Thứ Tư, 27 tháng 7, 2022

CHƯƠNG 1 : HẬU DUỆ GRANDE ARMÉE

1 - Tổng quan

Vào năm 1870 , quân đội Pháp hoạt động theo hệ thống hầu hết được xây dựng từ thời kỳ quân chủ tháng bảy (1830 - 1848) . Theo đó tổng tư lệnh là Hoàng Đế , ông có quyền bổ nhiệm các vị trí chỉ huy khác nhau .   Bộ chiến tranh quản lí việc tổ chức , trang bị , tiếp tế và nhân lực nhưng không có quyền chỉ huy quân đội . Etat Major Général de l'Armée (Bộ Tổng Tham Mưu) được thành lập vào năm 1839 bao gồm tất cả các  Thống chế và tướng lĩnh của quân đội . Vào thời bình , tối đa 6 người mang hàm Thống chế  và có thể tăng lên 12 vào thời chiến nhằm hỗ trợ Hoàng  Đế, tuy nhiên không có một quy định cũ thể nào về vai trò của Bộ Tổng Tham Mưu nên cách sử dụng nó hoàn toàn phụ thuộc vào chỉ huy

  Các đơn vị chiến đấu được tổ chức thành Trung Đoàn . Vùng lãnh thổ  được phân chia thành các Quân Đoàn, tuy nhiên mặc cho cách gọi này Quân Đoàn không phải là đơn vị chiến thuật mà chỉ là đơn vị quản lý , cung cấp hậu cần cho các Trung Đoàn thuộc khu vực (Tương tự Quân Khu) trong thời bình  - có thể nói quân đội Pháp là tập hợp của các Trung Đoàn .7 Quân Đoàn gồm Paris , Lille , Lyon ,Nancy , Toulouse , Tours và  Algiers , và các quân đoàn chia thành các phân khu và cục . Việc tổ chức các cuộc tâp trận quy mô lớn cực kỳ khó khăn bởi các tư lệnh Quân Khu chỉ có quyền quản lí nhưng không có quyền chỉ huy các đơn vị thuộc quân khu của mình .

Do vậy cho đến khi chiến tranh nổ ra năm 1870 , quân đội Pháp không hề có một Sư Đoàn hay Quân Đoàn trực chiến vào thời bình tương đương với Phổ mà chỉ được thành lập bởi Louis Napoleon ngay sau đó .

Việc tổ chức các cuộc tập trận lớn cực kỳ khó khăn , quá trình tổ chức các cuộc tập trận này  đòi hỏi hệ thống doanh  trại dã chiến có sức chứa 10000 người và phải đến tận năm 1856 Napoleon III mới xây dựng xây dựng một doanh trại như vậy rộng 10 000 héc ta ở Châlons . Bộ binh , kỵ binh và pháo binh có thể tập trận cùng nhau tại đây nhưng các cuộc tập trận được tổ chức một cách cứng nhắc không đem lại nhiều kinh nghiệm cho các tướng lĩnh dù các chỉ huy trung đoàn có thể có chút kinh nghiệm , chúng thường được lên kế hoạch trước từng nước đi một và phe đóng vai  Pháp luôn giành chiến thắng , các chỉ huy cấp cao thường không phải quyết định hoặc thay đổi kế hoạch nhiều . Thâm chí một có cuộc tập trận mà chẳng khác gì tái hiện lại trận Austerlitz 1805 - một cuộc tập trận trông giống với biểu diễn hơn . Cơ sở được thiết kế để có thể huấn luyện cùng lúc 2 -3  Sư Đoàn trong khoảng thời gian 3
tháng và chỉ khoảng 30 tướng lĩnh - 1/8 số tướng lĩnh của Pháp có thể tham gia các cuộc tập trận mỗi năm .

Một số vấn đề cũng diễn ra ở các cấp độ thấp hơn , thu nhập của các sỹ quan cấp thấp ít hơn so với các công việc thường dân khác , quá trình thăng cấp diễn ra chậm chạp và thường xuyên xảy ra hiện tượng thiên vị cũng như ảnh hưởng quan hệ , trung bình một Trung úy Pháp có tuổi thọ khoảng 37 , Đại úy 45 và Thiếu tá 47 , trong chiến tranh Pháp - Phổ 1870 không ít các hạ sỹ quan khác ở độ tuổi 50 - 60 già hơn những người đồng cấp Phổ khoảng 30 tuổi - đây đều là những người không thể hòa nhập xã hội nên buộc phải trở lại quân ngũ, nên mới làm cản trở sự thăng tiến của họ đến vậy .Các yêu tố này khiến việc gia nhập quân đội không hề mặn mà với các chàng trai trẻ . Các chỉ huy cấp cao của  Pháp không được đào tạo các chương trình huấn luyện mà dựa vào kinh nghiệm thăng tiến của mình để lãnh đạo . Thành công trong các chiến dịch quân sự trước đó của  Pháp cho thấy không có gì bất thường trong cách vận hành này , khi tướng Louis-Jules Trochu cho xuất bản cuốn l'Armée Français en 1867 trong đó chỉ ra nhiều điểm yếu của quân đội Pháp , ông đã bị chỉ trích là quá phê bình và phía Hoàng Gia không hề hài lòng về chuyện này . Tuy nhiên  
Adolphe Niel - Bộ trưởng chiến tranh Pháp từ 1867 đã nhận ra nhiều điểm yếu và tiến hành cải cách quân đội , dựa trên mô hình của Phổ . Nhưng không may khi các cải cách đang được thực hiện hiện thì  Niel qua đời vào năm 1869 và cuộc chiến diễn ra chỉ 1 năm sau đó khi quá trình cải cách vẫn chưa hoành thành .

Quân đội đế chế gồm 6 quân chủng : Bộ binh , Kỵ binh , Pháo binh , Công binh , Hậu cần , Tham mưu . Mỗi binh chủng được chia tiếp thành nhiều phân loại khác nhau ví dụ Kỵ binh gồm các loại Thiết kỵ , Khinh kỵ , Thương kỵ , v.v

Etat Major Général de l'Armée (Bộ Tổng Tham Mưu) được thành lập vào năm 1839 bao gồm tất cả các  Thống chế và tướng lĩnh của quân đội . Vào thời bình , tối đa 6 người mang hàm Thống chế  và có thể tăng lên 12 vào thời chiến, nhiệm vụ của cơ quan này  là giúp hỗ trợ Hoàng đế trong việc chỉ huy quân đội  .

2-Hệ thống tham mưu

Hệ thống tham mưu được tổ chức bởi Thống chế Saint-Cyr nổi tiếng của Napoleon I vào năm 1818 , các sỹ quan tham mưu được lựa chọn dựa trên tài năng chứ không phải nguồn gốc quý tộc , các học viên tham mưu được tuyển chọn từ École polytechnique (Bách khoa Paris ) và các sỹ quan xuất sắc trong hàng ngũ  tham dự
École d'application du Corps royal d'état-major (Trường sỹ quan tham mưu Hoàng Gia ). Sau hai năm huấn luyện sẽ có một bài kiểm tra ,một sỹ quan sẽ được chọn làm Trung Úy tham gia một trong các trung đoàn thuộc bộ binh , kỵ binh hoặc pháp binh để lấy thêm kinh nghiệm thực tiễn và sau cùng được thăng hàm Đại Úy chính thức được giao các nhiệm vụ tham mưu . Lực lượng tham mưu bị giới hạn ở mức 580 sỹ quan với các nhiệm vụ được giao từ tình báo , lưu trữ  / xử lí thông tin , nghiên cứu quân đội nước ngoài , các công việc quản lý ở Quân  Đoàn hoặc làm Aides de camp (Phụ tá) cho chỉ huy trên chiến trường . Các sỹ quan tham mưu thường hay bị các sỹ quan tiền tuyến ghen tị và gọi họ là ‘’Những quý ông trẻ chứ không phải một người lính thực thụ’’ , điều này cũng đúng một phần bởi một số sỹ  quan tham mưu làm việc bàn giấy nhiều đến mức quên một số kỹ năng ngoài chiến trường như cưỡi ngựa.

 Trong vai trò phụ tá , nhiệm vụ của các sỹ quan này là hỗ trợ chỉ huy quản lý các vấn đề tiếp tế , nhất là khi kích thước của các đội quân ngày càng lớn  người chỉ huy càng khó khăn hơn trong việc kiểm soát các lực lượng của mình thì bộ phận tham mưu lại càng quan trọng hơn . Tuy nhiên , khác với sỹ quan tham mưu quân đội Phổ thì sỹ quan tham mưu Pháp giống với một trợ lý của chỉ huy hơn , thường xuyên giải quyết các công việc giấy tờ nhưng không tham gia cố vấn chỉ huy , mọi quyết định và kế hoạch đều phụ thuộc vào chỉ huy . Điểm yếu lớn nhất của hệ thống tham mưu quân đội Pháp nằm ở ban tham mưu  Quân Đoàn , khi một sỹ quan tham mưu Quân Đoàn nằm dưới sự chỉ huy của Tư lệnh , một Lữ tướng (général de brigade) , Phó tư lệnh - Đại tá hoặc Trung tá . Các vị tư lệnh Quân Đoàn này không được quyền lựa chọn sỹ quan tham mưu mà các vị trí  được bố trí bởi Bộ trưởng bộ chiến tranh . Điều này dẫn đến nhiều trường hợp mà các chỉ huy không hề ưa thích tham mưu của mình như Jarras - tham mưu của thống chế Bazaine , sẽ được nói rõ hơn ở các chương sau . Dẫn đến việc các chỉ huy hay lựa chọn thêm một nhóm sỹ quan - thường là bạn bè , người quen để giúp việc và các mệnh lệnh thường được truyền xuống qua nhóm sỹ quan này hơn khiến vai trò của tham mưu bị mờ nhạt . Một điểm yếu khác của hệ thống tham mưu quân đội Pháp là việc không có Tổng tham mưu trưởng hay vị trí nào tương đương của von Molke trong quân đội  Phổ , điều này dẫn đến việc Louis Napoleon sẽ không có bất kì một kế hoạch tác chiến nào được vạch ra trong thời bình , và Hoàng Đế sẽ  chỉ chọn một Thiếu tướng làm tham mưu tạm thời cho mình khi cần thiết. Việc thiếu một kế hoạch chiến tranh sẽ là một vấn đề nghiêm trọng trong chiến dịch sắp tới gây nên sự hỗn loạn trong quá trình triển khai  , như  trong chiến tranh Pháp - Áo 1859 , bộ tư lệnh Pháp không có bất kì một tấm bản đồ  chi tiết nào trong khu vực giao chiến và trong cuộc khủng hoảng Luxemburg , Louis Jarras - tham mưu quân đội Pháp chỉ có một tấm bản đồ Vương quốc Phổ tỉ lệ
1:320 000 lớn gấp bốn lần tỉ lệ bản đồ Đế chế Pháp của quân đội Phổ . Jarras định giải quyết vấn đề bằng cách cắt tấm bản đồ làm bốn phần , chụp ảnh sau đó phóng to lên, Adolphe Niel - Bộ trưởng chiến tranh Pháp đã ngăn cản ý định này và quyết định rằng sẽ để cho các sỹ quan mua bản đồ từ hiệu sách .

3 - Hệ thống hậu cần

Intendance- Ban hậu cần có vai trò cung cấp các đơn vị chiến thuật cũng như quản lí các bệnh viện , nhà ngục . Trong thời bình ban hậu cần nằm dưới sự quản lí của Bộ chiến tranh và vào thời chiến , thuộc Bộ Tư Lệnh quân đội . Trong chiến tranh Crimea cơ quan này đã thể hiện rất tốt khi liên hệ với một công ty thương mại để cung cấp thực phẩm cho quân đội nhưng trong các chiến dịch tại Ý và Mexico lại xuất hiện một số vấn đề khó khăn trong việc tiếp tế và những vấn đề này sẽ tiếp tục xuất hiện trong chiến dịch sắp tới , dù hàng hóa có đầy đủ nhưng không thể vận chuyển và phân phối một cách hiệu quả , phần nhiều do việc thiếu kế hoạch chiến tranh dẫn đến sự hỗn loạn trong giai đoạn triển khai quân đội .

Ban hậu cần vận chuyển các loại tiếp tế thông qua 3 Trung đoàn Train des Équipages Militaires - Kíp tàu quân sự (48 Đại đội) cùng 4 đại đội Ouviriers Conducteurs - thợ máy cùng với các đại đội Troupes d’Administration - Đại đội phân phối .

Tiềm năng vận chuyển số lượng lớn quân số trong thời gian ngắn bằng đường sắt là rất lớn ,  cũng tương tự với máy bay vận tải ngày nay . Năm 1850 chỉ trong vòng 3 tuần quân đội Áo đã tập hợp và di chuyển 75000 quân cùng 8000 con ngựa đến khu vực biên giới Silesian sử dụng mạng lưới đường sắt  , cuộc triển khai này được sử dụng làm đòn đánh ngoại giao với Phổ .

’’Mỗi một quá trình cải tiến đường sắt đều làm là một lợi ích quân sự và phòng thủ quốc gia , chúng ta có nhiều lợi ích hơn khi chi tiêu vào đường sắt hơn là các pháo đài’’ - Thiếu tá Helmut von von Moltke ,1842- Tổng tham mưu trưởng quân đội Phổ tương lai




Từ khi lên nắm quyền , Louis Napoleon đã đầu tư mạnh vào hệ thống đường sắt của Pháp với chiều dài mạng lưới tăng gấp 5 lần từ 2000 dặm năm 1851 lên 10 600 dặm năm 1870 . Trong quá trình xây dựng các công ty tư nhân được hỗ trợ ngân sách để xây dựng các tuyến đường sắt , các tuyến đường được quyết định bởi một hội đồng bao gồm tư nhân lẫn công chức,trong một số trường hợp các tuyến đường được quyết định bởi quân đội . Kết quả là đôi lúc các tuyến đường được xây dựng một cách cạnh tranh quyết liệt giữa : Tư nhân vì lợi ích , Bộ chiến tranh vì các tuyến đường chiến lược và Bộ Tài chính vì lo sợ chi phí xây dựng tăng cao



Các tuyến đường sắt được xây dựng quanh các nút giao lớn như Paris , mạng lưới đường sắt tỏa ra theo hình mạng nhện với đủ các loại khổ ray khác nhau . Cơ sở hạ tầng đường sắt của Pháp  tốt hơn so với Phổ cùng thời , do có ít công ty tư nhân đường sắt hơn nên khổ ray có thể dễ dàng thống nhất , các tuyến đường chạy đến biên giới phía Đông chỉ do một công ty duy nhất quản lý - Compagnie de l’Est và 4/5 các tuyến đường là các tuyến đường sắt hai chiều giúp các chuyến tàu qua lại khỏi mặt trận không cần phải chuyển sang trạm chờ với các mốc thời gian phức tạp.



Kinh nghiệm từ Nội Chiến Mỹ cho thấy việc phối hợp giữa quân đội và quản lý tư nhân giữa các trạm dẫn đến sai mốc thời gian hoặc đi sai hướng , hậu quả là tình trạng xếp hàng dài giữa các toa xe và các nhân viên phải tìm từng toa xe một để di chuyển đúng hướng - một quá trình có thể kéo dài hàng ngày hoặc hàng tuần . Rút kinh nghiệm từ đó vào năm 1870 chỉ 4 ngày sau khi chiến tranh nổ ra các tuyến đường chính Est , Nord, Quest , Orléans và Paris - Lyon đều nằm hoàn toàn dưới sự quản lý của Bộ Chiến Tranh bao gồm cả nhân lực và các trang thiết bị .

Hệ thống quân y cũng được quản lý bởi Intendance , năm 1870 quân đội Pháp có 1147 bác sĩ . Trong cuộc triển khai đầy hỗn loạn vào đầu chiến tranh , chỉ có  173 bác sĩ đến được mặt trận vào tháng 8 và Quân đoàn 1 không có phần lớn các xe cứu thương của mình , kết quả là ở những trận đánh đầu tiên hàng ngàn thương binh bị bỏ lại do không đủ phương tiện vận chuyển



4 - Hệ thống quân dịch

’’Vào thời đại của các loại vũ khí hủy diệt tầm xa , một lực lượng nhỏ…kết hợp với
thiên tài quân sự cùng tinh thần có thể giành được những chiến thắng anh hùng trước một lực lượng đông gấp nhiều lần. Liệu có tốt không nếu một đội quân có 200 nghìn người nhưng chỉ 100 nghìn thực sự chiến đấu và nửa còn lại biến mất theo hàng tá cách khác nhau ?’’ -  Đại tá Ardant du Picq - nhà lý thuyết chiến lược quân đội Pháp .

Đây là triết lý đi ngược lại hoàn toàn với di sản trước đó của Đệ nhất Cách mạng khi Pháp là quốc gia cho ra đời khái niệm Levée en Masse - ‘’Nghĩa vụ quân sự’’ thì giờ đây quân đội Pháp những năm 1860 sử dụng hệ thống quân dịch hạn chế và xoay quanh một đội quân chuyên nghiệp .
Hệ thống quân dịch này được xây dựng dựa trên đạo luật Saint-Cyr năm 1818 . Mọi công dân nam đủ tuổi đều tham gia bốc thăm , ai trúng lá thăm đều phải tham gia nghĩa vụ quân sự 7 năm hoặc tìm 1 người thay thế . Năm 1855 một đạo luật chỉnh sửa rằng chỉ có thể tráo đổi với người thân trong gia đình, các phần thưởng khi nhập ngũ hoặc tái ngũ được treo để khuyến khích việc này .

Trong khi đó sau thất bại kinh hoàng trước Napoleon tại Trận Jena–Auerstedt 1807 đã khiến nước Phổ thực hiện các cuộc cải cách mạnh về xã hội lẫn quân đội , chuyển từ hệ thống quân đội chuyên nghiệp sang lực lượng quân dịch quy mô lớn học hỏi theo mô hình của Napoleon .

’’Đã qua đi những năm tháng mà những đội quân nhỏ bao gồm những người lính chuyên nghiệp ra trận để chinh phục một thành phố , một tỉnh và sau đó nghỉ vào mùa đông hoặc đàm phán hòa bình . Các cuộc chiến tranh ngày nay đòi hỏi toàn bộ một quốc gia phải được được vũ trang’’  - Thống chế Helmut von Moltke 1891 - Tham mưu trưởng quân đội Đế chế Đức.

So sánh giữa hai hệ thống quân dịch Pháp và Phổ sẽ được nói rõ thêm ở chương 2

Sau thất bại của Áo trong chiến tranh Áo - Phổ năm 1866 , Bộ trưởng chiến tranh Pháp Adolphe Niel là người đi tiên phong trong việc cải cách quân đội theo mô hình quân đội Phổ , hệ thống quân dịch là một trong số đó . Sau 16 tháng tranh cãi  , năm 1868 Đạo luật Niel được ban hành. Hệ thống mới vẫn giữ nguyên quá trình bốc thăm  tuy nhiên thời gian phục vụ giảm từ 7 năm xuống 5 năm Những ai bị bốc trúng phải phục vụ 5 năm hoặc 
 trả một khoản chi phí để được miễn phục vụ - gây nên sự bất công lớn giữa những tầng lớp giàu và nghèo , sau 5 năm phục vụ . 4 năm tiếp theo sẽ nằm trong lực lượng dự bị . Những người không trúng lá thăm phải phục vụ cho  Garde Nationale - Vệ binh quốc gia hoặc Garde Mobile- Vệ binh Cơ động (Khác Vệ Binh Đế Chế của Hoàng Gia) . Sự khác biệt là một là lực lượng đồn trú còn lực lượng còn lại có thể di chuyển đến vị trí cần thiết . Thời gian phục vụ trong Vệ Binh là 5 năm và có thể về nhà vào buổi tối . Sự thay đổi này hi vọng có thể giúp  Pháp trong thời chiến sở hữu quân đội 800 000 người cùng với 400 000 Vệ Binh Cơ Động vào năm 1875 . Tuy nhiên khi những cải cách quân đội đang được thay đổi thì  Adolphe Niel qua đời cộng với việc chiến tranh nổ ra năm 1870 giữa lúc quân đội Pháp đang chuyển đổi giữa hai hệ thống càng làm tăng sự hỗn loạn trong quá trình huy động quân số .  Một điểm yếu nữa là các Trung Đoàn mộ binh từ khắp cả nước thay vì mộ binh theo vùng miền như hệ thống của Phổ , điều này là bởi quân đội tin rằng sẽ giúp tăng sự đoàn kết thống  nhất dân tộc và  hạ chế chủ nghĩa đặc thù , điều này sẽ dẫn đến một số rối loạn trong quá trình huy động quân số tổng lực sắp tới dẫn đến việc nhiều người không thể tìm thấy Trung Đoàn của mình vào đầu cuộc chiến

Vào tháng 7 năm 1870 Pháp sẽ chiến đấu với lực lượng chính quy  277 000 quân cùng 173 000 dự bị thuộc hệ thống mới, phần lớn chưa trải qua quá trình huấn luyện đầy đủ . Khoảng 50% trong số lực lượng chính quy là quân nhân chuyên nghiệp đã phục vụ trong quân đội từ 7 tới 21 năm . Quân đội Pháp dự định dựa vào trình độ của lực lượng này làm yếu tố cân bằng với lực lượng đông đảo dự bị của Phổ ,yếu tố sẽ ảnh hưởng đến chiến lược đầu cuộc chiến sẽ được nói rõ ở chương sau .

5 - Các lực lượng chiến đấu

5.1 Tuyến binh

Lực lượng chủ lực của quân đội Pháp gồm : Bộ binh tuyến , Khinh binh , Thiết kỵ , Long kỵ , Thương kỵ , Khinh kỵ , Pháo bộ và Pháo kỵ .Vào năm 1870 quân đội Pháp có

- 100 Trung đoàn Bộ binh tuyến (Infanterie de Ligne) , 20 tiểu đoàn Khinh binh (Chasseurs à Pied)
- 10 Trung đoàn Thiết kỵ (Cuirassier) , 12 Trung đoàn  Long kỵ (Dragons) , 8 Trung đoàn Thương kỵ (Lanciers) , 12 Trung đoàn Chasseurs à Cheval và 8 Trung đoàn Hussars
- 15 Trung đoàn pháo bộ , 4 Trung đoàn pháo kỵ và 5 Trung đoàn pháo đài

Các đội hình chiến thuật cấp Sư  Đoàn và Quân Đoàn chỉ được thành lập khi chiến tranh nổ ra . Năm 1870 vào giai đoạn đầu cuộc chiến ,  9 Corps d’Armée (Quân Đoàn) được thành lập đánh số từ 1 đến 9 cùng 1 Quân đoàn Vệ Binh Đế  Chế , Dự  bị Kỵ binh và Dự Bị Pháo binh .Trong quá trình diễn ra cuộc chiến , Quân Đoàn thứ 10 (số 13) được thành lập .

Các Quân Đoàn  2 , 4 , 5 , 7 ,12 và 13 được biên chế 3 Sư Đoàn Bộ Binh , 1 Sư Đoàn Kỵ Binh và Pháo binh Quân Đoàn (8 Khẩu đội)

Các Quân Đoàn 1 , 3 , 6 biên chế 4 Sư Đoàn Bộ Binh , 1  Sư Đoàn Kỵ Binh và Pháo binh Quân Đoàn

Sư Đoàn Bộ Binh - Division d'Infanterie 

Trong mỗi Quân Đoàn , các Sư Đoàn bộ binh được đánh số từ 1 đến 4 . Chỉ huy bởi Sư tướng - Général de division

Mỗi Sư Đoàn Bộ Binh được biên chế 2 Lữ đoàn Bộ Binh , 2 Khẩu đội pháo cỡ 4  và 1 Khẩu đội Mitrailleuse




Sư Đoàn được xây dựng dựa theo cấu trúc Bình phương (Square Divison) - 2 Trung Đoàn lập 1 Lữ Đoàn , 2 Lữ Đoàn lập 1 Sư Đoàn  (Không bao gồm các thành phần phụ trợ )và cấu trúc này sẽ được sử dụng đến tận Thế chiến 1

 1. Lữ Đoàn Bộ Binh

2 Lữ Đoàn Bộ Binh được đánh số từ 1 đến 2 trong mỗi Sư Đoàn là khung xương của Sư Đoàn Bộ Binh, chỉ huy bởi Lữ tướng - Général de Brigade
Mỗi Lữ Đoàn gồm 2 Trung Đoàn Bộ Binh Tuyến và 1 Tiểu Đoàn Khinh Binh .

Trung Đoàn Bộ Binh Tuyến - Régiment d'Infanterie de ligne



Mỗi Trung Đoàn bộ binh tuyến gồm 3 tiểu đoàn , đánh số từ 1 đến 3 và mỗi tiểu đoàn gồm 6 Đại Đội , mỗi Đại Đội gồm 120 người . Chỉ huy Trung Đoàn là Đại tá - Colonel

( Mỗi tiểu đoàn bộ binh tuyến có đến 8 Đại đội nhưng chỉ có 6 Đại đội chiến thuật và 2 Đại đội hậu phương.
Theo sắc Lệnh tháng 7 , các Đại đội 7 và 8 của tiểu đoàn 1 được sử dụng để thành lập các tiểu đoàn Tiểu Đoàn 4 (Dự bị) , các tiểu đoàn dự bị từ 3 trung đoàn khác nhau sẽ tập hợp để thành Lập các Trung Đoàn Hành Quân  -Régiment de Marche   ,một sắc lệnh tiếp theo vào ngày 13 tháng 8 yêu cầu các tiểu đoàn 2 và 3 bổ sung 2 Đại Đội 7 để đưa các tiểu đoàn dự bị lên 4 Đại đội . Các đại đội 8 của tiểu đoàn 2 và 3 được đưa lên làm dự bị trung gian )

 Trong hệ thống này , Tiểu đoàn là đơn vị chiến thuật cơ bản thấp nhất , có thể triển khai thực hiện các vai trò tác chiến độc lập tuy nhiên trong cuộc chiến sắp tới sẽ có không ít lần Tiểu đoàn bị vỡ ra thành các Đại đội chiến đấu riêng lẻ . Mỗi tiểu đoàn có 1 xe hạng nhẹ chở 12000 viên đạn súng trường

Biên chế đại đội :
+1 Đại úy - Capitaine
+1 Trung úy - Lieutenant
+1 Thiếu úy - Sous-Lieutenant - Người cầm lá quân kỳ trong đội hình duyệt binh
+1 Thượng sỹ - Sergent-major
+4 Trung sỹ - Sergents
+1 Hạ sỹ hậu cần - Fourrier - Hộ tống quân kỳ trong đội hình
+1 Nhạc sĩ Trống - Tambour
+1 Nhạc sĩ Kèn - Clairon
+1 Enfant de troupe ( Có độ tuổi nhỏ )
+8 Tiểu đội gồm 8 Hạ sỹ - Caporaux và 96 Lính trơn - Soldat (1 Tiểu đội gồm 1 Hạ sỹ , 12 lính trơn)


Trang bị cá nhân của một bộ binh gồm :
- Ba lô
- Túi đạn (105 viên đạn súng trường Chassepot)
- Túi chứa áo ghi lê
- Đai đeo hông
- Móc chứa lưỡi lê
- Bình nước
- Lều và chốt gỗ
- Lưỡi lê
- Súng trường Chassepot

Toàn bộ trang bị mang theo nặng khoảng 30kg









Trong chiến tranh Áo - Phổ , chứng kiến sự áp đảo của bộ binh Phổ so với bộ binh Áo , người Pháp bị ấn tượng trước súng trường Dreyse - loại súng trường lên đạn bằng khóa nòng trượt đầu tiên trên thế giới . Trước đó thì chỉ có súng thể thao hoặc súng săn mới sử dụng thiết kế nạp đạn từ khóa nòng trong khi quân đội chính quy của các nước Châu Âu tiếp tục sử dụng súng nạp từ đầu nòng thì vào năm 1840 , quân đội Phổ đặt hàng 60 000 khẩu súng trường Dreyse trang bị dần cho các đơn vị bộ binh .Đến năm 1866 đã có 270 000 khẩu Dreyse được đưa vào bên chế



loại súng trường mới sử dụng cơ cấu nạp đạn từ khóa nòng lắp ở cuối nòng , đầu đạn thuốc súng và ngòi nổ được chứa trong vỏ đạn giấy . Ngòi nổ được kích nổ bằng cơ cấu kim hỏa tích hợp trong khóa nòng .Khóa nòng là kiểu trượt , các thao tác nạp đạn đơn giản dễ dàng huấn luyện và có thể nạp đạn trong tư thế quỳ , nằm , tốc độ bắn lên tới 6 - 7 viên / phút .  Trong khi đó súng trường Lorenz được sử dụng bởi quân đội Áo và Mỹ là loại nạp đầu nòng truyền thống vốn được sử dụng phổ biến bởi quân đội các nước châu Âu thời điểm đó chỉ có tốc độ bắn tối đa 3 viên / phút bởi quá trình nạp đạn đòi hỏi nhiều độc tác phức tạp tuy đơn giản hơn nhiều so với các loại súng hỏa mai thời Napoleon . Đạn và thuốc súng cố định với nhau bằng vỏ giấy được cho vào nòng và đẩy xuống cuối nòng bằng que sau đó ngòi nổ riêng biệt sẽ được lắp ở bộ phận cò , không thể nạp đạn ở tư thế , nằm . Cũng chính vì điểm yếu này 
mà người bắn vẫn sẽ phải lộ nguyên hình trước họng súng địch khi nạp đan

Bộ binh Phổ
Bộ binh  Phổ                                                    Bộ binh Áo


Trong các trận đánh giữa bộ binh Phổ và Áo , không ít lần quân Áo triển khai các đội hình cột kiểu Napoleon tấn công bằng sức mạnh xung kích và giao chiến bằng lưỡi lê - phương pháp được học hỏi từ chính quân đội Pháp sau thât bại của Áo trong chiến tranh Pháp - Áo 1859 . Tuy nhiên khi các đội hình này còn chưa tiếp cận được mục tiêu thì đã hứng chịu các loạt đạn Dreyse cực kỳ sát thương  từ nhóm các Đại đội , trung đội phân tán của quân Phổ và kết quả là các đội hình dần vỡ  ra sau đó bị đánh bật ngược lại .Và chính vào thời điểm đó  quân Pháp cũng tác chiến bằng các đội hình xung kích tương tự Áo và trang bị súng trường Minié tương đương Lorenz.

Ngay lập tức sau đó vào tháng 8 năm 1866  , Louis Napoleon thúc giục  hoàn thiện và đưa vào biên chế mẫu súng trường nạp hậu của mình nhằm lấy lại lợi thế trước bộ binh Phổ - Súng trường Chassepot , thiết kế bởi  Antoine Alphonse Chassepot

Súng có khối lượng 4,635kg , nạp đạn bằng khóa nòng trượt, kích nổ bằng kim hỏa . Cỡ đạn 11mm với đầu đạn làm bằng chì cố định với thuốc súng và liều phóng bằng vỏ đạn giấy . 



Khác với súng trường Dreyse , đạn Chassepot có ngòi nổ đặt ở phía sau thay vì ở giữa giúp kim hỏa ngắn hơn cũng như ít bị bào mòn hơn khi khai hỏa . Đạn cỡ  11mm của Chassepot nhỏ hơn so với 15,2mm của Dreyse nên một người có thể mang được nhiều đạn hơn trong túi (105 so với 70)

Phần chốt khóa nòng được bọc cao su, nhập khẩu từ Đông Dương giúp buồng đốt được bịt kín hơn rất nhiều so với Súng trường Dreyse của Phổ , đạn đạt sơ tốc đầu nòng 400m/s và tầm bắn chính xác lên đến 1000m   , tầm bắn tối đa 1500m theo Bộ trưởng chiến tranh Niel , tuy nhiên  ở khoảng cách này thì  hầu như không thể nhìn rõ mục tiêu bằng mắt thường nên trên thực tế thường chỉ nổ súng ở khoảng cách gần hơn . Ở khoảng cách gần hơn Chassepot có đường đạn thẳng hơn so với Dreyse và ở giai đoạn cuối chiến tranh khi đã nhận thức rõ hỏa lực chính xác vượt trội của Chassepot , nhiều đơn vị bộ binh Phổ thường mở đầu cuộc tiến công bằng cách chạy thật nhanh đến tầm bắn Dreyse để tránh hỏa lực từ Chassepot




nh : Sức sát thương từ đạn của Chassepot và Dreyse ở khoảng cách gần  , Youtube : capandball

’’Xương bị vỡ hoàn toàn thành các mảnh nhỏ với kích thước chỉ bằng viên đạn’’ - Thử nghiệm sát thương súng trường Chassepot tại Strasbourg năm 1868 , bắn vào xác chết một người trung niên 5 lần ở các khoảng cách khác nhau . Tĩnh mạch ,động mạch bị nghiền nát và cơ bị xé ra .


     Ảnh : Lưỡi lê súng trường Chasepot

 

Chiến thắng của Phổ trước Áo trong cuộc chiến 1866 được Pháp nhìn nhận nhờ hỏa lực vượt trội của súng trường Dreyse và không nhận thấy rằng quân đội Phổ đã phải thay đổi chiến thuật tác chiến của mình nhằm phù hợp với sự phát triển của các loại vũ khí mới,  các loại súng bộ binh giờ đây có tầm bắn hiệu quả lên đến hơn  400m, xa gấp 5-6 lần tầm bắn hiệu quả của các loại súng hỏa mai thời Napoleon và với thiết kế khóa nòng giúp tăng tốc độ nạp đạn lên 2-3 lần thì hỏa lực của các loại vũ khí này càng khủng khiếp hơn dẫn đến việc tác chiến kiểu truyền thống sẽ trở thành những cuộc tấn công đẫm máu .

    nh : bộ binh Anh tấn công theo đội hình tuyến trong chiến tranh Crimea

Các đội hình xung kích dễ dàng bị các loại hỏa lực pháo binh , súng ống áp chế từ xa trước khi một cuộc xung phong bằng lê có thể diễn ra và điều này được nhìn nhận bởi người Pháp . Họ cho rằng trước sự phát triển của các loại hỏa khí thì giờ đây phe tấn công luôn là bên bất lợi hơn :

”'' Một đội quân gồm 20.000 người, được trang bị cỗ máy hủy diệt này, mỗi phút có thể bắn 280.000 phát đạn và hạ gục 56.000 kẻ thù, nếu  tỉ lệ bắn trúng mục tiêu khớp với khi tập bắn . Với thứ vũ khí phi thường này, chiến thắng và thất bại có thể được quyết định trong vài phút. .” - Bộ trưởng chiến tranh Aldophe Niel về súng trường Chassepot

Do đó phòng ngự sẽ là hình thức tác chiến chiến thuật chính của Bộ binh Pháp ,  trong suốt khoảng thời gian từ khi trang bị súng trường Chassepot đến khi chiến tranh nổ ra , các chiến thuật tác chiến phòng ngự liên tục được phát triển và hoàn thiện trong khi chiến thuật tấn công không hề có sự thay đổi nào - các đội hình bộ binh xung kích . 

Tác chiến tiến công

Trong tác chiến tấn công hầu như không có sự thay đổi nào kể từ chiến tranh Pháp- Phổ 1859 mà  phương pháp tấn công này cực thành công .Đội hình tiến công kinh điển ở châu Âu là đội hình khối tiểu đoàn có nguồn gốc từ gần 70 năm trước vào thời Napoleon . Khác với quân đội các nước châu Âu lục địa khi ấy , thì tiểu đoàn của Pháp có tới 6 đại đội gồm 4 đại đội điểu thương , 1 đại đội lựu binh và 1 đại đội tiền binh (Voltigeur) .  Khi lập thành khối cột tiểu đoàn trong tác chiến tấn công thì đại đội tiền binh sẽ được triển khai lên phía trước thành một hàng tản rộng với mục đích đấu súng với khinh binh địch , tương tự như lối đánh của các tiểu đoàn khinh binh (Chasseurs à Pied/Jäger) nhưng điểm khác biệt là đại đội tiền binh phải chiến đấu gần đội hình của tiểu đoàn chứ không thể tác chiến độc lập . Trên thực tế thì các chỉ huy thường triển khai thêm một đại đội điểu thương nữa lên hàng tản rộng . Như vậy tiểu đoàn vẫn còn 4 đại đội ở phía sau để lập thành khối cột có quy mô tương đương với khối cột tiểu đoàn 4 đại đội của Áo , Anh , Phổ và Nga khi đó . 4 đại đội ở phía sau mỗi đại đội lập thành khối đại đội 3 hàng , khoảng cách giữa mỗi khối đại đội tùy thuộc vào các loại đội hình khác nhau ví dụ như : ...distance entiere (giãn hàng) , ...demi-distance (giãn hàng nửa khoảng) , ....colonne serre (khép sát) . Tiểu đoàn trưởng cưỡi ngựa ở phía sau hoặc hai bên hông đội hình , đội trống di chuyển ở sau đội hình . Các khối tiểu đoàn này tiến thẳng đến vị trí của địch theo nhịp trống và lưỡi lê giương về phía trước , lợi dụng Élan (đà tiến) để đẩy lùi địch .



Vào năm 1870 thì một tiểu đoàn của Pháp vẫn gồm 6 đại đội , nhưng lần này không có sự phân chia tên gọi của 2 đại đội cuối cùng thành đại đội tiền binh và đại đội lựu binh . Khi tiến công , tiểu đoàn thường triển khai 2 đại đội thành tuyến tản rộng rời rạc tiến phía trước tiểu đoàn và lợi dụng địa hình để giao tranh với địch bằng hỏa lực . Nhiệm vụ của tuyến thứ nhất là nhằm thu hút hỏa lực cũng như che chắn các đội hình ở sau tiến lên tiếp cận địch . Tuyến sau gồm 4 đại đội triển khai thành đội hình khối tiểu đoàn với mỗi đại đội đứng thành 3 hàng . Khối tiểu đoàn được sử dụng để tung đòn tấn công xung kích bằng lưỡi lê theo đội hình hoặc triển khai các đại đội để mở rộng và tăng cường tuyến tản rộng ở phía trước . Trên thực tế thì không nhất thiết phải triển khai cả 2 đại đội lên phía trước lấy ví dụ trong trận Mars-la-Tour ở Rezonville , Tiểu đoàn Tirailleurs 1 đã triển khai đại đội 1 lên tuyến tản rộng ở phía trước còn 5 đại đội ở sau triển khai thành khối tiểu đoàn .



Toàn bộ tiểu đoàn cũng có thể được triển khai thành khối tiểu đoàn mặt tiền cặp đại đội nhằm tung các đòn tấn công xung kích với lưỡi lê , lợi dụng Élan để đẩy lùi địch .

Trong các cuộc tấn công các tiểu đoàn bộ binh tuyến thường được triển khai thành khối tiểu đoàn dưới sự yểm trợ hỏa lực của khinh binh từ các tiểu đoàn .Chasseurs à Pied , Tirailleurs hoặc  Zouaves (Khinh binh thuộc địa) triển khai thành các khối tản rộng.

Trong Sư Đoàn Bộ Binh , mỗi Lữ Đoàn sẽ có 2 Trung đoàn Bộ binh tuyến và 1 Tiểu đoàn Chasseurs phù hợp để triển khai như trên . Các tiểu đoàn Chasseurs nổi tiếng với tài thiện xạ trong chiến tranh Crimea và Pháp - Áo được nhận danh hiệu  Légion de Honneur (Quân Đoàn Danh Dự , bao gồm những người nhận Huân chương Bắc Đẩu Bội Tinh ) , tiểu đoàn Chasseurs được tổ chức tương tự tiểu đoàn Bộ Binh tuyến với 6 Đại đội chiến thuật và 2 Đại đội hậu phương .



Chasseurs à Pied

Tác chiến phòng ngự

Trong tác chiến phòng ngự quân đội Pháp đề cao hỏa lực của vũ khí mới . Các tiểu đoàn khinh binh hoặc đại đội vẫn có thể được đưa lên tuyến trước với vai trò trinh sát và thu hút  sau đó quay trở lại vị trí phòng ngự . Tiểu đoàn chọn các vị trí phòng ngự thích hợp như làng xá , rừng hoặc mương rẫy và nằm xuống thành một hàng theo đội hình tuyến .




Nếu có thêm thời gian , sử dụng xẻng đào chiến hào. Bộ trưởng chiến tranh Aldophe Niel vốn từng là một công binh  nên rất chú tâm đến tác chiến phòng ngự trong các cộng sự kiên cố và nã các loại hỏa lực về phía quân Phổ . Đây sẽ là hình thức tác chiến chủ yếu của quân Pháp sau giai đoạn đầu chiến tranh, dưới thời cải cách của Niel mỗi Lữ đoàn bộ binh được trang bị 1000 cái xẻng và mỗi tiểu đoàn bộ binh được huấn huấn luyện để đào chiến hào sâu 1 mét trong vòng 20 phút .Các ngôi làng , thành thị sẽ được biến thành các pháo đài .


Mỗi người đứng sát nhau trong hào và ‘’Feu de battalion’’ - ‘’Bắn theo tiểu đoàn’’ , khi có hiệu lệnh của sĩ quan tiểu đoàn ,từng người một nổ súng từ trái sang phải , loạt bắn không được phép diễn ra quá  5 loạt liên tiếp để tiết kiệm đạn. sau đó sĩ quan sẽ quan sát đường đạn để điều chỉnh và ra lệnh cho các loạt bắn tiếp theo . Trên thực tế sẽ có nhiều trường hợp như sự hỗn loạn của chiến trường , nỗi sợ quân địch đang đến gần hay sĩ quan bị giết , từng người một sẽ tự ngắm bắn thay vì bắn theo tiểu đoàn .

Ngoài ra các vị trí phòng ngự có thể được tăng cường sức phòng ngự bằng pháo binh sư đoàn hoặc Mitrailleuse .



2. Khẩu đội Mitrailleuse

Vào ngày 7 tháng 5 năm 1864  bản báo cáo ‘’Note sur le Cannon à Balles’’ được gửi đến Louis Napoleon bởi Tướng Leboeuf trong đó  báo cáo về ‘’Cannon à Balles’’ - ‘’Pháo đạn súng’’  , tháng 9 năm đó Bộ chiến tranh ủy quyền cho phép sản xuất mẫu thử nghiệm và đến tháng 7 năm 1866 vũ khí mới được phê duyệt . 24 Khẩu được sản xuất vào năm 1867 và 166 khẩu vào năm 1868 .



Đây là loại vũ khí thuộc hàng tối mật của quân đội Pháp phát triển bởi một sỹ quan tên Verchère de Reffye được chính Hoàng đế Napoleon III cung cấp chi phí một phần .’’ Mitreulleuse’’ dịch theo nghĩa hiện đại là súng máy trong tiếng Pháp và được người Phổ gọi là ‘’Höllenmaschine’’ - Cỗ máy địa ngục .

Mỗi Sư Đoàn Bộ Binh đều được trang bị 1 Khẩu đội Mitreulleuse , mỗi khẩu đội gồm 6 Khẩu .

La Mitrailleuse de Reffye






Súng gồm 25 nòng xoắn cỡ nòng 13mm , mỗi nòng có hệ thống kim hỏa riêng được gài bằng lò xo . Đạn sẽ được nạp vào băng đạn 25 viên có hình dáng tương ứng với mỗi nòng , hộp đạn được lắp vào khóa nòng sau đó sử dụng tay quay lớn ở sau đẩy băng đạn vào nòng và ép lò xo kim hỏa . Tay quay nhỏ nằm bên hông là cò , xạ thủ tiến hành quay và lần lượt các lò xò bung ra khiến kim hỏa đập vào đuôi đạn . 25 viên đạn có thể bắn hết trong 2 giây , vỏ đạn sẽ nằm lại trong hộp đạn . Thay thế hộp đạn và có thể tiếp tục tiến hành bắn. Tốc độ bắn có thể đạt tới 125 viên/phút như vậy một khẩu đội Mitrailleuse gồm 6 khẩu có hỏa lực tương đương 1 loạt vô lê của tiểu đoàn bộ binh  . Tốc độ bắn có thể lên đến 200 viên/phút tùy vào tốc độ quay cò nhưng sẽ dễ ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như khói trắng từ thuốc súng đen  sẽ che hết tầm ngắm cũng như các vấn đề về nòng súng









3. Khẩu đội cỡ 4 (Kg)

Napoleon Bonaparte nổi tiếng là một sỹ quan pháo binh , ông đã bị ấn tượng trước giá trị của pháo dã chiến trên chiến trường , ông biết rõ rằng một cú đấm mạnh có thể tung vào một vị trí của địch  bằng cách tập trung quân số vào khu vực trọng yếu đã được làm mềm bằng cuộc pháo kích của số lượng lớn pháo tập trung tại một điểm - thường được gọi là Grande Batterie ‘’Đại khẩu đội’’ . Pháo binh dần được sử dụng một cách độc lập hơn tương đương với bộ binh , kỵ binh thay vì được dàn đều hỗ trợ các đội hình

Đại khẩu đội được triển khai trong trận Waterloo 1815 , Youtube : Bataille de Waterloo 

Tại trận Friedland , tướng Marion nhận xét ‘’36 khẩu pháo đã làm được điều mà Ney và Dupont với hơn 20 000 người đã không thể làm và có thể là dù có thêm 3 Sư đoàn dự bị của Victor cũng không thay đổi được gì hơn…’’ , nếu được điều binh hợp lý pháo binh sẽ nên vượt trội so với các binh chủng khác về mức độ hủy diệt . Trong trận Austerlitz quân đội Pháp trung bình cứ 1000 người thì có 2 khẩu pháo , tại trận Wagram 4 năm sau đó thì tỉ lệ này là 1000 người : 4 khẩu pháo , trong trận Borodino năm 1812 là 1000 người : 4,5 khẩu pháo . Các Tập đoàn quân Liên minh thứ sáu có trung bình 5,5 pháo trên 1000 người và chỉ tính riêng quân đội  Nga trong chiến dịch 1812 là 6 pháo trên 1000 người , trích Artillery Equipment of the Napoleonic Wars , Terence Wise .Khác với khoảng thời gian 500 năm trước đó vào thời trung cổ, với những phát minh của các cuộc cách mạng công nghiệp , pháo binh sẽ phát triển mạnh vào  thế kể 19 và  các cuộc chiến năm 1866 và 1870 sẽ góp phần xây dựng hình thức tác chiến pháo binh trong Chiến tranh Thế thứ 1 .

Đứng trước tầm bắn và độ chính xác ngày càng lớn của các loại súng bộ binh , các khẩu pháo không còn có thể sử dụng để nã những loạt đạn chết chóc từ khoảng cách rất gần , việc triển khai pháo ở khoảng cách xa hơn cũng đòi hỏi những phát bắn chính xác và với những cải tiến mới, các loại pháo mới giờ đây có tầm bắn và độ chính xác gấp 3 lần so với các loại thời Napoleon .

Bắt đầu từ năm 1847 Hội đồng pháo binh Pháp đã luôn chú ý đến sự phát triển của pháo binh nước ngoài ,đặc biệt là pháo nòng xoắn  . Vào năm 1850 các nghiên cướu bắt đầu được tiến hành nhằm thiết kế một hệ thống nòng xoắn , và 1 năm sau đó một bản thử nghiệm sử dụng pháo 6 pounder từ thời Napoleon chỉnh sửa với rãnh xoắn với các loại đạn khác nhạu , pháo bờ biển 30 pounder cũng được sử dụng để thử nghiệm sau đó . Vào năm 1855 một số sơn pháo 4 pounder được sử  dụng để bắn thử các loại đạn trụ được thử nghiệm trên chiến trường Algeria . Đến năm 1858 Hội đồng loại bỏ các loại pháo 4 và 6 Pounder thay vào đó sử dụng loại pháo mới làm bằng đồng thay cho sắt và gang (vì các vấn đề phát nổ trong thử nghiệm) , sử dụng đạn 4 kg đã được thử nghiệm tại Algeria , Canon de 4 rayé de campagne model 1858 La Hitte có cỡ nòng 86,5mm (hơn 2,5mm so với hệ thống Gribeauval) . Trong hệ thống mới ,phân loại pháo theo khối lượng đầu đạn lần đầu tiên được đo bằng Kg thay vì  Livre (gần bằng Pound Anh) vì thế Canon de 4 (kg) của hệ thống ngay sau đó đã thay thế Canon de 12 (Livre) của hệ thống cũ (1kg ~ 2,2 livre) . Các loại pháo  vẫn phải nạp đạn bằng nòng tương tự như các loại pháo của quân đội Áo .
Với số lượng các loại pháo cũ trong kho vẫn còn nhiều năm 1859 , Hội đồng pháo binh quyết định sửa đổi các loại pháo cũ sao cho phù hợp với hệ thống mới . Trong chiến tranh Pháp -Áo các khẩu pháo này tỏ ra vượt trội với tầm bắn gấp đôi so với các loại pháo và lựu pháo nòng trơn của Áo , tuy nhiên câu chuyện sẽ rất khác khi đối đầu với lực lượng pháo binh mạnh nhất châu Âu trong cuộc chiến sắp tới .

Système La Hitte :

- Canon de 4 Rayé de campagne  modèle 1858
Pháo dã chiến nòng xoắn cỡ 4 mẫu 1858 (Pháo mới)

Cỡ nòng (mm)

86,5

Độ dài nòng (theo cỡ nòng)

L/18,4

Đầu đạn (kg)

4

Tầm bắn tối đa (m)

3200

Khối lượng chiến đấu (kg)

702


- Canon de 4 Rayé de montagne Modèle 1859
Sơn pháo nòng xoắn cỡ 4 mẫu 1859 (Pháo mới)


Cỡ nòng (mm)

86,5

Độ dài nòng (theo cỡ nòng)

L/11

Đầu đạn (kg)

4

Tầm bắn tối đa (m)

2700

Khối lượng chiến đấu (kg)

218


- Canon de 8 rayé de campagne
Pháo dã chiến nòng xoắn cỡ 8 , (Pháo nòng trơn cũ mẫu 1827 cải tiến theo hệ thống mới)


Cỡ nòng (mm)

106,1

Độ dài nòng (theo cỡ nòng)

L/11

Đầu đạn (kg)

4

Tầm bắn tối đa (m)

3400

Khối lượng chiến đấu (kg)

1115


- Canon de 12 rayé de campagne (1853-1859)
Pháo dã chiến nòng xoắn cỡ 12 (Pháo nòng trơn cũ được cải tiến theo hệ thống mới)


Cỡ nòng (mm)

121,3

Độ dài nòng (theo cỡ nòng)

L/17

Đầu đạn (kg)

11,5

Tầm bắn tối đa (m)

3000

Khối lượng chiến đấu (kg)

1189


-Canon obusier lisse de 12 Modèle 1853
Pháo - Lựu Pháo cỡ 12 (Pháo cũ , cải tiến theo hệ thống mới)

Cỡ nòng (mm)

121

Độ dài nòng (theo cỡ nòng)

L/17

Đầu đạn (kg)

4,1

Tầm bắn tối đa (m)

2500

Khối lượng chiến đấu (kg)

1199


- Canon de 12 rayé de siège Modèle 1859
Pháo vây hãm nòng xoắn cỡ 12 (Pháo mới)


Ảnh : Từ trên xuống dưới 12 de place , 12 de Siège , 12 de Campagne

Cỡ nòng (mm)

121,3

Độ dài nòng (theo cỡ nòng)

L/18,8

Đầu đạn (kg)

11,5

Tầm bắn tối đa (m)

3400

Khối lượng chiến đấu (kg)

1474


-Canon de 12 rayé de place Modèle 1865
Pháo đồn trú nòng xoắn cỡ 12 (Pháo mới)



Cỡ nòng (mm)

121,3

Độ dài nòng (theo cỡ nòng)

L/26

Đầu đạn (kg)

11,5

Tầm bắn tối đa (m)

5200

Khối lượng chiến đấu (kg)

3421


-Canon de 24 rayé de place (1864 -1867)
Pháo đồn trú nòng xoắn cỡ 24 (Pháo mới)


Cỡ nòng (mm)

152,7

Độ dài nòng (theo cỡ nòng)

L/23

Đầu đạn (kg)

23,2

Tầm bắn tối đa (m)

5500

Khối lượng chiến đấu (kg)

4631



-Canon de 24 rayé de siège
Pháo vây hãm nòng xoắn cỡ 24 (Pháo mới)



Cỡ nòng (mm)

152,7

Độ dài nòng (theo cỡ nòng)

L/15,7

Đầu đạn (kg)

23,2

Tầm bắn tối đa (m)

5000

Khối lượng chiến đấu (kg)

3200


-Canon de 16 (cm) rayé / Canon de 30  rayé de l'Artillerie navale
Pháo hải quân nòng xoắn cỡ 30

Cỡ nòng (mm)

164,7

Độ dài nòng (theo cỡ nòng)

L/19

Đầu đạn (kg)

31,4

Tầm bắn tối đa (m)

5900

Khối lượng chiến đấu (kg)

7930


- Obusier de 22 (cm) rayé de côte Modèle 1864
Lựu pháo bờ biển nòng xoắn 220mm mẫu 1864


Cỡ nòng (mm)

223,3

Độ dài nòng (theo cỡ nòng)

L/12,7

Đầu đạn (kg)

75,5

Tầm bắn tối đa (m)

5900

Khối lượng chiến đấu (kg)

4840


Mỗi Sư Đoàn Bộ binh đều có 2 khẩu đội cỡ 4 làm pháo binh Sư Đoàn , mỗi khẩu đội gồm 6 khẩu . Như vậy hỏa lực pháo binh Sư đoàn gồm 12 khẩu cỡ 4 và 6 khẩu Mitrailleuse

 Mỗi khẩu pháo cỡ 4 được kéo bằng 4 ngựa kèm theo đạn dược (132 viên) . 3 Loại đoạn được sử dụng gồm : Lựu đạn - obus ordinaire , Đạn phá mảnh - obus à balles và Đạn chùm - mitraille .  Đạn cùng liều phóng được nạp bằng nòng pháo .
 





Từ trái sang phải : : Lựu đạn , Đạn phá mảnh và đạn chùm


Lựu đạn -obus ordinaire gồm một vỏ kim loại với chất nổ và ngòi nổ hẹn giờ , ngòi nổ hẹn giờ là một chiếc đĩa kim loại chứa dây thuốc súng bên trong . Bằng cách khoan một lỗ được đánh dấu trên đầu đạn , khi bắn lửa có thể tràn vào trong kích hoạt ngòi nổ ,  . Khi dây thuốc súng cháy hết sẽ kích hoạt chất nổ , hiệu quả nhất là khi nổ trên đầu địch.Khi đạn đập vào các vật thể cứng hoặc chôn vùi xuống đất có thể vô hiệu quá ngòi nổ hoặc đạn bắn trúng vào thẳng đội hình địch mà không nổ .
 Ban đầu vào năm 1859  Lựu đạn cỡ 4 có 6 vị trí khoan, mỗi lỗ khoan tương ứng với một tầm bắn nhất định trải dài khoảng 200m . Để đơn giản hóa quá trình huấn luyện , về sau chỉ còn 2 lỗ , một là khoảng 1400 - 1600m và còn lại là khoảng 2700 - 2900m đây sẽ bất lợi cực lớn khi cuộc chiến sắp tới diễn ra buộc các khẩu đội phải triển khai khoảng cách thích hợp với ngòi nổ . Trong chiến tranh Pháp-Phổ lựu đạn là loại chiếm đến 82% các loại đạn dược của pháo cỡ 4

Đạn phá mảnh - obus à balles được đưa vào biên chế năm 1864 sử dụng ngòi nổ hẹn giờ tương tự với 4 khoảng cách 500 , 800 , 1000 và 1200 mét , khác biệt chính của loại đạn này so với lựu đạn là bên trong vỏ có chứa các viên bi kích thước nhỏ .

Đạn chùm - mitraille  có tác dụng biến khẩu pháo thành khẩu shotgun cỡ lớn được sử dụng để chống lại đội hình xung kích bộ binh hoặc đội hình kỵ binh ở khoảng cách gần , là loại đạn mang tính phòng ngự hơn  . Thiết kế của đạn chùm là một hộp chì hình trụ bên trong có chứa các viên bi . Khi bắn , hộp chì sẽ vỡ ra và  tách các viên bi ra xung quanh gây sát thương diện rộng .


Pháo binh dự bị - Réserve d'Artillerie

Hỏa lực pháo binh cấp quân đoàn gồm 2 khẩu đội cỡ 12 , 2 khẩu đội cỡ 4 và 2 khẩu đội pháo kỵ cỡ 4 , các quân đoàn 1 , 3 ,6 được biên chế thêm 2 khẩu đội pháo kỵ

Như vậy toàn bộ hỏa lực pháo binh của một quân đoàn sẽ gồm 12 khẩu pháo cỡ 12 , 48 (hoặc 60) khẩu pháo cỡ 4 và 12 (hoặc 24) khẩu pháo kỵ , bao gồm pháo binh  Sư Đoàn và pháo binh Dự Bị

Khẩu đội pháo cỡ 12
Khác biệt lớn nhất của pháo dã chiến cỡ 12 So với cỡ 4 là cỡ nòng lớn hơn (121,3mm vs 86,5mm) , khối lượng đầu đạn lớn hơn (11,5kg vs 4kg) và khối lượng pháo nặng hơn (702kg vs 1189kg) . Tầm bắn của hai loại pháo đều tương đương nhau nhưng hiệu ứng sát thương của loại 12 lớn hơn nhiều lần . Pháo được kéo bằng 6 ngựa , mang theo 72 viên đạn .






3 loại đạn sử dụng vẫn là Lựu đạn , Đạn phá mảnh và Đạn chùm .

- Lựu đạn với ngòi nổ có thể được cài ở khoảng 1350m - 1550m hoặc 2650m - 2850m
- Đạn phá mảnh với ngòi nổ cài ở các khoảng cách : 500m - 800m - 1100m và 1400m

Sư đoàn kỵ binh - Division de Cavalerie

Một sư đoàn kỵ binh được biên chế 2 (thuộc các Quân Đoàn 2 ,4 ,5 , 7 ,12 và 13) hoặc 3 ( Các quân đoàn 1, 3, 6) Lữ Đoàn ,mỗi Lữ Đoàn gồm 2 hoặc 3 Trung Đoàn Kỵ Binh các loại . Tổ chức và tác chiến kỵ binh không có nhiều thay đổi so với 70 năm trước. Với các trung đoàn Thiết kỵ - Cuirassier , Long kỵ - Dragoon và Thương kỵ - Lancier , mỗi trung đoàn gồm 5 kỵ đội và với các trung đoàn Chasseurs à Cheval và Hussard mỗi trung đoàn gồm 6 kỵ đội . Tương tự với bộ binh chỉ có 4 hoặc 5 kỵ đội chiến thuật , kỵ đội còn lại nằm ở hậu phương.



Loại

Số trung đoàn

Kỵ đội thời bình

Kỵ đội thời chiến

Kỵ đội hậu phương

Cuirassiers

10

10

40  

10

Dragons

12

12

48

12

Lanciers

8

8

32

8

Chasseurs

12

12

60

12

Hussards

8

8

40

8

Mỗi kỵ đội gồm 7 sỹ quan , 164 người và 150 ngựa theo tiêu chuẩn , khi chiến tranh xảy ra ,một số khó khăn trong quá trình điều động tổng lực dẫn đến nhiều kỵ đội 6 sỹ quan , 120 người và

 105 ngựa được thành lập . 

Các loại kỵ binh 

- Hussards là Khinh kỵ bắt nguồn từ  Hungary và Ba Lan , đội mũ Busby hoặc mũ Shako như bộ binh ,  mặc áo khoác Dolman hoặc Pelisse tạo thành các họa tiết với dãy các bện ngang điển hình. Vũ khí trang bị là đao cong với trọng tâm nằm ở đầu đao giúp tăng sức đánh của các kỹ thuật chặt , chém , sỹ quan  mang thêm súng ngắn. 3 kỹ thuật tung đòn cơ bản là đâm , chặt và chém . Đao cong có chiều dài ngắn hơn và độ cong giúp dễ dàng cứa theo chiều lưỡi dao  vào thịt nên thích hợp với chặt , chém hơn là đâm . Với khối lượng nhẹ và độ cơ cộng cao  , khinh kỵ thường được sử dụng để trinh sát , phòng ngự và truy đuổi hơn .

 - Chasseurs à cheval dùng để phân biệt với Chasseurs à Pied (Bộ binh hạng nhẹ) , cả hai đều là Chausseurs - Khinh binh bắt nguồn từ sự ấn tượng của người Pháp trước Bộ binh Jager trong chiến tranh kế vị Áo 1740 - 1748 , Chasseurs được tổ chức thành hai lực lượng : 1 đi bộ (à Pied) , 1 cưỡi ngựa (à cheval)  . Trang bị của Chasseurs gồm đao cong và  súng Carbine , Chasseurs  được triển khai và sử dụng tương tư với Hussards .




- Cuirassier - Thiết kỵ là kỵ binh hạng nặng ,thường được sử dụng làm vũ khí xung kích chính trong trận đánh  , đội mũ sắt che phần đầu tương tự mũ chống đạn ngày nay và mặc hai tấm giáp Cuirass che lưng và ngực ,bụng  . Khối lượng của giáp đòi hỏi cả người và ngựa phải có sức khỏe tốt , những người có chiều cao lớn và ngựa có kích thước to thường được chọn làm Thiết kỵ một phần vì sức khỏe và một phần vì kích thước lớn tạo thành hình ảnh hùng hổ trước mắt địch hơn . Vào mùa hè các tấm giáp có thể gây mệt mỏi và mất nước do nóng bức khiến một số Thiết kỵ Pháp trong chiến dịch Wagram năm 1809 cởi luôn các tấm giáp che thân . Trong một cuộc cận chiến , bộ giáp có vai trò bảo vệ bảo vệ các bộ phận quan trọng trước những đòn đánh của địch  ngoại trừ nếu bị đâm hoặc chặt với lực đủ mạnh  . Ngoài ra  bộ giáp của Cuirassier không thể chống lại đạn pháo hoặc  súng trường . Vũ khí trang bị là đao thẳng hoặc kiếm lưỡi rộng (Pallash) với lưỡi kiếm dài thẳng thích  với trọng tâm nằm ở gần phần cán giúp người sử dụng có thể dễ dàng vươn thẳng tay ra phía trước sử dụng kỹ thuật đâm . Sỹ quan được trang bị thêm súng ngắn .


- Dragoon - Long kỵ là kỵ binh hạng trung , trang bị đao , lưỡi lê và súng Carbine , thư
ờng là bản rút gọn của súng bộ binh . Long kỵ được huấn luyện cả các kỹ thuật chiến đấu kỵ binh với đao và kỹ thuật chiến đấu bộ binh với súng Carbine và lưỡi lê .
Long kỵ có thể được sủ dụng làm lực lượng xung kích hoặc sử dụng như kỵ binh  thông thường hoặc cơ động đến vị trí , xuống ngựa nã đạn vào địch , kỹ thuật bắn trên lưng ngựa cũng được sử dụng .



- Thương kỵ ( Lancer , Uhlans ) là kỵ binh hạng nhẹ sử dụng Thương làm vũ khí chính, đã được sử dụng từ rất lâu trong lịch sử quân sự loài người . Thương được sử dụng để đâm với các vết thương cực kì khủng khiếp , các vết đâm từ thương hoặc lê trên người thương binh cực kỳ khó sống sót so với các vết chém . Để nói về thương , đây từng là vũ khí chính chủ yếu của bộ binh trong lịch sử bởi người sử dụng thương luôn có lợi thế và dễ dàng chiến thắng hơn so với người dùng kiếm hoặc đao , cũng như dễ huấn luyện và chi phí chế tạo rẻ hơn. Tuy nhiên khi chiến đấu trên lưng ngựa thì câu chuyện trở nên phức tạp hơn rất nhiều , các thương kỵ đòi hỏi quá trình huấn luyện để thuần thục kỹ năng chiến đấu bằng thương , sau chiến tranh Napoleon tài liệu huấn luyện quân đội Anh yêu cầu một Lancer phải thuần thục 55 kỹ thuật sử dụng thương trong đó 22 kỹ thuật chống kỵ binh , 18 kỹ thuật chống bộ binh và 15 kỹ thuật ném thương . Trong các cuộc chiến tranh Napoleon (1803 - 1815) , lực lượng Thương kỵ đáng sợ và nổi tiếng nhất là Uhlans trong biên chế quân đội Pháp. Sức mạnh của Uhlans trong các chiến dịch Napoleon khiến quân đội các nước châu Âu cũng phải tăng cường sức mạnh  lực lượng Thương kỵ của mình và từ đó trở Thương kỵ dần trở nên phổ biến hơn .



Chiến thuật tác chiến

Trong tác chiến chiến đấu , kỵ  binh chiến đấu theo đội hình , khoảng cách vai kề vai . Đội hình chiến đấu có thể được triển khai thành hàng ngang hoặc hàng dọc . Đội hình hàng ngang giúp đối đầu với địch với số lượng đao và thương lớn hơn , hạn chế hoả lực pháo binh cũng như tạo thành cảnh tượng hùng hậu với một bức tường kỵ binh dài trước mặt kẻ địch . Tuy nhiên , cũng giống với đội hình bộ binh hàng ngang , để giữ vững đội hình khi băng qua các địa hình không bằng phẳng cũng như áp lực trên chiến trường , một đội hình ngang quá dài sẽ khó duy trì và dễ tách ra thành từng đoạn nhỏ hơn cũng như hai bên cánh cực kỳ yếu khi địch có thể đẩy từ bên sườn và phá hỏng toàn bộ đội hình . Đội hình hàng dọc có thể được triển khai theo cấp trung đoàn , lữ đoàn , sư đoàn hoặc quân đoàn , thường được sử dụng để hành quân nhưng cũng có thể sử dụng để chiến đấu , nhất là ở những khu vực có địa hình địa thế hẹp như đường phố . Ưu điểm của đội hình cột so với đội hình ngang là chúng có độ cơ động qua địa hình tốt hơn , dễ chuyển hướng di chuyển . Nhược điểm là số lượng binh sĩ ở hàng đầu đối mặt địch sẽ ít hơn , chịu nhiều sát thương từ hoả lực pháo binh cũng như hàng sau dễ bị ảnh hưởng nếu ngựa và người từ hàng trước ngã xuống do tai nạn hoặc trúng hoả lực địch . Hình thức tấn công chính của kỵ binh là xung kích - đội hình lao hết tốc lực phía địch . Một cuộc xung kích thường được tổ chức nhằm tấn công đội hình địch đang có dấu hiệu chao đảo hoặc mất tinh thần để phá vỡ đội hình và đột phá qua khu vực . Đội hình tấn công sẽ được bố trí , từ từ tiến sát địch bằng nước kiệu (~13 km/h)  , khi đã tiếp cận cự li hiệu quả của pháo binh hoặc khu vực trống trải chuyển sang phi nước đại ~ (45km/h) lao thẳng vào đội hình địch . Trong quá trình xung kích các kỵ binh sẽ đưa binh khí lên cao  , hô khẩu hiệu cùng với âm thanh hiệu lệnh của kèn và tiếng vó gầm trời của hàng nghìn con ngựa sẽ có tác động tâm lí đến địch , lúc này địch có thể lựa chọn giao chiến tổ chức một đợt xung kích theo hướng ngựa lại nếu là kỵ binh , lập đội hình tứ diện nếu là bộ binh hoặc rút lui . Nếu địch lựa chọn rút lui , sẽ tổ chức lực lượng truy đuổi nếu có thể , trong quá trình truy đuổi trật tự đội hình vẫn phải được đảm bảo. Tuy nhiên với sự phát triển của các loại hỏa lực tầm xa việc tung ra các đòn tấn công kiểu như này tương đương với thảm sát , kỵ binh nên dần được chuyển sang vai trò trinh sát hơn thậm chí cả với Cuirassier như kỵ binh Phổ dần dần thay đổi . Tuy nhiên cả quân đội Pháp và Phổ đều có nhiều thành phần chống đối những sự thay đổi để giữ gìn những truyền thống của kỵ binh như tấn công xung kích hay một binh chủng đại diện tầng lớp cao quý trong xã hội . Nhìn chung cả kỵ binh Pháp lẫn Phổ trong cuộc chiến sắp tới đều sẽ có nhiều lúc tung các đòn xung kích đẫm máu như thể súng trường và pháo nạp hậu không tồn tại trước mặt họ vậy.


’’ESCADRON  ! Garde à vous pour de charge , sabre à la main , au galop … MARCHE !!!’’
’’KỴ ĐỘI ! Chú ý xung kích , đao cầm trong tay , phi nước đại … HÀNH TIẾN!!!’’





5.2 Vệ binh Đế chế - Garde Impériale

Khi thành lập Đệ Nhị Đế Chế , Louis Napoleon đã cho xây dựng lại lực lượng Vệ Binh Đế Chế nổi tiếng từ thời bác của mình .Lực lượng này trong vai trò chính trị sẽ là lực lượng trung thành với Louis Napoleon , giải quyết mọi biến động trong nước cũng như trong trường hợp xảy ra nội chiến  trong vai trò quân sự vệ binh đế chế đóng vai trò là một quân đoàn tinh nhuệ - Corps d’Elite . Lực lượng có thể được tung ra vào những thời điểm mang tính quyết định và những vị tướng chỉ huy luôn được nhắc nhở rằng không được triển khai từng phần một hoặc triển khai khi chưa cần thiết .

Vệ Binh Đế Chế vào năm 1854 gồm 1  Lữ Đoàn Lựu  Binh- Grenadier , 1 Lữ đoàn Voltigeurs , 1 Lữ đoàn kỵ binh , 1 Tiểu đoàn Chasseurs à Pied và 1 Trung đoàn Hiến binh -  Gendarmes à Pied  . Đến năm 1865 đã mở rộng thành 2 Sư Đoàn Bộ Binh và 1 Sư Đoàn Kỵ Binh .

 
Sư đoàn bộ binh 1 ( Voltigeurs) biên chế tương tự Bộ binh tuyến với 2 Lữ đoàn , mỗi Lữ đoàn gồm 2 Trung đoàn Voltigeurs  và 1 tiểu đoàn Chasseurs à Pied (Tuy nhiên Lữ đoàn 2 sẽ không có Chasseurs), pháo binh Sư Đoàn gồm 2 Khẩu đội cỡ 4 , một Khẩu đội Mitrailleurs. Mỗi trung đoàn Voltigeurs có 3 tiểu đoàn
 Sư đoàn bộ binh 2 (Grenadier ) gồm 2 Lữ đoàn , Lữ đoàn thứ nhất với một Trung đoàn Grenadier gồm 3 tiểu đoàn và một Trung đoàn Zouave với 2 tiểu đoàn , Lữ đoàn thứ hai gồm 2 Trung đoàn Grenadier còn lại . Pháo binh Sư Đoàn gồm 2 Khẩu đội cỡ 4 và một khẩu đội Mitrailleurs

Sư đoàn Kỵ Binh gồm 3 Lữ đoàn : Lữ đoàn hạng nhẹ với  Trung đoàn Guides và  Trung đoàn Chasseurs à Cheval , Lữ đoàn hạng trung với Trung đoàn Dragons và Trung đoàn Lanciers , Lữ đoàn hạng nặng với Trung đoàn Cuirassiers và Trung đoàn Carabiners . Pháo binh Sư đoàn gồm 2 Khẩu đội pháo kỵ

Pháo binh Quân Đoàn gồm 4 Khẩu đội pháo kỵ còn lại , do công binh cận vệ đã bị giải thể từ năm 1865 vì lí do tài chính , 2 đại đội công binh thuộc tuyến binh sẽ đảm nhận vai trò này

Các tiểu đoàn bộ binh có 6 Đại đội chiến thuật và 1 Đại đội hậu phương trong thời chiến riêng  tiểu đoàn Chasseurs à Pied có 8 Đại đội chiến thuật à 2 Đại đội hậu phương . Các Trung đoàn bộ binh có 5 Kỵ đội chiến thuật và 1 Kỵ đội hậu phương và các khẩu đội gồm 6 khẩu .

Loại

Số trung đoàn

Đại (Kỵ) đội thời bình

Đại / Kỵ đội thời chiến

Đại / Kỵ đội hậu phương ( thời chiến)

Voltigeurs

4

84

72

12

Grenadiers

3

63

54

9

Zouaves

1

12

12

0

Chasseurs à Pied

0 (1 tiểu đoàn)

10

8

2

Cuirassiers

1

6

5

1

Carabiners

1

6

5

1

Dragons

1

6

5

1

Lanciers

1

6

5

1

Chasseurs à Cheval

1

6

5

1

Guides

1

6

5

1

Các tên gọi của các lực lượng bộ binh như Grenadiers , Voltigeurs chỉ mang tính truyền thống không có sự khác biệt giữa tổ chức và hình thúc tác chiến ngoài trang phục 



nh : Grenadiers de la garde

nh : Voltigeurs de la Garde

Zouaves
Zouaves là  bộ binh hạng nhẹ được thành lập từ những người tình nguyện thuộc  bộ lạc Zwawa ở Algeria được chỉ huy bởi sỹ quan và hạ sỹ quan Pháp . Trung đoàn vệ binh Zouaves được thành lập năm 1855 trong chiến tranh Crimea.




Trang bị mang theo của Zouaves tương tự với bộ binh tuyến




Ảnh : Lanciers de la Garde                    Ảnh : Cuirassiers de la Garde


Ảnh : Dragons de la Garde                                        Ảnh : Chasseurs à Cheval

Guides


Tháng tư năm 1848 , 8 Kỵ đội Guides được thành lập với nhiệm vụ liên lạc đến năm 1850 thì giảm xuống thành 2 Kỵ đội . 2 Kỵ đội này sẽ là nền tảng nhằm thành lập Trung Đoàn Guides mới . Trung đoàn được ưu tiên ngựa và các loại trang bị tốt nhất , đắt tiền hơn so với các đơn vị tuyến binh tương tự gấp 3 lần . Cùng với Trung đoàn Chasseurs à Cheval de la Garde lập thành Lữ đoàn Kỵ Binh Cận Vệ hạng nhẹ

Carabiners


Carabiners là đơn vị mang tính truyền thống  bắt nguồn từ lực lượng Carabiners thời Napoleon , trang bị của Carabiners tương tự với Cuirassier với một số khác biệt trong trang phục. Cùng với Dragons de la Garde , các trung đoàn lập thành Lữ đoàn kỵ binh cận vệ hạng trung

5.3 Vệ binh Quốc gia , Vệ binh Cơ động - Garde Nationale , Garde Mobile

Lực lượng Vệ binh Quốc gia và Cơ động được thành lập vào năm 1867 dưới sự cải cách của  Aldophe Niel với mục đích xây dựng một lực lượng chiến đấu ở tuyến hai tương đương với lực lượng Landwehr của Phổ . Những người may mắn không trúng lá thăm nghĩa vụ quân sự phải phục vụ cho  Garde Nationale - Vệ binh quốc gia hoặc Garde Mobile- Vệ binh Cơ động trong 5 năm , mỗi năm sẽ gọi tổ chức các đợt huấn luyện  . Sự khác biệt giữa hai lực lượng này là một là lực lượng đồn trú còn lực lượng còn lại có thể di chuyển đến các khu vực cần thiết .

Các lực lượng này sẽ được tổ chức thành các trung đoàn với 3 tiểu đoàn riêng Vệ binh quốc gia với nhiệm  vụ đồn trú chỉ tổ chức thành các tiểu đoàn . Tuy nhiên vì những lo ngại về chính trị cũng như chiến tranh đến trước khi có thời gian để xây dựng lực lượng này . Khi chiến tranh nổ ra , chỉ có vài tiểu đoàn vệ binh cơ động được thành lập so với  300 - 350 tiểu đoàn và 200 khẩu đội như kế hoạch ban đầu và các đon vị này có rất ít vũ khí để có thể chiến đấu. Lực lượng vệ binh quốc gia thì chỉ xuất hiện ở một vài thành phố , trang bị với súng trường Minié  nạp nòng cũ .


   Garde Nationale                                                  Garde Mobile



5.4 Bộ binh Hải quân -Infanterie de marine
Lực lượng bộ binh hải quân gồm 4 Trung đoàn hoặc 12 Tiểu đoàn , mỗi tiểu đoàn gồm 6 đại đội chiến thuật và  không có đại đội hậu phương . Ngoài ra , không có thông tin gì thêm về lực lượng này



5.5 Tập đoàn quân châu Phi - Armeé d’Afrique

Xuất phát từ lực lượng viễn chinh ở Algeria năm 1830 , ban đầu các lực lượng này được dự định chỉ được sử dụng ở chiến trường châu Phi nhưng về sau được đưa đến các châu lục khác để chiến đấu . Khác với Tuyến binh,  các đơn vị châu Phi không tuyển binh bằng quân dịch mà dựa vào lực lượng tình nguyện ,do đó đạt tính chuyên nghiệp cao . Độ thiện chiến của các đơn vị châu Phi cao  nhanh chóng nhận được những lời tán dương từ các sỹ quan chỉ huy người Pháp , các Thống chế , tướng lĩnh Pháp khi đó như Canrobert , MacMahon , Baizane , Bosquet và Saint-Arnaud ban đầu đều nổi lên khi chỉ huy các đơn vị này .

Các lực lượng tham gia chiến đấu ở Pháp gồm 

Loại

Trung đoàn

Tiểu Đoàn

Đại / Kỵ đội

Đại đội hậu p.

Zouaves

3

9

54

9

Turcos

3

12

72

12

Chasseurs

4

 

20

4

Zéphyrs

 

3

15




          


 

 Zouaves , tác chiến và triển khai tương tự các tiểu đoàn Chasseurs à pied

Mỗi trung đoàn Zouaves được biên chế 3 tiểu đoàn , mỗi tiểu đoàn gồm 6 Đại đội chiến thuật và 2 Đại đội hậu phương





Tirailleurs algériens hay Turcos ,Khinh binh người Algeria . Biên chế1  trung đoàn Turco tương tự với Trung đoàn Zouaves


Chasseur d’Afrique  tương tự với Chasseurs à Cheval chủ yếu gồm quân sỹ và các tình nguyện viên người Pháp tại Châu Phi . Ngoài ra cũng có một số trung đoàn bản địa tương tự như Spahis 


Zéphyrs hay Infanterie légère d'Afrique - Khinh binh châu Phi gồm một số quân nhân sau thời gian giam giữ vì những vi phạm trong quân ngũ sẽ được điều đến các tiểu đoàn Zéphrys hoạt động ở châu Phi

5.6 Binh Đoàn Lê Dương - Légion étrangère



Vào năm 1870 , Binh đoàn Lê Dương có 3 tiểu đoàn hoạt động nhưng khi cuộc chiến giữa Pháp và Phổ xảy ra chỉ có 2 tiểu đoàn được gửi sang Pháp vào tháng 10 bởi không thể cho Lê Dương người Đức chiến đấu chống người Đức . Một tiểu đoàn thứ 4 mang số hiệu ‘’Tiểu đoàn 5’’ được thành lập vào tháng 8 chiêu mộ người Algeria và được đưa sang Pháp tham chiến giai đoạn sau của cuộc chiến 

5.7 Các lực lượng khác

Ảnh : Du kích Francs - Tireurs , chủ yếu gồm các thợ săn với súng trường của mình

Ảnh : Kỵ đội Vệ sĩ của Louis  Napoleon , gồm 221 sỹ quan và binh lính



Trung đoàn công binh cứu hỏa Paris (thuộc quân đội) với 2 tiểu đoàn



Sen đầm - Gendarmerie là lực lượng cảnh sát vũ trang của Pháp được thành lập theo sắc lệnh vào ngày 1/3/1854 với 26 Binh đoàn Sen đầm - Légions de gendarmerie khắp cả nước , bao gồm 1 Binh đoàn ở châu Phi và Trung đoàn sen đầm vệ binh . Ngoài ra bộ hải quân cũng có riêng cho mình lực lượng sen đầm hải quân đế chế . Trong khi Quốc an-Sûreté nationale (tiền thân của cảnh sát quốc gia ngày nay) trực thuộc bộ nội vụ thì Sen đầm lại trực thuộc quân đội , giữa Sen đầm và Quốc an thì vai trò , nhiệm vụ của hai lực lượng này thường xuyên chồng lấn lên nhau ví dụ như chống tội phạm , chống bạo loạn vào thời bình . Ngoài ra ở những vùng nông thôn , do các ngôi làng không có quy mô đủ lớn để thành lập lực lượng cảnh sát riêng thì nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự sẽ do Sen đầm đảm nhiệm . Sen đầm , cùng với Quốc an và Quân đội là 3 lực lượng vũ trang quan trọng trong bộ máy chính trị của Pháp vào thời điểm đó , góp phần giúp Napoleon III thực hiện cuộc đảo chính vào năm 1851 , thiết lập Đệ nhị đế chế và đưa nhà Bonaparte trở lại ngai vàng của Pháp . Khi chiến tranh nổ ra với Đức vào năm 1870 , Sen Đầm được tổ chức thành các trung đoàn bộ (à pied) và trung đoàn kỵ (à cheval) . Các đơn vị Sen đầm được triển khai ra mặt trận cùng với Tập đoàn quân sông Rhine với vai trò quân cảnh , bảo vệ kho đạn kho lương cũng như giam giữ tù binh địch . Phần còn lại của lực lượng này tổ chức phòng ngự đồn trú tại các thành phố chính ở hậu phương , ví dụ một trung đoàn Sen đầm kỵ với khoảng 800 người được bố trí xuyên suốt tại Paris tới hết chiến tranh . Khi đệ nhị đế chế sụp đổ và cuộc chiến chuyển sang giai đoạn chiến tranh tổng lực thì lực lượng Sen đầm cũng được tận dụng để lập thành các đơn vị chiến đấu ở tuyến đầu , ví dụ như 2 trung đoàn hành quân đã được thành lập vào tháng 11 năm 1870 nhằm tăng cường cho Tập đoàn quân Loire . Trận đánh nổi tiếng nhất của Sen đầm trong cuộc chiến là trận Le Mans vào tháng 1 năm 1871 . Sau chiến tranh thì các trung đoàn lần lượt được giải tán và Sen Đầm trở lại vai trò ban đầu của mình trong thời bình .

5.8 Các lực lượng không tham chiến trong cuộc chiến sắp tới

Ở Algeria :
7 tiểu đoàn bộ binh tuyến
3 Khẩu đội pháo binh
3 Trung đoàn Khinh kỵ Spahis
4 Đại đội Gendarmerie

(Khoảng 8000 bộ binh và 3000 kỵ binh )


Ở Đại Nam : 
Khoảng 3227 lính thủy thuộc Régiment de marche de Cochinchine
3 Đại đội pháo thủy quân



Spahis - Khinh kỵ hạng nhẹ từ Algeria , Morroco với 3 trung đoàn , mỗi trung đoàn gồm 5 kỵ đội chiến thuật và 1 kỵ đội hậu phương . Hình thức triển khai tác chiến của Spahis tương tự với Chasseur d’Afrique  





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét