giới , trung đội liên lạc với tiểu đội radio và tiểu đội điện thoại , trung đội khí tượng , tiểu đội in ấn , tiểu đội sửa xe cơ giới và đoàn vận tải
-Khẩu đội 1 (Khẩu đội đo lường) gồm sĩ quan chỉ huy , tiểu đội cảnh giới , 3 trung đội đo lường , trung đội trắc địa , tiểu đội sửa xe cơ giới và đoàn vận tải
-Khẩu đội 2 (Khẩu đội đo lường ánh sáng) gồm sĩ quan chỉ huy , tiểu đội cảnh giới , 2 trung đội đo lường ánh sáng , 1 phân đội đo lường ánh sáng , 1 trung đội trắc địa , tiểu đội sửa xe cơ giới và đoàn vận tải . Mỗi trung đội đo lường đều có 1 tiểu đội radio và 1 tiểu đội điện thoại .
-Khẩu đội 3 (Khẩu đội đo lường âm thanh) gồm sĩ quan chỉ huy , tiểu đội cảnh giới , 2 trung đội đo lường âm thanh , 1 phân đội đo lường âm thanh , 1 trung đội trắc địa , tiểu đội sửa xe cơ giới và đoàn vận tải . Mỗi trung đội đo lường đều có 1 tiểu đội radio và 1 tiểu đội điện thoại .
Riêng các Tiểu đoàn trinh sát pháo binh 1 , 4 , 5 và 6 được biên chế thêm khẩu đội khí cầu gồm sĩ quan chỉ huy , tiểu đội cảnh giới , trung đội liên lạc với 3 tiểu đội radio và 3 tiểu đội điện thoại , trung đội khí cầu với tiểu đội khí cầu và tiểu đội cứu kéo , trung đội trắc địa , 2 phi đội bơm hơi , trung đội phòng không hạng nhẹ , tiểu đội sửa xe cơ giới và đoàn vận tải . Khẩu đội khí cầu sử dụng phương pháp đo lường ánh sáng .
Vào năm 1939 , mỗi Tiểu đoàn trinh sát pháo binh sẽ hỗ trợ cho Trung đoàn pháo dã chiến thuộc 35 Sư đoàn bộ binh mạnh nhất ngoại trừ Sư đoàn bộ binh 46 ( 1., 3., 4., 5. , 6., 7., 8., 9., 10., 11., 12., 14., 15., 16., 17., 18., 19., 21., 22., 23., 24., 25., 26., 27., 28., 30., 31., 32., 33., 34., 35., 36. , 44. , 45. ) , trong tổng số 43 Sư đoàn bộ binh tham gia chiến dịch ở Ba Lan . Cuối năm 1939 vì tốc độ mở rộng quy mô quân đội bằng dự bị động viên quá nhanh dẫn đến việc không thể sản xuất đủ các thiết bị cho các Tiểu đoàn trinh sát pháo binh mới . Do đó vào tháng 12/1939 , toàn bộ các Tiểu đoàn tách khỏi Trung đoàn pháo dã chiến và trở thành đơn vị cấp Tập Đoàn Quân , hỗ trợ cho toàn bộ pháo binh của các Sư đoàn dưới quyền . Kể từ năm 1942 , toàn bộ 4 Khẩu đội khí cầu đều bị giải tán
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét