Thứ Năm, 25 tháng 8, 2022

CHƯƠNG 2 : CÁC LỰC LƯỢNG XỨ GERMANIA

 1. Tổng quan

Trải qua hơn một thời kỳ lịch sử dài ở vị thế địa lý kém thuận lợi các tiểu bang Đức đã dần hình thành một tinh thần quân phiệt , sử dụng sức mạnh quân sự để bảo vệ quốc gia và thứ tinh thần ấy thể hiện mạnh mẽ nhất ở Vương Quốc Phổ. Quân đội Phổ ngay từ những ngày lập vương của Đại Tuyển Hầu và sau đó là dưới thòi Frederick Đại Đế  đã nổi tiếng là một thế lực quân sự đáng gờm giữa các cường quốc xung quanh , dẫn dắt và chỉ huy bởi các sỹ quan thuộc tầng lớp  Junker (quý tộc) trung thành với nhà Hohenzollern , là ‘’Quân đội với một đất nước’’ thay vì ‘’Đất nước  với một quân đội’’. Thất bại trong chiến dịch Jena-Auerstedt năm 1806 trước Napoleon được xem là một thất bại kinh hoàng  của đội quân ‘’Frederick Đại Đế’’ thổi bùng không khí thù hận và mong muốn báo thù trong quân đội .Những thất bại cay đắng này được mở cuộc điều tra vào năm 1808 và các báo cáo được công bố vào năm 1809 . Trong số 142 tướng lĩnh và 885 sĩ quan cao cấp trong chiến dịch năm đó , 17 tướng và 50 sĩ quan bị giáng chức , 86 tướng và 584 sỹ quan buộc rời khỏi quân đội trong danh dự chỉ 22 tướng và 185 ở lại vị trí của mình. 7 sĩ quan cấp cao bị tuyên án tử hình vì đã đầu hàng các pháo đài quá sớm , Quốc Vương đã giảm án cho những người này xuống tù chung thân . Trong số 6069 Hạ sĩ quan chỉ 1584 tại ngũ , 3924 tự nguyện rời khỏi quân đội và còn lại bị buộc phải rời quân đội. Các thất bại trước Napoleon cho thấy rõ sự lỗi thời cũng như nhiều điểm yếu trong việc vận hành và chỉ huy quân đội , nhiều  sỹ quan muốn cải cách theo mô hình quân đội Pháp nhưng nhóm bảo thủ hơn lại muốn giữ lại những truyền thống từ thời Frederick. Lãnh đạo nhóm cải cách là hai vị tướng hề có gốc gác Phổ  - Gerhard von Scharnhorst và August von Gneisenau . Những cải cách về xã hội cũng như quân đội nhanh chóng được thực hiện ngay sau đó , đáng chú ý nhất là sự ra đời của hệ thống Tham Mưu Phổ và hệ thống nghĩa vụ quân sự , học hỏi từ hệ thống Leveé en masse (Quân dịch tổng lực) của Pháp  . Chiến thắng cuối cùng trước Napoleon của Liên minh thứ sáu và liên minh thứ bảy đã giúp Vương quốc Phổ khôi phục lại vị thế cường quốc của mình . Vào năm 1861 khi Khi Wilhelm I lên ngôi, ông ủng hộ các chính sách nhằm tăng cường sức mạnh  quân đội  nhằm sử dụng nnhư con bài chính trị tối hậu của mình . Được sự ủng hộ của nhà , Bismarck - Thủ tướng Phổ , Roon - Bộ trưởng chiến tranh và Moltke - Tổng tham mưu trưởng tiến hành mở rộng quy mô quân đội . Chiến thắng trước Áo năm 1866 đã giúp Phổ thành lập Liên Bang Bắc Đức , các lực lượng vũ trang Bắc Đức đều sáp nhập với Quân đội Hoàng Gia Phổ ,riêng Vương quốc Sachsen giữ lại quân đội của mình ( Quân đội Hoàng Gia Sachsen) với quyền chỉ huy tối cao thuộc về vua Sachsen


2.Hệ thống chỉ huy tối cao

Tổng tư lệnh các  lực lượng vũ trang Bắc Đức là Tổng Thống - Quốc Vương Wilhelm I Quản lý các lực lượng quân đội là  Bộ  Chiến Tranh Kriegsministeriums , đứng đầu là Bộ Trưởng Chiến Tranh - Thượng tướng Bộ Binh Albert von Roon

                        Thượng tướng Bộ Binh Albert von Roon                                Quốc vương Wilhelm I  

Các khu vực trên khắp nước Phổ được chia thành nhiều vùng , quản lí quá trình mộ binh,  huấn luyện tổ , chức và trang bị được thục hiện bởi Armeekorps - Quân đoàn Lục Quân  . Vào thời chiến các HQ quân đoàn trở thành sở chỉ huy chiến dịch trên chiến trường , phó tư lệnh quân đoàn ở lại vận hành thông thường của A.K. trong thời bình.

Trướac năm 1866 quân đội  Phổ có 9 quân đoàn bao gồm  Vệ binh . Sau khi Liên Bang Bắc Đức được thành lập , các lực lượng quân sự của Bắc  Đức (Quân đội hoàng gia Phổ và Quân đội hoàng gia Saxon) tiếp tục sử dụng hệ thống của Phổ .  
 3 quân đoàn mới được thành lập (IX. , X. , XI) để bảo vệ các vùng lãnh thổ , biên chế với 16 Trung đoàn bộ binh của  Phổ  thành lập mới  và 11 Trung đoàn của các bang nhỏ còn lại sát nhập vào quân đội  Phổ . Quân Đội Hoàng Gia Sachsen với 2 Sư đoàn -  trở thành Quân đoàn XII. (I. Königlich Sächsisches ) theo hệ thống của Bộ tư lệnh tối cao Phổ . Riêng quân đội Hesse trở thành Sư đoàn bộ binh độc lập 25

Quân đoàn

Sở chỉ huy tại

Gardekorps (Vệ binh Hoàng Gia Phổ)

Berlin ,  Brandenburg

I.Armeekorps

Königsberg , Đông Phổ

II.Armeekorps

Stettin , Pomerania

III.Armeekorps

Frankfurt am der Oder , Brandenburg

IV.Armeekorps

Berlin , Brandenburg

V.Armeekorps

Posen , Posen

VI.Armeekorps

Breslau , Silesia

VII.Armeekorps

Münster, Westfalen

VIII.Armeekorps

Koblenz , Rhine

IX.Armeekorps

Schleswig-Holstein

X.Armeekorps

Hannover , Hannover

XI.Armeekorps

Nassau , Hesse-Nassau

XII.Armeekorps

Dresden , Vương quốc Sachsen

Großherzoglich Hessische 25.Division

Darmstadt , Đại Công Quốc Hesse


Dưới Quân Đoàn là các Sư Đoàn và Sư Đoàn được biên chế Lữ đoàn , Trung đoàn , …
sẽ nói rõ hơn ở các phần sau 

Cấp bậc (Chỉ huy chiến thuật)

Chỉ huy(các đội hình/đơn vị chiến thuật)

Generalfeldmarschal - Thống chế

Armee -  Tập Đoàn Quân

General der Thượng tướng binh chủng (Infanterie/Kavallerie/Artillerie)  

Armee , ArmeeKorps - Quân Đoàn

Generallieutenant  - Trung tướng

Armeekorps , Divisionen - Sư Đoàn

Generalmajor - Thiếu tướng

Brigaden - Lữ Đoàn

Oberst - Đại tá

Regiment - Trung Đoàn

Oberstlieutenant - Trung tá

Bataillone - Tiểu Đoàn

Major - Thiếu tá

Bataillone - Tiểu Đoàn

Capitän/Rittmeister/Hauptmann - Đại Úy

Kompanie - Đại đội / Schwadron -Kỵ đội


Ngoài ra hệ thống các quy tắc chỉ huy của quân đội Phổ cũng hoàn toàn khác biệt so với phần còn lại của châu Âu . Trải qua nhiều cuộc chiến tranh khác nhau , quân đội Phổ cũng dần nhận sự phức tạp trong việc thực hiện các cuộc vận động cấp chiến dịch cũng như sự hỗn loạn ở cấp chiến thuật nhất là khi tiến hành chiến tranh có độ cơ động cao như vậy. Để giải quyết vấn đề này đòi hỏi sự linh hoạt tận dụng sự chủ động của các chỉ huy cấp dưới . ''Selbständigkeit der Unterführer'' - Sự độc lập của các cấp chỉ huy dưới quyền chính là khả năng nhận biết tình huống và tự ra quyết định nhằm tận dụng những cơ hội trên chiến trường .Các chỉ huy thường hay làm trái với mệnh lệnh cấp trên , dựa trên sự đánh giá tình huống của chính anh ta thay vì là công cụ của các chỉ huy cấp trên. Dễ hiểu là tình huống đang diễn ra trước mắt anh sẽ trôi đi nếu anh báo cáo và chờ lệnh từ cấp trên nên có lẽ anh nên phá lệ bằng cách tự mình hành động

Sau thất bại cực sốc trước Napoleon năm 1806 đã diễn ra các cuộc cải cách mạnh trong quân đội Phổ , bao gồm cả việc hình thức hóa hệ thống chỉ huy độc lập này .Trong quy định tập trận bộ binh năm 1812 quy định việc tiến hành trận đánh theo kiểu một chuỗi các nước đi (set-piece, kiểu như đánh cờ) sẽ bị bãi bỏ mà thay vào đó phải là việc tiến hành trận đánh một cách trôi chảy dựa theo sự diễn biến liên tục trên chiến trường , sự chủ động và độc lập trong chỉ đạo là nhân tố quyết định .

''Mọi thứ trong chiến tranh rất đơn giản , nhưng những thứ đơn giản nhất lại rất phức tạp . Những khó khăn tích tụ lại và kết quả là nó tạo ra một lực ma sát không thể tưởng tượng được khi họ đã rải nghiệm chiến tranh '' - Clausewitz

Hàm ý của Clausewitz ở đây ám chỉ ''ma sát'' là tính hỗn loạn (ngẫu nhiên) trong chiến tranh - điều khiến nó khác với cờ vua khi mà mọi thứ đều nằm trong các kết quả có thể tính toán tuyệt đối mà không bị ảnh hưởng bởi vô số yếu tố khác nhau .

''20. Chỉ còn thiếu yếu tố ngẫu nhiên nữa là làm cho chiến tranh thành một trò đánh bạc, và chính ngẫu nhiên lại thường xảy ra trong chiến tranh''

-Trích Vom Kriege Tập 1 , Carl von Clausewitz

Ngay sau khi chiến dịch thực tế được tiến hành , nó sẽ bị các yếu tố ngẫu nhiên đẩy xa dần so với quỹ đạo kế hoạch ban đầu (sự khác biệt giữa thực tế và lý thuyết) ,do đó các kế hoạch quá chi tiết của người chỉ huy cấp trên về các hành động chiến đấu trong tương lai chắc chắn sẽ không thể nào được thực hiện hoàn hảo như các nước đi cờ vua

''Không một kế hoạch chiến dịch nào có thể đạt được sự chắn chắn vượt qua một giới hạn mà nó chỉ có thể bị phá vỡ khi chạm trán với chủ lực địch''

- Thống chế Helmuth von Moltke

"Tôi không có bất kì kế hoạch chiến dịch nào'' - Napoleon nói nửa đùa

Để đối mặt với những sự ngẫu nhiên này thì sự chủ động của cấp dưới là rất quan trọng vì anh ta sẽ là người trực tiếp vấp phải vấn đề và thay vì báo cáo lên cấp trên và đợi lệnh , anh ta sẽ giải quyết nó nếu có thể và nếu không làm ảnh hưởng đến toàn bộ chiến dịch .Tất nhiên là ta vẫn sẽ cần một kế hoạch để giới hạn các hoạt động chiến tranh sao cho nó hướng đúng với mục tiêu đề ra (tránh sự lạc đề ) , nhưng các kế hoạch càng chi tiết thì càng giới hạn sự do hành động vào một khuôn khổ nhất định. Với các chỉ huy cấp dưới , phương pháp chỉ đạo này yêu cầu anh ta phải hiểu được ý đồ và có được sự tin tưởng của người chỉ huy cấp trên nhằm tránh các hoạt động đi lệch hướng so với nhiệm vụ .Phương pháp chỉ đạo này về sau dẫn đến sự ra đời của thuật ngữ ''Auftragstaktik'' -' đây là một thuật ngữ hiện đại được xuất hiện từ những năm 1890. Trái với "Befehlstaktik" - hành động dựa trên lệnh , ''Auftragstaktik'' - hành động dựa trên nhiệm vụ nghĩa là người chỉ huy sẽ chỉ cho biết ý đồ của mình để cho cấp dưới thực hiện - một sự khác biệt rõ ràng giữa MỤC TIÊU NÀO cần phải  đạt được mục tiêu và LÀM THẾ NÀO để đạt được mục tiêu.

Tất nhiên là phương pháp chỉ huy này hiệu quả nhưng không hoàn hảo , quyết định độc lập từ cấp dưới phù hợp với tình hình chưa chắc sẽ đảm bảo cho một thành công chắc chắn ví dụ như :

-Eduard von Flies tấn công trực diện một vị trí cộng sự vững chắc một cách đẫm máu với tỉ lệ quân số 1:2 của quân đội Hanover trong trận Langensalza 1866

-Trong chiến tranh 7 năm khi Áo đưa 50.000 quân đến giải cứu Prague , một quyết định tấn công lập tức tại Kolin không rõ là từ Frederick Đại Đế hay cấp dưới của ông - von Manstein (Đúng tên rồi đấy ! )  , và từ dự đính đánh vào sườn quân Áo đã biến thành cuộc tấn công trực diện của 35.000 quân Phổ vào vị trí chuẩn bị của Áo , quân Phổ sau đó rút lui trong hỗn loạn .

-Trong chiến dịch phản công bán đảo Kerch của tập đoàn quân 44 Hồng quân , đánh thẳng vào sườn phải XXXXII.AK , lúc này chỉ có 1 Sư đoàn (44.) Hans von Sponeck tư lệnh AK xin được rút tuy nhiên Von Manstein - tư lệnh AOK.11 từ chối , sau 3 lần như vậy Sponeck bằng tự mình ra lệnh rút lui khỏi vị trí ngày càng hở sườn , các vũ khi hạng nặng bị bỏ lại và cuộc rút lui gấp rút gần như trở thành hỗn loạn . Franz Halder tham mưu trưởng OKH miêu tả ngày hôm đó ''một ngày rất khó khăn'' . Sponeck bị đưa ra tòa án binh và đi tù vì tội không tuân lệnh cấp trên dù đã bào chữa cho mình rằng truyền thống của một sỹ quan Phổ là tự mình thực hiện các quyết định sao cho hợp với chiến trường .


3. Hệ thống Tham mưu  

Grande Armée - đội quân bách chiến bách thắng của Napoleon là một đội quân với phong cách chưa từng có ở những quân đội chuyên nghiệp khác ở Châu Âu , một tập thể các binh lính với tinh thần dân tộc được dẫn dắt bởi các sỹ quan thăng tiến từ hàng ngũ và những vị tướng , thống chế đủ thể loại xuất thân khác nhau . Chính đội quân ấy đã đập tan quân đội Phổ kỷ luật vào năm 1806 .  Các sỹ quan của quân đội ngày ấy được tuyển chọn dựa trên xuất thân và lòng trung thành với hoàng gia , chỉ cần là quý tộc  thì sẽ tự khắc trở thành sỹ quan trong quân đội bất chấp việc chưa hề có kinh nghiệm quân sự trước đó , còn nếu xuất thân từ những tầng lớp thấp bé hơn thì không thể vượt quá Hạ Sỹ Quanbởi những tầng lớp như vậy ‘’không được phép chỉ đạo tầng lớp lãnh đạo’’ , đây chính là đặc trưng của  quân đội các nước quân chủ ngày ấy .  Tướng Genhard von Scharnhorst cùng các sỹ quan khác cho rằng việc tuyển chọn nên dựa trên tài năng thay vì xuất thân nhưng việc thay thế các sỹ quan quý tộc bằng những sỹ quan thăng tiến từ hàng ngũ là điều không thể (vì các lí do như sự nghi ngờ chính trị đối với tầng lớp trung lưu cũng như giới quý tộc sợ mất đi chỗ đứng của mình) nên giải pháp lúc bấy giờ là cung cấp cho các chỉ huy quý tộc này thêm một bộ não thứ hai, như Scharnhorst nhận xét :

’’Thông thường thì việc chỉ đơn giản là cách chức các tướng lĩnh yếu kém là điều không thể. Nguyên nhân hàng đầu là bởi quyền lực mà họ được ban cho , cũng như sự bè phái hỗ trợ lẫn nhau giữa những vị tướng ấy , tất cả đều tin rằng họ là những đại diện tốt nhất của quân đội. Nhưng ít nhất chúng ta có thể giao cho họ một người trợ lí có trình độ, vì thế nên các Sỹ quan tham mưu là những người có vai trò hỗ trợ những vị chỉ huy yếu kém , cung cấp cho họ những tài năng mà những nhà lãnh đạo , chỉ huy thiếu sót’’

Năm 1808 , các cuộc cải tổ quân đội đã được thưuc hiện. Theo đề xuất của Scharnhorst , Generalstab - Bộ Tổng Tham Mưu đã được thành lập , thay thế hệ thống tham mưu cũ của Phổ . Generalstab, đứng đầu là Generalstabschefs - Tổng tham mưu trưởng có vai trò cố vấn tổng tư lệnh (Vua Phổ) trong việc điều hành các hoạt động quân sự . Bộ tổng tham mưu từ đó thiết lập các ban tham mưu cho các tập đoàn quân , quân đoàn và sư đoàn trên chiến trường và có các kênh liên lạc trực tiếp với nhau . Điều này giúp , dù không có quyền chỉ đạo như các chỉ huy nhưng các ban tham mưu có thể tư vấn và hỗ trợ các chỉ huy trong việc đưa ra quyết định giúp các chiến dịch được triển khai phối hợp đúng hướng hơn , phù hợp với kế hoạch đề ra . Generalstab không  thuộc Bộ Chiến  Tranh tuy nhiên Tổng Tham Trưởng lại nằm dưới sự quản lí của Bộ Chiến Tranh. Tổng Tham Mưu Trưởng là chỉ huy tối cao của các sỹ quan tham mưu  , đến năm 1821 sỹ quan tham mưu có phù hiệu quân phục riêng


Một điểm đặc biệt trong hệ thống này này chính là sự chia sẻ trách nhiệm của chỉ huy lẫn tham mưu của mình trong đó : chỉ huy sẽ phải chịu trách nhiệm cho quyết định của mình và tham mưu sẽ phải chịu trách nhiệm vì lời khuyên của mình đưa ra cho chỉ huy . Generalstab trực thuộc Bộ Chiến Tranh

Trung tướng Genhard von Scharnhorst ,                                         Thiếu tướng August von Gneisenau                                                                  Tham Mưu Trưởng đầu tiên quân đội Phổ                                   Tham mưu trưởng của Thống chế Blücher



Các sĩ quan làm việc trong các ban tham mưu đều phảiđược đào tạo tốt để có thể bù đắp cho sự thiếu hụt trình độ của nhiều chỉ huy trong khoảng thời gian đó. Scharnhorst đã đóng góp vai trò cực kì quan trọng về vấn đào tạo quân sự . Năm 1810 , tại Berlin thành lập một trường quân sự mới - Allgemeine Kriegsschule về sau trở thành Kriegsakademie (Học viện chiến tranh) nổi tiếng. 


    nh : Allgemeine Kriegsschule , Berlin .


    Ảnh : Kriegsakademie , Số 74 phố Unter den Linden , Berlin

Ý tưởng của Scharnhorst là lực lượng sỹ quan được đào tạo toàn diện không chỉ về các vấn đề quân sự mà còn về kiến thức phổ thông nhằm giúp người sỹ quan vận dụng được khả năng suy luận ví dụ như học Toán để rèn luyện tư duy , học tiếng Pháp để có thể nghiên cứu văn hoá và quân sự của đất nước này , v.v Đồng thời cung cấp sự hiểu biết không chỉ chiến thuật quân sự mà còn là sức mạnh của quốc gia nhằm có một góc nhìn chiến lược tốt hơn (các môn như Địa Lí , lịch sử tổng quát ).

Mỗi năm Kriegsakademie sẽ tuyển 120 học viên thông qua các bài kiểm tra tuyển mộ những sỹ quan xuất sắc đến từ các trung đoàn . Chương trình học sẽ có một loạt các bài kiểm tra mức độ khó nhằm chọn lọc một số sỹ quan tốt nhất khoảng 40 người sẽ tốt nghiệp và một vài cá nhân xuất sắc sẽ được đào tạo thêm để làm việc trong Bộ Tổng Tham Mưu

Chương trình đào tạo -Allgemeine Kriegsschule , năm 1823

Năm nhất

Năm hai

Năm ba

-Giải tích số đếm được
-Trắc địa học
-Lịch sử đại cương
-Phân tích số liệu
-Pháo binh
-Các chiến thuật
-Trinh thám địa hình
-Tiếng Pháp giao tiếp
-Thuật cưỡi ngựa

-Lượng giác khối cầu
-Khoa học cơ khí cơ bản
-Giải tích số vô cực
-Khoa học công sự
-Vật Lí
-Phát triển chiến lược
-Trinh thám địa hình
-Tiếng Pháp giao tiếp
-Văn học Đức

-Lịch sử các chiến dịch
-Chiến tranh pháo đài
-Văn học đại cương
-Lịch sử Tổng Tham Mưu
-Trinh thám địa
hình


Đây chính là chương trình đào tạo mà một học viên Kriegsakademie khóa 1823 - 1826 sẽ đưa quân đội Phổ lên đỉnh cao trong lịch sử của nó , xây dựng nên Đại Tham Mưu của Đế Quốc Đức sau này và cũng thuộc lứa ‘’thế hệ vàng’’ nổi bật nhất trong suốt lịch sử Kriegsakademie được dẫn dắt bởi hiệu trưởng von Clausewitz - nhà lí luận quân sự kinh điển thời ấy .


        Thiếu tướng Carl von Clausewitz                                      Thượng tướng Bộ Binh Helmuth von                                                                                                                                              Moltke , Tổng tham mưu trưởng 1857-1888


Helmuth von Moltke trở thành Tổng tham mưu trưởng quân đội Phổ từ năm 1857 ,ông đã xây dựng hệ thống tham mưu của mình bằng các sỹ quan tham mưu từ ngôi trường cũ của ông . Trong thời bình vì không có chiến tranh nên các sỹ quan chưa thể tích lũy kinh nghiệm , Moltke đã sắp xếp cho Kriegsakademie tổ chức các chiến dịch giả định  , bằng những trận đánh trên giấy các sỹ quan được huấn luyện với chiến thuật và học thuyết quân đội Phổ  .Mỗi năm trong số 40 học viên tốt nghiệp Kriegsakademie ,đích thân ông chọn 12 người tốt nhất làm việc trong Bộ Tổng Tham Mưu. Những người này sẽ được đích thân Moltke huấn luyện bổ sung sau đó , họ dành vài năm ở sở tham mưu của ông và cưỡi ngựa bên cạnh ông trong các cuộc  tập trận . Sau khi đã có đủ kinh nghiệm , những sỹ quan này sẽ được giao nhiệm vụ luân phiên tại các Trung Đoàn và sở tham mưu của Moltke .  Bằng cách này Moltke có thể xây dụng được một đội ngũ tham mưu có thể hoạt động đúng với kế hoạch và ý định của mình, một đội quân hiện đại quá lớn để ông có thể xuất hiện mọi lúc mọi nơi để thực hiện các ý tưởng của mình vì thế  Moltke tự tạo ra những ‘’bản sao’’ của mình.

Ngoài vận hành hệ thống tham mưu , vào thời bình Bộ Tổng Tham Mưu còn có vai trò nghiên cứu lịch sử ,các chiến dịch quá khứ , tổ chức các đơn vị hay lập kế hoạch chiến tranh cho cuộc chiến khả dĩ tiếp theo . Khác với Lầu Năm Góc ngày nay của Bộ Quốc Phòng Mỹ nơi tuồn ra hàng trăm nghìn tài liệu mỗi năm thì Bộ Tổng Tham Mưu của Moltke chỉ có khoảng 88 người lập các kế hoạch chiến tranh với Áo năm 1866 và với Pháp năm 1870 .

Điều mà quân đội Áo và Pháp thiếu trong các cuộc chiến này đều là các kế hoạch chiến tranh chi tiết từ trước . Trong cuộc chiến với Áo nam 1866 quá trình vận chuyển quân số đều được Bộ Tổng Tham Mưu chuẩn bị  trước chiến tranh  , sử dụng hệ thống điện tín từ sở chỉ huy của mình tại Berlin, Moltke đã điều quân di chuyển bằng hệ thống đường sắt đến mặt trận theo 3 đạo nhằm bọc sườn quân Áo tại Königgrätz . Thống chế Áo Heinrich Hess sau này nói ’’Người Phổ đã cho thấy rằng sức mạnh của lực lượng vũ trang bắt nguồn từ tình trạng sẵn sàng của nó. Các cuộc chiến tranh ngày nay diễn ra nhanh đến mức những gì chưa sẵn sàng từ đầu sẽ không thể bắt kịp với thời gian…một đội quân luôn sẵn sàng chiến đấu mạnh gấp đôi một đội quân chưa sẵn sàng’’.

Bộ Tổng Tham Mưu sau năm 1866 được tổ chức gồm 5 Tổng cục và 2 cục

-Tổng cục 1 : Nghiên cứu Thụy Điển , Na Uy , Thổ Nhĩ Kỳ và  Áo
-Tổng cục 2 : Nghiên cứu Nam  Đức , Ý và  Thụy Sỹ
-Tổng cục 3 : Nghiên cứu Pháp ,Anh , Bỉ ,Hà Lan , Tây Ban Nha ,Bồ  Đào Nha và  Hoa Kỳ
-Tổng cục 4 : Vận tải đường sắt
-Tổng cục 5 : Bộ phận thăm dò  
- Cục lịch sử : Nghiên cứu các chiến dịch cũ
- Cục thống kê địa lí : Nghiên cứu bản đồ , địa hình

Khi chiến tranh với  Pháp nổ ra vào năm 1870 Bộ  Tổng Tham  Mưu được tổ chức thành 3 cục

- Cục chiến dịch , Trung tá Bronsart von Schellendorf làm  cục trưởng
- Cục chính trị  , Trung tá von Verdy du Vernois làm cục trưởng
- Cục đường sắt , Trung tá von Brandenstein là m cục trưởng

Để chuẩn bị cho cuộc chiến với Pháp , Moltke cho gửi các sỹ quan tham mưu sang Pháp để khám phá các con đường vẽ bản đồ và nghiên cứu các pháo đài, ước tính dự trữ lương thực các thị trấn , thành phố . Thiếu tá Alfred von Waldersee , tùy viên quân sự  Phổ tại Paris đã trở thành tình nhân của Phụ tá chính của Louis Napoleon giúp cung cấp một số thông tin quan trọng về tình hình quân đội Pháp .

Đến năm 1869 kế hoạch tấn công Pháp đã hoàn thành . 

’’May mắn chỉ đến với kẻ đã chuẩn bị sẵn’’
- Helmuth von Moltke-


Vào ngày 2 tháng 6 năm 1866  Quốc Vương Wilhelm I đã gia tăng quyền lực vị trí  của Helmuth von Moltke, giờ đây Tổng Tham Mưu Trưởng không những có vai trò  tham mưu mà còn được quyền chỉ huy dưới danh nghĩa Quốc Vương khi ông vắng mặt .
Các quyết định của Moltke được thông báo cho Wilhelm thông qua Bộ chiến tranh .

4. Hệ thống hậu cần

Mỗi quân đoàn đều có 1 tiểu đoàn vận tải thuộc trung đoàn pháo binh để tiếp tế cho mình . Một tiểu đoàn vận tải gồm:
- 5 Đoàn lương thực , mỗi đoàn 32 xe ngựa
- 1 Đoàn nướng bánh với 5 xe ngựa
- 1 Đoàn ngựa dự bị với 170 con ngựa và 1 xe ngựa
- 3 Đoàn cứu thương , mỗi đoàn gồm 10 xe với 1 đại đội quân y
- 1 Kỵ đội hộ tống với 120 ngựa và 1 xe
- 1 Đoàn dự phòng , vận hành bởi tù binh địch nếu cần thiết

Ngoài tiểu đoàn tiếp tế ra , trung đoàn pháo binh  còn 5 Đoàn vận tải đạn pháo , mỗi đoàn gồm  5 xe ngựa  và  4 Đoàn vận tải đạn dược bộ binh , mỗi đoàn gồm 6 xe ngựa  . Biên chế như này giúp trong trường hợp Quân Đoàn tách ra , cả 4 Sư Đoàn Bộ binh đều có 1 đoàn vận tải đạn bộ binh và 1 đoàn vận tải pháo binh , đoàn vận tải pháo còn lại phục vụ pháo binh dự bị .



Kho đạn dự bị nơi các đoàn xe lấy đạn được tập hợp bởi 2 phân đội , mỗi phân đội gồm 9 sỹ quan , 195 binh sĩ và 264 xe kéo . Mỗi phân đội được chia thành 8 Đoàn ,mỗi đoàn 33 xe kéo . Các đoàn xe được vận chuyển bằng đường sắt hoặc đường biển hoặc vận chuyển thuê trên đất nước đang tiến hành chiến tranh và thường di chuyển sau Tập Đoàn Quân khoảng 1 - 2 ngày hành quân

Ngoài ra mỗi Quân Đoàn còn có 5 đoàn Quân Nhu , mỗi đoàn gồm 2 sĩ quan , 101 người , 165 ngựa và 32 xe ngựa cho việc tiếp tế thực phẩm , trang thiết bị và các nhu yếu phẩm khác .  

Để điều hành quá trình tiếp tế cho quân đội , mỗi Tập Đoàn Quân , Quân Đoàn và  Sư  Đoàn đều có sỹ quan hậu cần với nhiệm vụ quản lí chỉ huy các đoàn vận tải từ cấp cao đến các cấp thấp . Với hệ thống quản lí phân chia trách nhiệm từ cao đến thấp việc ứng biến với các tình huống mới có thể diễn ra dễ dàng nhanh chóng hơn (tương tự Auftragstaktik) cũng như trách nhiệm có thể đổ lên đúng người khi sai lầm xảy ra . Ngược lại với cơ chế tập quyền của Intendance trong quân đội Pháp , toàn bộ trách nhiệm đè lên vai một nhóm nhỏ và họ phải quản lí và điều tiết toàn bộ quá trình tiếp tế cho quân đội đã dẫn đến sự hỗn loạn  vào đầu cuộc chiến khi triển khai quân số đến mặt trận



’’Mỗi một quá trình cải tiến đường sắt đều làm là một lợi ích quân sự và phòng thủ quốc gia , chúng ta có nhiều lợi ích hơn khi chi tiêu vào đường sắt hơn là các pháo đài’’ - Thiếu tá Helmut  von Moltke ,1842


Những cuộc tranh luận về việc sử dụng đường sắt như nào để vận chuyển quân đội đã nổ ra từ những năm 1830 và vào năm 1859 họ đã có cơ hội thử nghiệm khi cuộc chiến tranh Pháp - Áo nổ ra trên đất Ý .Nhằm đề phòng cuộc xâm lược của Pháp , quân đội đã huy động tổng lực nhưng không có viên đạn nào được bắn ra .

Quá trình vận hành các tuyến đường sắt đòi hỏi sự căn chỉnh thời gian chính xác , những chuyến tàu đến , đi và ngang qua trạm sau cho đoàn tàu có thể đến đúng trạm đòi hỏi hệ thống liên lạc tốt . Những yếu tố này được đáp ứng bởi hệ thống liên lạc điện tín với các đường dây liên lạc được nối khắp cả nước , điều này giúp sở chỉ huy ở  Berlin có thể điều tiết các hoạt động vận chuyển khắp cả nước .
 Các kế hoạch lịch trình được soạn sẵn từ trước trong kế hoạch chiến tranh của Bộ  Tổng Tham Mưu là một yếu tố rất quan trọng nhằm giảm thiểu tình trạng hỗn loạn khi luân chuyển khối lượng lớn với cường độ cao


Ảnh : Khinh kỵ Phổ cắt đứt đường dây điện tín của Pháp

Mỗi Tập Đoàn Quân , Quân Đoàn và Sư Đoàn đều có trạm điện tín của mình , mỗi trạm điện tín gồm 1 thanh tra , 5 trợ lí , 4 xe ngựa và 6 xe ngựa chở hàng. Các trợ lí mang theo máy ắc quy và thiết bị cố định dây trên xe ngựa , 6 xe chở hàng mỗi xe mang theo 32km dây cáp .Quá trình đi dây được thực hiện bởi sĩ quan thông tin và các trợ lí , khi có lệnh từ tư lệnh người sĩ quan tự quyết định hướng của đường dây sao cho có thể kết nối các trạm với nhau ,cưỡi ngựa trước các xe chở hàng ở tốc độ nước kiệu đánh dấu cho xe chở hàng ở sau , người lái xe ngựa di chuyển theo dấu và dây cáp được rải xuống đất bằng một bánh lăn. Một số binh sĩ từ các Trung đoàn dưới quyền sẽ được cử đến để xếp lại dây và đóng chốt cố định mỗi 100 mét , nhóm thứ hai đi theo sẽ xoắn cắp quanh dây cánh điện làm bằng nhựa thông đồng thời dựng các trạm liên lạc , nhóm thứ ba đi sau cùng tiến hành căng dây và loại bỏ một số vật thể có thể làm ảnh hưởng tới đường dây . Mất 3 tiếng để đi 6,5km đường dây, các đường dây được ưa thích nối bên cạnh đường ray tàu hỏa hơn . Để đi dây qua sông hoặc hồ , mỗi Sư đoàn mang thêm 8km dây bọc cách điện . Các căn nhà được sử dụng làm văn phòng đặt máy điện tín , trong trường hợp không thể tìm thấy những nơi như vậy, máy được sử dụng luôn trên xe ngựa .Trong chiến dịch sắp tới chuỗi các công sự , pháo đài vây hãm sẽ gây không ít sự khó chịu với quân Phổ làm khó quá trình nối dây , những kẻ địch không mặc quân phục hay thường dân bị phát hiện cắt dây đều sẽ bị xử như gián điệp   

Quá trình liên lạc với quê nhà sử dụng hệ thống bưu chính . Mỗi quân đoàn đều có 1 Chủ sự bưu điện , 6 trợ lí ,4 trợ lí ở các sở chỉ huy của Sư đoàn dưới quyền , 14 người phân loại thư và 19 lái xe đưa thư. Các bưu điện quân đoàn được trang bị 3 xe chở hàng ,1 xe thổ mộ và 1 xe thùng kín  . Cá xe chở hàng được sử dụng để chở thư , xe thổ mộ chở chủ sự bưu điện và xe thùng kín chở các loại bàn ghế thiết bị văn phòng . Các bưu điện Sư đoàn được trang bị 2 xe chở hàng để đưa thư , các phong bì được gửi đến các  Trung đoàn dưới quyền bằng một tờ giấy , mặt trước điền

’’Người đưa thư x

Đến

Địa chỉ’’

Và mặt sau chứ lá thư  được viết bằng bút chì. Vào mỗi buổi sáng các người lái xe lướt đi qua các đơn vị , dùng kèn để thu hút sự chú ý và nhận thư bỏ vào túi vải . Trong 3 tháng đầu chiến tranh , khoảng 12 triệu lá thư đã được luân chuyển bằng hệ thống bưu chính quân đội

Đến năm 1864 khi Phổ cùng Áo tấn công Đan Mạch , quân đội Phổ đã vận chuyển 15000 quân cùng ngựa di chuyển qua 250km bằng 42 chuyến tàu dù có hơi hỗn loạn .Chiến thắng trong cuộc chiến giúp Phổ giành lại được Công quốc Schleswig-Holstein , những kinh nghiệp trong việc sử dụng đường sắt giúp quân đội Phổ có thể xây dựng phương pháp triển khai trong cuộc chiến tiếp theo với quy mô lớn hơn


Trong chiến tranh Áo - Phổ 1866 trên  5 tuyến đường sắt khác nhau khoảng 280 000 quân Phổ đã tập hợp tại mặt trận Sachsen và Böhemia trong 25 ngày , ngược lại 210 000 quân Áo di chuyển bằng chỉ 1 tuyến đường sắt duy nhất dẫn đến mặt trận cần đến 45 ngày . Trong cuộc chiến này các vấn đề nảy sinh ở cả hai bên , mặc dù đợt chuyển quân ban đầu khá thuận lợi nhưng khi quân Phổ tiến vào Sachsen , các đoàn tàu nhanh chóng bị mắc kẹt ,những đoàn tàu chở lương và đạn bị chuyển đến nhầm ga khiến nhiều đơn vị phải chiến đấu mà không có đạn , những người bị thương nặng thì không thể chuyển về nước bởi tuyến đường chỉ có 1 ray duy nhất đã bị kẹt cứng . Tình trạng bên phía Áo lại càng hỗn loạn hơn nhiều . Một lợi thế khác của Phổ so với Áo là việc tổ chức 3 tiểu đoàn công binh đường sắt Feldeisenbahnabteilung , những đơn vị được trang bị đầy đủ các loại thiết bị và một đoàn tàu riêng để có thể nhanh chóng xây dựng cầu và ray đường sắt để đưa tuyến đường trở lại hoạt động 

Khác với Pháp khi mang lưới đường sắt chủ yếu được bố trí như mạng nhện với tâm là thủ đô Paris thì hệ thống của các bang Đức là các tuyến chạy dọc trục Bắc Nam hoặc Đông - Tây với nhiều trung tâm khác nhau , điều này là bởi sự phân chia các tiểu quốc trước đó của Đức .


Ảnh : Mạng lưới đường sắt toàn Đức năm 1870

Về mật độ các tuyến đường sắt ngày ấy , Phổ đứng thứ tư và Pháp đứng thứ năm trên thế giới. Sau chiến tranh cả 2 phe đều tố cáo lẫn nhau rằng họ xây dựng đường sắt chỉ nhằm mục đích quân sự , quả thực các tuyến đường sắt nối đến Koenigsberg và  từ đó đến khu vực biên giới Đông Phổ là mạng lưới đường sắt đầu tiên ở Phổ được xây dựng với mục đích quân sự (rất khó để tìm một công ty tư nhân chịu hợp tác đầu tư tuyến đường này và phải chủ yếu nhờ vào nợ công để xây dựng nó) nhằm đề phòng quân đội Nga ở dải đất Đông Phổ .


Ảnh : Ga Postdam , Berlin nam 1843

Một điểm yếu  của hệ thống đường sắt Bắc Đứclà việc các tuyến đường sắt do quá nhiều công ty sở hữu và nằm dưới sự quản lý của các cơ quan khác nhau thay vì chỉ 1 công ty quản lí các tuyến đường phía Đông như Pháp - nguyên nhân của việc này do sự phân chia các tiểu quốc từ trước của Đức , Bộ trường đường sắt vương quốc Sachsen phàn nàn rằng sự không đồng nhất giữa các vùng gây ra nhiều sự hỗn loạn và bối rối khác nhau đáng chú ý nhất là việc ở một số vùng tín hiệu màu trắng là ‘’dừng’’ nhưng ở một số vùng khác thì tín hiệu trắng lại là ‘’phía trước trống trải’’.

Để giải quyết một số vấn đề này  ,Moltke tiến hành tăng cường quyền kiểm soát các tuyến đường sắt bởi quân đội nhất là với các tuyến theo trục Đông - Tây.Một hội đồng gồm các quan chức quân sự - dân sự được thiết lập ở Berlin  nhằm điều tiết các hoạt động triển khai quân số khi có lệnh điều động chiến tranh . Các tuyến đường sắt chạy qua các bang Bắc Đức cũng đều có các hội đồng riêng nằm dưới quyền hội đồng chính ở  Berlin và Bộ Tổng Tham Mưu .  Các đầu máy,  toa hàng và ga tàu đều nằm dưới sự kiểm soát của quân đội . Khi chiến tranh kết thúc , quân đội sẽ trả phí bồi thường cho các công ty tư nhân .





Để điều trị cho thương binh mỗi Trung Đoàn Bộ Binh đều có bộ phận quân y với 6 bác sĩ phẫu thuật , mỗi Trung Đoàn Kỵ Binh 3 bác sĩ phẫu thuật . Trung bình mỗi bác sĩ phẫu thuật tương ứng với mỗi 500 người, để so sánh ,  tỉ lệ trong  xã hội Phổ bấy giờ là 1 bác sĩ phẫu thuật tương ứng 2000 người.  Mỗi quân đoàn có 3 tiểu đoàn Krankenträger thực hiện các công việc khiêng cáng , mỗi tiểu đoàn Krankenträger gồm 150 người khiêng cán , 8 y tá , 8 thợ lắp ráp , 1 dược sư , 7 bác sĩ và 3 sĩ quan . Trang bị với 6 xe cứu thương với băng gạt , bông gòn và thuốc . Để hỗ trợ Krankenträger , mỗi Đại đội bộ binh cử 4 người thực hiện các công việc vận chuyển thương binh từ chiến trường,  khi có giao chiến xảy ra một nửa số bác sĩ đi theo các trung đoàn , mỗi người lính đều mang trong người băng gạt khi anh ta ngã xuống các bác sĩ quân y có thể chạy đến mở áo khác và lấy các dụng cụ sơ cứu . Các hạ sĩ quan mang theo garô cầm máu . Vì  luôn tập trung vào các vấn đề chiến thuật trong cuộc giao tranh nên các hạ sĩ quan không thể dừng lại để hỗ trợ các bác sĩ , nhưng trong những tình huống trung đoàn chịu thương vong lớn đến mức không đủ  quân y hay những cuộc giao tranh diễn ra ở nơi các bác sĩ không thể tiếp cận thì những miếng garo này có thể sẽ cứu mạng nhiều thương binh. Sau khi đã hoàn tất quá trình sơ cứu , bác sĩ nhận xét và đánh giá mức độ thương tích vào một hồ sơ xem thương binh chỉ cần đưa về trạm quân y hay phải gửi về bệnh viện dã chiến ở sâu trong hậu phương .  Các trạm quân y vận hành bởi Krankenträger có đầy đủ các thiết bị cần thiết cho 200 bệnh nhân và thương binh , mỗi trạm quân y gồm 5 bác sĩ , các trợ lí bác sĩ , 3 đến 4 xe vận chuyển và các quân nhân nếu cần thiết , mỗi quân đoàn (khoảng 30 000 người ) có 12 trạm quân y như vậy , tổng sức chứa 2400 quân nhân. Chỉ khoảng 8% quân số quân đoàn có thể được điều trị cùng lúc, con số này là không phù hợp khi thời đại của súng trường nạp hậu có tầm và tốc độ bắn nhanh khác với những cuộc dàn hàng đọ súng hỏa mai như thời  Napoleon, quân đội Pháp sẽ là  đối thủ đầu tiên sử dụng súng trường nạp hậu mà quân đội  Phổ sẽ đối mặt. Trong các chiến dịch đầu tiên với súng  trường nạp hậu trung bình  cứ mỗi 1 trong 3 người thuộc các Trung đoàn bị hạ  gục (thương và chết) . Những trường hợp nặng hơn được đưa về bệnh viện dã chiến ở hậu phương, sử dụng cơ sở và nhân lực công  lẫn tư nhân.


Một đại đội thuộc Trung đoàn hành quân 43 bắt sống một xe cứu thương của Phổ

5. Hệ thống quân dịch

Sau thất bại kinh hoàng trước Napoelon năm 1806 , theo điều khoảng Konigsberg năm 1807 quân Pháp sẽ rút khỏi Phổ sau khi đã trả xong khoản chiến phí 140 triệu Francs . Sau khi hoàn thành khoảng này vào tháng 11 năm 1808 , điều khoảng Paris được kí kết năm đó giới hạn quân đội Phổ ở mức tối đa 42000 quân và không được phép tổ chức Sư Đoàn hoặc Quân Đoàn .  Dù bị giới hạn quân số tuy nhiên trong điều khoản không hề có quy định mức thời gian phục vụ trong quân ngũ . Scharnhorst đã lợi dụng kẻ hở này để giảm thời gian phục vụ xuống 6 tháng nhờ đó có thể huấn luyện nhiều người hơn trong cùng một quãng thời gian , quân đội Phổ từ một đội quân chuyên nghiệp trở thành một đội quân quân dịch quy mô lớn dựa trên hệ thống Levée en masse của Pháp  .

’’Đã qua đi những năm tháng mà những đội quân nhỏ bao gồm những người lính chuyên nghiệp ra trận để chinh phục một thành phố , một tỉnh và sau đó nghỉ vào mùa đông hoặc đàm phán hòa bình . Các cuộc chiến tranh ngày nay đòi hỏi toàn bộ một quốc gia phải được được vũ trang’’  - Thống chế Helmut von Moltke

Các quy định thăng cấp bậc được chỉnh sửa và nhiều quy định miễn phục vụ quân đội bị bãi bỏ . Vào năm 1813  Landwehr (Dân vệ) được thành lập dựa trên nam giới từ 18 đến 45 có khả năng cầm súng . Như vậy quân đội Phổ đã lách qua giới hạn 42000 quân bằng cách tạo ra một đội quân không chính quy này .

Sau chiến tranh hệ thống này tiếp tục được sử dụng , bằng cách huấn luyện cách kỹ năng chiến đấu cần thiết cho gần như toàn bộ thanh niên nam giới , khi chiến tranh ập đến có thể gọi lực lượng này  để tạo thành đội quân khổng lồ một cách nhanh chóng .

Đạo luật năm 1814 quy định :
Quân đội gồm 3 lực lượng chính : Quân đội  chính quy , Landwehr và Landsturm
- Nam giới đủ 17 tuổi có thể tình nguyện gia nhập quân đội
- Nam giới đủ 20 tuổi bắt buộc phải phục vụ trong quân đội trong vòng 5 năm với 3 năm đầu phục vụ chính quy trong quân ngũ và 2 năm còn lại được về nhà và thuộc dự bị .
- Nam giới từ 25 đến 32 tuổi đã hoàn thành phục vụ chính quy sẽ thuộc lực lượng Landwehr I , cách một khoảng thời gian nhất định sẽ được gọi đến doanh trại để huấn luyện .
- Nam giới từ 32  đến 39 tuổi đã hoàn thành phục vụ Landwehr I sẽ thuộc lực lượng Landwehr II  , được huấn luyện định kỳ trong 1 ngày tại địa phương
- Khi có mệnh lệnh đặc biệt , Landsturm gồm toàn bộ nam giới từ 17 đến 42 tuổi đủ sức khỏe để có thể cầm súng được huy động

Có thể nói quân đội Phổ lúc này đã trở thành ‘’trường học quân sự’’ cho nam giới cả nước
 . Chính sách mở rộng quân đội được đề ra bởi các lãnh đạo đã khiến Bộ Trưởng Chiến Tranh von Roon mất lòng dân chúng nhưng đã tăng sức mạnh quân đội Phổ đáng kể để chuẩn bị cho các nước đi chính trị trong tương lai . Những thay đổi vào năm 1860 gồm : Chỉ tiêu nhận quân hằng năm tăng từ 40 000 lên 63 000 người , quân số chính quy thời bình nâng lên 189 000 . Số lượng các đơn vị tăng lên 117 tiểu đoàn bộ binh , 10 trung đoàn kỵ binh , 31 khẩu đội pháo binh , 18 đại đội công binh và 9 tiểu đoàn vận tải . Thời gian phục vụ quân đội chính quy tăng lên 7 năm với 3 năm phục vụ chính quy và 4 năm dự bị  .
   .
Quá trình tiếp tế và chiêu mộ binh đều dựa vào hệ thống vùng miền , đất nước được chia thành 12 vùng Quân Đoàn do các HQ quân đoàn quản lí , mỗi vùng Quân Đoàn chia thành 4 khu Lữ Đoàn và mỗi Khu Lữ Đoàn lại được chia thành   2 Phân khu Trung Đoàn Landwehr , do hệ thống mới chỉ được áp dụng ở Bắc Đức nên các bang ngoài Phổ  nên số lượng các phân khu không đồng đều :

-Các Quân đoàn I. II. III. V. VI. VII. VIII. XI. XII. Có tổng cộng 8 phân khu Landwehr
-Các Quân đoàn IX. Và X. có tổng cộng 6 phân khu Landwehr
-Quân đoàn IV. có tổng cộng 9 phân khu Landwehr .

Trong mỗi phân khu Landwehr ,Trung đoàn bộ binh tuyến tương ứng đóng quân làm trụ sở chính  và tiếp tế,  bổ sung quân số từ dân số địa phương . Mỗi phân khu Landwehr tiếp tục được chia thành 2 tiểu khu Landwehr , mỗi tiểu khu Landwehr là khu vực hoạt động của 1 tiểu đoàn Landwehr , khi có chiến tranh 2 tiểu đoàn Landwehr này sẽ hợp nhất thành Trung đoàn Landwehr . Các binh chủng khác như Kỵ binh , Pháo binh , Công binh, … tuyển quân ở phạm vi toàn bộ vùng Quân Đoàn. Như vậy nhờ vào hệ thống tiếp tế và quản lí dựa vào khu vực này giúp quá trình huy động tổng lực trong chiến tranh có thể diễn ra nhanh chóng hơn , các Đại đội , Trung Đoàn , Lữ Đoàn và Sư Đoàn đều được thành lập , tăng cường sức mạnh tại chỗ và sau đó toàn bộ quân đoàn cùng di chuyển ra mặt trận.

Đối với tiểu khu dự bị Landwehr  , trong trường hợp có chiến tranh có thể nhanh chóng thành lập các tiểu đoàn Landwehr . Vì hệ thống dự bị Landwehr quy mô lớn chưa thể hoàn thành tổ chức ở các bang Bắc Đức ngoài Phổ nên các tiểu khu dự bị Landwehr này đánh vai trò rất quan trọng . Các vị tiểu khu dự bị Landwehr gồm  :

- I. Armeekorps : Tiểu đoàn Landwehr dự bị số 33 , Königsberg
- II. Armeekorps : TIểu đoàn Landwehr dự bị  số 34 , Randow, Usedom Wollin và thành phố Stettin
- III. Armeekorps : Tiểu đoàn Landwehr dự bị số 35, Thành phố Berlin
- IV. Armeekorps : Tiểu đoàn Landwehr dự bị số 36 , Magdeburg , Wanzleben
- V. Armeekorps : Tiểu đoàn Landwehr dự bị số 37 , Glogau, Fraustadt
- VI. Armeekorps : Tiểu đoàn Landwehr dự bị số 38 , Thành phố Breslau
- VII. Armeekorps : Tiểu đoàn Landwehr dự bị số 39, Elberfeld, Barmen, Meltmaun
- VIII. Armeekorps : Tiểu đoàn Landwehr dự bị số 40 , Cologne
- IX. Armeekorps : Tiểu đoàn Landwehr dự bị số 86 , Pinneberg, Stormarn, Seegeberg, Altona
- X. Armeekorps : Tiểu đoàn Landwehr dự bị số 73, Wennigsen , Hameln, Hanover
- XI. Armeekorps : Tiểu đoàn Landwehr dự bị số 80 . Frankfurt,Thượng Taunus,Hanau
- XII. Armeekorps : Tiểu đoàn Landwehr dự bị số 108 , Thành phố Dresden


Vào tháng 1 hằng năm , các quan chức phụ trách giấy tờ thuộc chính quyền địa phương gửi bản danh sách những người đủ 17 tuổi theo ngày tháng đến các hội đồng quân sự . Tất cả những ai nằm trong nhóm này đều phải đến trình diện chính quyền địa phương trước ngày 1 tháng 2 và một danh sách điều tên theo bảng chữ cái được soạn. Tất cả bọn họ giờ đây thuộc lực lượng Landsturm , tuy nhiên lúc này có thể tình nguyện thực hiện nghĩa vụ quân sự .

Những ai tình nguyện vào lúc này có thể chỉ phải phục vụ chính quy 1 năm tùy vào năng lực và được hưởng đặc quyền lựa chọn Trung Đoàn của mình. Quá trình phục vụ chính quy 1 năm kết thúc cùng với điều kiện vượt qua 2 bài kiểm tra, sau đó sẽ được chuyển sang dự bị đến năm tuổi thứ 23 . Hạn chót để vượt qua 2 bài kiểm tra là trước năm 20 tuổi , nếu không thì xem như họ đã phục vụ 3 năm chính quy như người bình thường . Trong suốt quá trình thuộc dự bị đến năm tuổi thứ 23 , các quân nhân được miễn gọi tới trung đoàn đoàn trong thời bình  .

Đối với những ai không tình nguyện từ năm 17 tuổi , đến năm thứ 21 (năm sinh ra là năm thứ nhất ) sẽ tham gia các buổi khám sức khỏe vào tháng 5 và tháng 6 tại các hội đồng . Trước đó vào ngày 15 tháng 4  , Bộ  Chiến Tranh nhận báo cáo từ các vùng quân đoàn về số lượng người cần thiết để điền vào các Trung Đoàn , Bộ Chiến Tranh sẽ gửi lại phân bố số lượng các quân nhân tình nguyện đến Lục Quân và Hải Quân , việc còn lại của các Hội đồng tuyển quân là bổ sung quân nhân nghĩa vụ vào những chỗ trống còn lại của Trung Đoàn . Tư lệnh quân đoàn và Chủ tịch chính quyền khu vực thành lập các hội đồng và từ các hội đồng này thành lập các hội đồng cấp dưới nhỏ hơn tương ứng với Lữ  Đoàn - Trung Đoàn - Tiểu Đoàn - Đại đội .

Các hội đồng sẽ lập các bản bản danh sách phân loại những người có khả năng phục vụ các binh chủng khác nhau cũng như những người không đủ điều kiện phục vụ chính quy . Những người khỏe mạnh nhất sẽ được tuyển chọn cho buổi kiểm tra sức khỏe tại các Hội đồng Lữ Đoàn với sự có mặt của sỹ quan vệ binh và bác sỹ  , những người đạt điều kiện sẽ được Sỹ quan này lựa chọn để phục vụ trong Vệ Binh Hoàng Gia Phổ  .

Đối với những đơn vị tại chỗ không thể gọi  đủ chỉ tiêu, sẽ gọi thêm quân từ khu vực thuộc đơn vị bên cạnh . Trong trường hợp dư chỉ tiêu và thường xuyên xảy ra hơn so với thiếu sẽ tiến hành quay xổ số để chọn những người không cần phục vụ chính quy, những người này sẽ thuộc Dự bị và trong quá trình này vẫn phải tuân thủ các quy định của quân đội , tuy nhiên anh ta có thể đòi quyền phục vụ chính quy nếu những quy định này khiến anh ta không thể tìm việc .


Sau khi đã biết được các đơn vị của mình , nhóm này tham gia quá trình phục vụ chính quy trong 3 năm , rồi 4 năm dự bị , đến 12 năm Landwehr (Seewehr đối với  Hải Quân) và sau cùng là  Landsturm đến năm 42 tuổi .Những ai đã hoàn thành nghĩa vụ chính quy 3 năm có thể tình nguyện phục vụ thêm , trong số này sỹ quan sẽ lựa chọn những người có tiềm năng trở thành hạ sỹ quan để ở lại . Hạ sỹ quan được hưởng lương cao hơn một  chút , sau 12 năm phục vụ các hạ sỹ quan được đảm bảo công việc ở các hội đồng quân dân sự thuộc quân đội , ngoài ra  hạ sỹ quan cũng được ưu tiên nhận việc hơn so với dân thường với điều kiện là vượt qua các cuộc kiểm tra chất lượng công việc.

Trong thời gian 4 năm dự bị  , quân nhân được trả về cuộc sống thường dân tuy nhiên trong suốt thời gian đó mỗi năm phải đến Trung đoàn 2 lần để tham gia tập trận (1 cuộc tập trận không quá 2 tháng)  . Trong thời gian phục vụ các Trung Đoàn Landwehr, quân nhân được hưởng cuộc sống thường dân nhưng mỗi năm phải đến Trung Đoàn Landwehr để luyện tập các kỹ năng cơ bản trong vài ngày .

Vỡi những người đạt đủ điều kiện sức khỏe cho binh chủng Kỵ binh , họ sẽ được mời tham gia các Trung Đoàn Kỵ Binh . Nếu đồng ý tham tham gia , buộc phải phục vụ chính quy 4 năm , vì Kỵ Binh khó huấn luyện hơn Bộ Binh . Sau 4 năm chính quy sẽ được đưa về dự bị 4 năm , trong suốt thời gian dự bị không cần phải đến Trung đoàn để tham gia tập trận và sau đó chỉ cần phục vụ 3 năm  Landwehr.

Khi có chiến tranh xảy ra các lực lượng này sẽ được gọi theo thứ tự từ trên xuống dưới khi cần thiết : Quân đội chính quy sẽ là lực lượng đầu tiên chiến đấu ở mặt trận
 Landwehr I 
sẽ đóng vai trò đồn trú bảo vệ các nhà kho và tuyến liên lạc ở phía sau nhất là khi các chiến dịch được đẩy sâu vào lãnh thổ đối phương với các khu vực dân cư không mấy thân thiện , bảo vệ các đoàn xe tiếp tế khỏi sự phá hoại  từ kỵ binh , dân cư địa phương và du kích . Như vậy toàn bộ lực lượng chính quy có thể tập trung ở tuyến đầu  để chiến đấu với chủ lực địch , ví dụ trong chiến tranh Áo - Phổ quân Phổ có thể tập trung 225 000 quân chính quy cho đòn đánh vào Vienna và cùng lúc đồn trú tại các thành phố Leipzig , Dresden , Prague , Pardubitz  , Vương quốc Hannover , Đại công quốc Hesse ,bảo vệ các tuyến đường sắt Gorlitz - Brunn  và tuyến liên lạc đến mặt trận Bayern nhờ các đon vị Landwehr này . Thiếu Landwehr , quân đội Phổ chỉ có thể tập trung  125 000 quân chính quy gần Vienna . Trong trường hợp tuyến đầu gặp thương vong lớn , Landwehr có thể bổ sung cho quân chính khi khi cần thiết .Landwehr II đóng vai trò bảo vệ các cứ điểm pháo đài canh giữ đất nước  . Landsturm chỉ gọi trong trường hợp đất nước bị tấn công xâm lược và chỉ gọi có mệnh lệnh đặc biệt . Những bối cảnh chính trị diễn ra nóng bỏng ở châu Âu khiến vào các năm 1848 , 1850 , 1854 và 1859 quân đôi Phổ phải điều động lực lượng Landwehr để đề phòng chiến tranh , trở thành bài thử lửa đầu tiên của hệ thống 




Trong cuộc chiến với Đan Mạch năm 1864 không cần thiết phải gọi Landwehr hay toàn bộ các quân đoàn vì quy mô nhỏ của quân đội Đan Mạch nhưng cuộc chiến với Áo 2 năm sau đó là thử thách đầu tiên cho hệ thống này với tổng cộng 307 000  thuộc quân đội chính quy và 130 000 Landwehr thuộc  lực lượng dự bị . Sự ra đời của Liên Bang Bắc Đức , các thành viên áp dụng mô hình của Phổ đã bổ sung thêm 4 triệu nam giới có khả năng chiến đấu vào hệ thống này . Vào năm 1870 Bắc  Đức có thể triển khai khoảng 553 189 quân chính quy cùng 393 000 Landwehr  ra mặt trận đối đầu với 450 000 quân chính quy Pháp trong đó khoảng 139 000 quân nhân chuyên nghiệp , 138 000 quân nhân nghĩa vụ và 173 000 thuộc dự bị . Trên thực tế việc huy động và triển khai toàn bộ quân số đến mặt trận trong thời gian ngắn nhất đều phụ thuộc vào hệ thống vận chuyển như đã nói ở phần trước .

Vào năm 1866 , toàn bộ Bắc Đức đều áp dụng hệ thống này

6. Quân đội Bắc Đức

Vào năm 1870 quy mô các lực lượng quân sự của Bắc Đức gồm khoảng 500 000 người với
 
Quân đội Hoàng Gia Phổ gồm :

Từ Vương Quốc Phổ :

- 4 Trung đoàn Vệ binh bộ
- 4 Trung đoàn Lựu binh Vệ Sĩ
- 1 Trung đoàn Điểu thương Vệ Sĩ
- 1 Tiểu đoàn Súng trường Vệ Sĩ
- 1 Tiểu đoàn Jäger Vệ Sĩ
- 12 Trung đoàn Lựu Binh
- 11 Trung đoàn Điểu Thương
- 65 Trung đoàn Bộ Binh
- 11 Tiểu đoàn  Jäger
- 1 Trung đoàn Vệ Sĩ
- 1 Trung đoàn Thiết Kỵ Vệ Binh
- 2 Trung đoàn Long Kỵ Vệ Binh
- 1 Trung đoàn Khinh Kỵ Vệ Binh
- 3 Trung đoàn Thương Kỵ Vệ Binh
- 8 Trung đoàn Thiết Kỵ
- 16 Trung đoàn  Long Kỵ
- 16 Trung đoàn Khinh Kỵ
- 16 Trung đoàn Thương Kỵ
- 1 Trung đoàn Pháo  Dã Chiến Vệ Binh
- 10 Trung đoàn Pháo Dã  Chiến
- 1 Trung đoàn Pháo Bộ Vệ Binh
- 8 Trung đoàn Pháo Bộ


Từ Đại Công Quốc Mecklenburg :

- 1 Trung đoàn Lựu Binh
- 1 Trung đoàn Súng trường
- 1 Tiểu đoàn Jäger
- 2 Trung đoàn Long Kỵ
- 1 Trung đoàn Khinh Kỵ
- 1 Tiểu đoàn pháo dã chiến

Từ Đại Công Quốc Oldenburg :

- 1 Trung đoàn Bộ Binh
- 1 Trung đoàn Long Kỵ
- 2 Tiểu đoàn pháo dã chiến

Từ Đại Công Quốc Saxe-Weimar-Eisenach

- 1 Trung đoàn Bộ Binh

Từ Công Quốc Brunswick :

- 1 Trung đoàn Bộ Binh
- 1 Khẩu đội pháo dã chiến

Từ Công Quốc Anhalt :

-  1 Trung đoàn  Bộ Binh

Từ Công Quốc Saxe-Altenburg :

- 1 Trung đoàn Bộ  Binh

Từ Công Quốc Saxe-Coburg-Gotha

- 1 Trung đoàn Bộ Binh

Quân đội Hoàng Gia Sachsen gồm

Từ Vương Quốc Sachsen :

- 2 Trung đoàn Lựu Binh
- 1 Trung đoàn Điểu Thương
- 6 Trung đoàn Bộ Binh

- 2 Tiểu đoàn  Jäger
- 4 Trung đoàn Long Kỵ
- 2 Trung đoàn Thương Kỵ
- 1 Trung đoàn Pháo Dã Chiến
- 1 Tiểu đoàn Pháo Bộ

Tổng Cộng 342 Tiểu đoàn Bộ Binh (Bộ Binh , Lựu Binh , Điểu Thương ) , 16 Tiểu đoàn Khinh Binh (Jäger, Súng trường ) , 296 Kỵ đội  , 202 Khẩu đội Pháo Dã Chiến , 88 Đại đội Pháo Bộ .

Các Trung Đoàn vẫn giữ lại tên gọi truyền thống của mình ví dụ : Lựu Binh - Grenadier , Điểu Thương -  Füsilier , Súng trường - Schützen đều được trang bị và tác chiến như bộ binh thông thường, tên gọi chỉ mang tính chất truyền thống từ quá khứ nhằm phân biệt các loại vũ khí sử dụng

Để phân biệt giữa các đơn vị với nhau ,hệ thống đánh số được sử dụng trong Bộ Tư Lệnh tối cao  ví dụ Trung đoàn bộ binh Westphalia 1 là Trung đoàn số 13 , Trung đoàn bộ binh Posen 1 là  Trung đoàn số 18 , Trung đoàn bộ binh Thượng Silesian 1 là  Trung đoàn số 22 ,….

Các trung đoàn bộ binh đến từ các tỉnh thuộc Vương Quốc Phổ được đánh số từ 1 đến 88  , từ các Đại Công Quốc và Công Quốc khác từ 89 đến 96 , từ Vương Quốc Sachsen từ 100 đến 108 . Riêng các Trung Đoàn của  Vệ Binh Hoàng Gia Phổ không được đánh số . 

Các đơn vị được tổ chức thành các Lữ Đoàn , Sư Đoàn và Quân đoàn. Biên chế điển hình của 1 Quân đoàn gồm 2 Sư Đoàn  Bộ Binh , 1 Lữ Đoàn Pháo Binh , 1 Tiểu Đoàn  Jäger , 1  Tiểu Đoàn Công Binh và 1 Tiểu Đoàn Hậu Cần . Mỗi Lữ đoàn Pháo Binh gồm một Trung đoàn Pháo Dã  Chiến và một Trung đoàn Pháo Vây Hãm, riêng các Lữ Đoàn 9 , 10 , 11 và 12 chỉ có Trung Đoàn Pháo Dã Chiến và Tiểu đoàn Pháo Vây Hãm





Mỗi Sư đoàn bộ binh gồm 2 Lữ đoàn bộ binh và 1 Lữ đoàn kỵ binh , trong đó mỗi Lữ đoàn bộ binh gồm 2 Trung đoàn bộ binh và 2 Trung đoàn Landwehr với số hiệu tương đương . Mỗi Lữ đoàn kỵ binh gồm từ 2 đến 4 Trung đoàn kỵ binh .



Trong chiến tranh Pháp-Phổ các Sư Đoàn được tổ chức thành 2 Lữ Đoàn Bộ Binh , 1 Trung Đoàn Kỵ Binh ,2  Đại đội công binh và 4 Khẩu đội pháo dã chiến lấy từ đơn vị quản lí cấp Quân Đoàn,1 trong 2 Sư đoàn sẽ nhận thêm Tiểu đoàn Jäger từ quân đoàn  .  Phần lớn Lữ đoàn Kỵ Binh bị kéo ra để hình thành các Sư Đoàn Kỵ Binh độc lập . Các Trung Đoàn Landwehr cũng tách khỏi Lữ Đoàn Bộ Binh để tổ chức ở tuyến sau . 



Các quân đoàn lúc này gồm 2 Lữ Đoàn  Bộ Binh ,  Trung đoàn pháo dã chiến , Tiểu đoàn công binh và Tiểu đoàn hậu cần .

Các Lữ Đoàn Kỵ Binh được kéo khỏi các Sư Đoàn Bộ Binh (chỉ để lại 1  Trung đoàn  )để lập thành các Sư Đoàn Kỵ Binh gồm 2 hoặc 3 Lữ Đoàn và 1 khẩu đội pháo kỵ lấy từ Trung đoàn pháo dã chiến , mỗi Lữ Đoàn Kỵ binh gồm 2 - 3 Trung đoàn . Sư Đoàn Kỵ Binh sẽ trực thuộc Tập Đoàn Quân .Các trường hợp ngoại lệ là Vệ binh Hoàng Gia và Quân đoàn XII. (Quân đội Sachsen) có sẵn Sư Đoàn Kỵ Binh trong thời bình nên không tách ra khỏi quân đoàn để tổ chức độc lập ,  Sư đoàn bộ binh 25 ( Quân đội Hesse ) và Sư đoàn bộ  binh 17 vẫn giữ lại Lữ đoàn Kỵ binh .



Các Lữ đoàn Pháo Binh gồm Trung đoàn pháo dã chiến và Trung đoàn pháo vây hãm , khi chiến tranh 1870 xảy ra các quân đoàn chỉ mang theo Trung đoàn pháo dã chiến đến mặt trận , các Trung đoàn pháo vây hãm được tổ chức độc lập ở tuyến sau và đem lên sử dụng khi cần thiết .


5.1 Trung đoàn bộ binh - Grenadier,  Füsilier, Infanterie, Landwehr
5.1a Tổ chức , trang bị 

Mỗi Trung đoàn bộ binh gồm 3 tiểu đoàn , mỗi tiểu  đoàn gồm 4 Đại đội mỗi đại đội khoảng 250 người (Riêng Trung đoàn Landwehr chỉ có 2 tiểu đoàn). Khi có chiến tranh mỗi Trung đoàn thành lập thêm 1 tiểu đoàn dự phòng và mỗi tiểu đoàn Jaeger thành lập một đại đội dự phòng . Các đơn vị dự phòng với lực lượng gồm phần còn lại của dự bị và một phần Landwehr  , dược dùng để bổ sung quân số cho Trung Đoàn khi chịu thương vong , cứ mỗi 2 tháng một đơn vị dự phòng mới với đầy đủ quân số được thành lập . 

Tên gọi của các tiểu đoàn cũng có những sự khác biệt tùy vào tên gọi các Trung đoàn 

Trung đoàn Lựu binh gồm 2 Tiểu đoàn Lựu binh và 1 Tiểu đoàn Điểu thương
Trung đoàn Điểu Thương gồm 3 Tiểu đoàn Điểu thương
Trung đoàn Bộ Binh gồm 2 Tiểu đoàn Hỏa mai và 1 Tiểu đoàn Điểu thương
Trung đoàn Lanhwehr với 2 Tiểu đoàn Landwehr

Ngoài tên gọi ra các trang bị và chiến thuật chiến đấu đều như nhau

Các tiểu đoàn thuộc trung đoàn được kí hiệu I. , II. , F. (Điểu thương) hoặc G. (Lựu binh)
Các đại đội thuộc trung đoàn được đánh số từ 1 đến 12

Ví dụ : I./1. (Tiểu đoàn 1 , Trung đoàn 1) ; 7./1. (Đại đội 7 , Tiểu đoàn 2 , Trung đoàn 1)  



Sở chỉ huy huy trung đoàn gồm :
- 1 Sĩ quan chỉ huy
- 1 Sĩ quan tham mưu
- 1 Sĩ quan phụ tá
- 1 Hạ sĩ quan làm văn thư  (công việc giấy tờ)
- 10 Nhạc sĩ kèn Ô-boa
Trong thời chiến được cung cấp thêm 12 ngựa và 7 lính đánh xe

Dưới đó là các sở chỉ huy tiểu đoàn với:
- 1 Sĩ quan chỉ huy
- 1 Sĩ quan phụ tá
- 1 Hạ sĩ quan văn thư
- 1 Nhạc sĩ đánh trống
- 1 Bác sĩ trưởng
- 1 Bác sĩ trợ lí
- 1 Quản lí lương thực
- 1 Thợ súng

Dưới tiểu đoàn là 4 đại đội với:
- 1 Đại úy
- 1 Trung úy
- 3 Thiếu úy chỉ huy 3 Trung đội
- 14 Hạ sĩ quan
- 24 Binh nhất
- 199 Binh nhì
- 1 Trợ lý quân y
- 3 Thợ rèn
- 6 Diễn viên múa ( 2 là thường dân)

Trong tác chiến các đại đội có thể triển khai thành 3 Trung đội .

Trang bị của một bộ binh gồm :

- 1 Mũ Pikelhaube với kí hiệu và biểu tượng đơn vị 
- 1 Mũ mềm với kí hiệu
- 1 Áo tunic
- 1 Áo khoác
- 1 Quần vải
- 1 Quần lanh
- 2 Quần lót
- 1 Đôi ủng
- 1 Đôi giày
- 1 Đôi lót giày
- 1 Đôi găng tay
- Súng trường Dreyse mẫu 1862 (Trung đoàn 1 đến 32 và Vệ binh ) hoặc mẫu 1841 còn lại . Các trung đoàn điểu thương dùng Súng trường điểu thương mẫu 1860 với súng nhẹ và lưỡi lê nhỏ hơn
- Lưỡi lê
- 1 Ba lô đeo chéo vai
- 1 Thắt lưng với các giá treo
- 1 Dây đeo áo khoác
- 1 Túi bánh mì
- 1 Bi đông
- 1 Vỏ đựng lê
- 2 túi đạn với 70 viên đạn
- 1 Dây đeo súng trường
- Nồi nấu với quai
- Hộp chứa phụ tùng súng 


        Pickehaube mẫu 1860                                                Pikehaube mẫu 1867




Mũ vải mẫu 1867






 5.1b Ảnh hưởng của súng trường Dreyse với chiến thuật bộ binh

Vào những năm 1830s , Johann Nikolaus von Dreyse tiến hành thiết kế và phát triển mẫu súng trường mới sử dụng cơ cấu điểm hỏa bằng kim hỏa và nạp đạn bằng khóa nòng. Ý tưởng về mẫu súng nạp đạn bằng khóa nòng đã có từ lâu nhưng những khẩu súng nạp hậu đầu tiên đều là súng săn hoặc súng thể thao còn quân đội các nước châu Âu vẫn trung thành với súng nạp đạn từ đầu nòng , vào năm 1841 quân đội Phổ là quân đội châu Âu đầu tiên sử dụng súng trường nạp hậu khi chấp nhận mẫu súng do Dreyse phát triển và gọi nó là ‘’Leichtes Perkussionsgewehr’’ (Súng trường nắp điểm hỏa lửa nhẹ ) - tên gọi không liên quan đến thiết kế của súng  , về sau thường được biết đến với tên gọi Súng trường Dreyse hay Súng trường kim hỏa hơn . Quá trình sản xuất súng ban đầu diễn ra chậm với chỉ  30 000 khẩu / năm , đến năm 1855 chỉ 90 tiểu đoàn được trang bị loại này . Tốc độ sản xuất chỉ được cải thiện vào những năm 1860 nhờ công nghệ đúc nòng thép . Các cường quốc xung quanh nhìn nhận thiết kế này khá nguy hiểm khi đạn luôn trong trạng thái sẵn sàng kích nổ nếu có tác động  .(Các loại súng trường khi đó sử dụng nắp kích lửa tách rời với đạn). Tuy nhiên sau cuộc chiến năm 1866 họ sẽ có cái nhìn khác về thiết kế này  , điển hình là quân đội Pháp nhanh chóng đưa vào biên chế súng trường Chassepot có cùng cơ cấu kích nổ kim hỏa và nạp đạn khóa nòng với tính năng kỹ chiến thuật vượt trội so với súng trường Dreyse .  Có hai phiên bản chính được sử dụng trong quân đội Phổ , mẫu 1841 và mẫu 1862 với một số cải tiến nhỏ .



M/41

M/62

Cỡ nòng

15.4mm

15.4mm

Khối lượng

4.7kg

4.69kg

Chiều dài nòng

90.7cm

84.2cm

Tốc độ bắn

6 - 12 viên / phút

6 - 12 viên / phút

Sơ tốc đầu nòng

305 m/s

305 m/s

Ầm bắn hiệu quả

600m

600m



Các thiết kế như khóa nòng và kích nổ bằng kim hỏa đều nhằm tăng tốc độ nạp đạn của súng , đạn được tích hợp sẵn nắp điểm hỏa . Khi siết cò kim hỏa bung ra xuyên qua đuôi đạn và đập vào nắp điểm hỏa .



Thuốc súng do đó cháy từ trước ra sau vỏ đạn , thiết kế này nhằm giúp tối ưu lượng thuốc súng sử dụng , vì thuốc súng đen thời ấy cháy chậm hơn so với thuốc súng không khói hiện đại nên khi thuốc cháy từ sau ra trước một phần thuốc súng nằm ở phía trước bị thổi ra khỏi nòng cùng viên đạn và cháy ngoài không khí nên rất lãng phí . Đây chính là lí do cho thiết kế kì lạ của súng trường Dreyse


Tuy nhiên thiết kế này lại có một điểm yếu , trong quá trình kích nổ kim hỏa vẫn nằm trong phần thuốc súng đang cháy của đạn vì phần đầu kim hỏa rất mỏng chỉ khoảng 1mm nên cực kì dễ bị bào mòn và đòi hỏi khối lượng công việc bảo dưỡng súng tốt hơn . Kim hỏa phải thường xuyên được thay thế sau nhiều phát súng








Đạn được bọc bằng vỏ giấy với đầu đạn 13.7mm ở trước , nắp kích hỏa ở giữa và thuốc súng ở sau , cỡ đạn 15.4mm . Lớn hơn nhiều so với 11mm của đạn Chassepot và điều này sẽ ảnh hưởng đến đường đạn và tầm bắn chính xác hiệu quả khi so sánh với súng trường Chassepot của Pháp . Khi so sánh về tầm bắn chính xác của súng với loại của Pháp , súng trường Dreyse có sơ tốc đầu nòng đạt 305m/s chỉ bằng 75% của Chassepot (400m/s) và tầm bắn hiệu quả chỉ vào khoảng 600m so với gần 1000m của Chassepot . Ở khoảng cách xa như vậy , mắt thường khó có thể nhìn thấy mục tiêu cỡ người nên các cuộc giao tranh thực tế thường chỉ nổ súng ở khoảng cách gần hơn , tuy thế thì đường đạn thẳng của Chassepot cũng giúp việc ngắm bắn thuận lợi so với Dreyse . Nhìn chung trong cuộc chiến sắp tới với Pháp , bộ binh Phổ sẽ cần đến sự phối hợp với pháo binh cũng như chiến thuật áp sát vị trí của quân Pháp một cách hiệu quả để có thể hạn chế uy lực của Chassepot

Lưỡi lê mẫu 1862


Füsiliergewehr (Súng trường điểu thương) mẫu 1860 , một phiên bản  của súng trường Dreyse trang bị cho các trung đoàn điểu thương 


Lưỡi lê súng trường Điểu Thương M/60



Jägerbüchse M/65 , phiên bản dành cho các tiểu đoàn  Jäger

Khi súng trường Chassepot được đưa vào biên chế các tiểu đoàn Jager - lực lượng khinh binh tinh nhuệ chiến đấu ngoài đội hình phản đối vì các đơn vị bộ binh thông thường giờ đây được trang bị súng trường rãnh xoắn như khinh binh .Do đó các tiểu đoàn Jager sử dụng Jägerstutzen - súng trường nạp nòng để phân biệt với các đơn vị bộ binh khác . Đến tận năm 1865 , Jager mới có phiên bản Dreyse của mình sau các Trung đoàn Điểu Thương 5 năm


Lưỡi lê của Jägerbüchse M/65



Carabiner mẫu 1867 dành cho Kỵ binh



5.1b Tác chiến bộ binh



Nhìn chung các đội hình chiến đấu vẫn không có sự biến đổi đáng kể nào so với khoảng 50 năm trước , tuy nhiên trong thời đại của súng trường nạp hậu có hỏa lực chính xác mạnh thì cách triển khai cũng thay đổi sao cho phù hợp với vũ khí mới và hạn chế sát thương từ vũ khí tương tự của địch .




Đội hình khối tiểu đoàn là đội hình tấn công kinh điển ,được quân đội Pháp sử dụng rất thành công trong các cuộc chiến tranh của Napoleon.


Với ưu điểm có độ cơ động cao qua địa hình không bằng phẳng , đội hình dễ dàng được giữ vững đội hình đội ngũ nên có sức mạnh tiến công lớn , lợi dụng élan để lao vào chiến tuyến đối phương với lưỡi lê giương ra phía trước  . Tuy nhiên đội hình khối tiểu đoàn lại rất kém trong việc đọ hỏa lực so với các cách bố trí khác cũng như rất dễ bị khựng lại và vỡ ra khi trúng hỏa lực dồn dập từ nhiều phía , dẫn đến thương vong rất cao .  Cũng chính vì điểm yếu này mà đội hình khối tiểu đoàn rất hiếm khi được quân Phổ sử dụng để tấn công trong thời đại súng trường nạp hậu . Tuy nhiên đây lại là chính đội hình tấn công được quân đội Pháp sử dụng trong thời điểm đó và họ đã từng sử dụng rất thành công phương pháp này trong chiến tranh Pháp-Áo năm 1859 khi các khối tiểu đoàn của Pháp xông lên một cách cực kỳ máu lửa chiếm các vị trí quan trọng và đánh bật quân Áo bằng lưỡi lê . Người Áo bại trận học hỏi chiến thuật của Pháp và sử dụng nó trong chiến tranh Pháp-Phổ 1866 , kết quả là các khi tiểu đoàn của Áo xông lên tấn công bằng lưỡi lê theo khối cột nhưng khi chưa kịp áp sát thì đã bị trúng hỏa lực dồn dập từ tốc độ bắn khủng khiếp của súng trường Dreyse .




Sự phát triển của hỏa lực bộ binh về tầm và tốc độ bắn cũng chính là sự suy thoái của kỵ binh xung kích, các đội hình chữ nhật phòng ngự kỵ binh là không cần thiết vì đội hình này rất dễ tổn thương trước hỏa lực tầm xa của đối phương cũng như đòi hỏi quá trình huấn luyện phức tạp . Giờ đây bộ binh không cần phải lập đội hình chữ nhật hay nằm xuống mà chỉ việc đứng thẳng và nã đạn là có thể chống được cuộc tấn công của kỵ binh


Ảnh : Kỵ binh Pháp tấn công bộ binh Phổ trong trận Sedan, cả 3 đợt xung kích đều bị đánh bật bởi hỏa lực súng trường


Súng trường Dreyse khi được đưa vào biên chế đã có những  ảnh hưởng ban đầu lên chiến thuật bộ binh , giờ đây hỏa lực vũ khí bộ binh được nâng cao rất nhiều nhờ vào sự chuẩn xác của nòng xoắn và tốc độ nạp đạn của khóa nòng- kim hỏa . Nhờ hỏa lực mạnh , bộ binh không cần phải  tác chiến chiến thuật theo đội hình Tiểu đoàn và tập trung toàn bộ hỏa lực bắn vô lê như truyền thống mà có thể tác chiến theo đội hình khối đại đội . Các khối đại đội khi tiến công sẽ triển khai 1 trung đội tản rộng ra phía trước nhằm tham gia vào các cuộc đấu súng thiện xạ . Trong trường hợp cần thiết , các trung đội thứ 2 hoặc toàn bộ đại đội có thể triển khai lên phía trước để hỗ trợ .

Các khối đại đội di chuyển theo sau có vai trò hỗ trợ tinh thần , ngăn chặn những người sợ hãi chạy về sau và tập trung hỏa lực bắn vô lê để uy hiếp khi cần thiết. Tuy nhiên trong cuộc chiến sắp tới với Pháp thì gần như không hề ghi nhận các loạt bắn vô lê khi các đội hình đại đội trúng hỏa lực của súng trường Chassepot thường vỡ ra thành các trung đội tản rộng hoặc cho dù có xếp thành đội hình tuyến thì các binh sĩ cũng không bắn vô lê cùng nhau mà mỗi người tự nhắm bắn với các tư thế quỳ , nằm khác nhau để tận dụng chỗ nấp, dưới sự chỉ điểm mục tiêu của các đại đội trưởng .



Tấn công là chiến thuật chính của quân đội Phổ và bộ binh chính là lực lượng nòng cốt để thực hiện các đòn tiến công  . Vì các đòn tấn công chính diện tỏ ra quá đẫm máu trước vị trí phòng ngự kiên cố súng trường và pháo nạp hậu, như bộ binh Áo đã thực hiện vào năm 1866  nên các đòn vặn sườn càng được quân đội Phổ ưa thích sử dụng hơn . Trong cuộc chiến với Pháp sắp tới , các bài tấn công của các đại đội và tiểu đoàn Phổ luôn lặp đi lặp lại theo một trình tự : Mở rộng hai cánh , tìm được sườn của quân Pháp , tấn công bọc sườn .Chiến thuật này đòi hỏi bên tấn công phải có lực lượng đông hơn bên phòng ngự để có thể dãn hai cánh rộng hơn so với đối phương , yếu tố này được đảm bảo nhờ vào hệ thống nghĩa vụ quân sự hiện đại,  giúp bộ binh Phổ có thể triển khai nhiều quân hơn so với bộ binh Pháp. 




Trong chiến tranh Áo- Phổ năm 1866 ,  bộ binh Phổ thường tìm cách dàn quân sang hai bên cánh nhất rộng có thể để bọc sườn vị trí của Áo nhiều lúc hai bên cánh của đơn vị mỏng đến mức tách rời thành từng nhóm nhỏ và thậm chí có cả sự tham gia của đơn vị khác không thuộc quyền chỉ huy  , kết quả là biên chế - tổ chức trước trận đánh của nhiều đơn vị không còn ý nghĩa gì nữa . Các quan sát của quân đội Pháp nhận xét : Các trung đội bộ binh của Phổ xuất hiện từ mọi hướng , chạy thẳng về hướng của Áo  khiến bên phòng thủ hoang mang , hoảng sợ và rút lui tránh bao vây , cho rằng : nếu Phổ cứ tiếp tục tấn công bằng các nhóm rời rạc như vậy sẽ nhanh chóng bị tiêu diệt từng phần một bằng lực lượng dự bị chiến đấu theo đội hình của Pháp . Tuy nhiên điều mà lúc này người Pháp vẫn chưa nhận ra đó là các đội hình sẽ nhanh chóng vỡ ra thành các nhóm nhỏ khi trúng các loại hỏa lực tầm xa khi ấy.

Một điều khiến các chỉ huy châu Âu  (bao gồm cả các sỹ quan Phổ) khi đó lo ngại là việc triển khai các đội hình thành các nhóm nhỏ và cách xa nhau như vậy có thể khiến người chỉ huy không thể nắm bắt và điều khiển đơn vị của mình , đồng thời  ảnh hưởng đến kỷ luật quân đội.  Dù vậy thì phương pháp này vẫn có thể được triển khai hiệu quả nhờ tính chủ động của các hạ sỹ quan cấp thấp (Auftragstaktik), nắm bắt và chỉ đạo các nhóm nhỏ này một cách độc lập và đôi khi làm trái với lệnh của cấp trên (nếu anh ta cho là hợp lý) . 



Vào những tháng giữa và cuối cuộc chiến , khi các sỹ quan  đã cảm nhận rõ sức mạnh của súng trường Chassepot ,bộ binh Phổ thường dựa vào hỏa lực pháo binh để dọn đường và thu hẹp khoảng cách đến tầm bắn Dreyse thật nhanh nhất có thể 

5.2 Tiểu đoàn Jäger

Tiểu đoàn Jaeger được tổ chức tương tự tiểu đoàn bộ binh với 1005 người chia thành 4 đại đội . Trong chiến tranh , đại đội dự bị được thành lập ,lấy từ lực lượng Landwehr , các đại đội dự bị có vai trò cung cấp quân số cho tiểu đoàn khi chịu tổn thất .



Jaeger có nguồn gốc là bộ binh được trang bị nhẹ và chiến đấu ngoài đội hình , phân tán thành từng nhóm nhỏ . Jaeger được triển khai lên phía trước để thực hiện quấy rối đội hình địch cũng như nhắm bắn các mục tiêu quan trọng như sĩ quan bằng súng trường rãnh xoắn có độ chính xác cao . Để chống lại các đơn vị bằng việc cho đội hình bắn vô lê rất lãng phí đạn dược do súng hỏa mai có độ chính xác rất kém (kém hơn cả nỏ) hơn nữa lại không hợp lí khi cho cả tiểu đoàn nổ súng chỉ để tiêu diệt một vài người nên các đơn vị Jaeger này còn có vai trò chống lại  khinh binh đối phương .
Vào thời kỳ bộ binh thông thường cũng được trang bị súng trường và áp dụng chiến thuật phân tán thì các vai trò đặc biệt của Jaeger càng ngày càng ít quan trọng cuối thế kỷ 19 , Jaeger giờ đây được sử dụng như bộ binh dự bị cấp Sư Đoàn được tung ra ở những khu vực quan trọng hoặc sử dụng ở địa hình hiểm trở.

Mỗi quân đoàn có 1 tiểu đoàn Jager , 1 trong 2 Sư đoàn bộ binh ngẫu nhiên thuộc quân đoàn sẽ được trang bị tiểu đoàn đó . 

5.3 Trung đoàn kỵ binh

5.3a Tổ chức
Sau  khi Bắc Đức được thành lập năm 1866 số lượng các đơn vị kỵ binh tăng lên đáng kể tuy nhiên các Trung đoàn Vệ Binh vẫn giữ nguyên với :

- 1 Trung đoàn Vệ sĩ
- 1 Trung đoàn Thiết kỵ Vệ Binh
- 1 Trung đoàn Long kỵ Vệ Binh
- 1 Trung đoàn Khinh kỵ Vệ Binh
- 3 Trung đoàn Thương kỵ Vệ Binh

Đối với các Trung đoàn kỵ Binh tuyến
- Các Trung đoàn Thiết kỵ được giữ nguyên ( 8 Trung Đoàn Phổ )
- Trung đoàn Long kỵ tăng từ 8 lên 23 Trung đoàn  ( Nr.1 - Nr.16 Phổ ; Nr.17,Nr.18 2 Mecklenburg ; Nr.19 Oldenburg ; 4 Trung đoàn Sachsen )
- Trung đoàn Khinh kỵ tăng từ 12 lên 17 (16 Trung đoàn Phổ , 1 Trung đoàn Brunswick )
- Trung đoàn Thương kỵ tăng từ 12 lên 18 ( 16 Trung đoàn Phổ ,2 Trung đoàn Sachsen )
- 2 Trung đoàn Chevauxlegers thuộc Quân đội Hesse-Darmstadt

Các Trung đoàn  Kỵ binh đều được biên chế thành 4 Kỵ đội chiến thuật , 1 Kỵ đội dự bị được tổ chức khi có chiến tranh dùng để bổ sung quân số cho Trung đoàn khi chịu tổn thất.



5.3b Phân loại Kỵ Binh

Kürassiere - Thiết kỵ


Thiết giáp kỵ binh Kürassiere là kỵ binh hạng nặng , mặc tấm giáp Cuirass che ngực , lưng và mũ sắt . Các tấm giáp này có thể giúp hạn chế các đòn đánh nguy hiểm từ đao kiếm nhưng không có tác dụng chống đạn , vì trọng lượng của giáp nên  Kürassiere gồm những người khỏe nhất sử dụng ngựa to nhất trong kỵ binh . Thiết kỵ thường được sử dụng để tung các đòn tấn công xung kích về phía đội hình đối phương , sử dụng khối lượng ,khí thế gây sốc để xuyên phá vỡ tan đội hình chiến đấu của địch .  Thiết kỵ được trang bị Pallash với lưỡi kiếm dài thẳng thích  với trọng tâm nằm ở gần phần cán giúp người sử dụng có thể dễ dàng vươn thẳng tay ra phía trước để đâm. Súng trường Dreyse bản carabine cũng được trang bị cho các nhiệm vụ trinh sát

Dragoner - Long Kỵ



            Long kỵ Phổ                                                                    Long kỵ Sachsen

Long Kỵ là kỵ binh hạng trung được  trang bị đao và phiên bản Carabine  của súng trường Dreyse  ,Long Kỵ được huấn luyện các kỹ năng võ thuật kỵ binh cũng như kỹ thuật chiến đấu như bộ binh , sử dụng súng trên lưng ngựa hoặc xuống ngựa.  Với độ cơ động cao và tầm hoạt động rộng  , Long Kỵ thích hợp trong vai trò trinh sát , che chắn và quấy rối . Tác chiến tấn công đôi khi có thể được sử dụng cùng với Thiết Kỵ 

Ulanen - Thương kỵ 



Thương kỵ là kỵ binh hạng nhẹ có nguồn gốc từ Ba Lan , đặc trưng mũ  Czapka và sử dụng Thương làm vũ khí chính , tầm đánh lớn cũng như lợi thế võ thuật của thương giúp thương kỵ có lợi thế lớn hơn trong các cuộc xung kích , chống đội hình bộ binh hoặc chống lại lượng lượng kỵ binh của đối phương . Thương kỵ trong thời kỳ này thường được sử dụng trong vai trò trinh sát hơn . 

 Husaren - Khinh kỵ

Hussar là Kỵ binh hạng nhẹ , đội mũ Busby,  mặc áo khoác Dolman hoặc Pelisse tạo thành các họa tiết với dãy các bện ngang điển hình. Vũ khí trang bị là đao cong với trọng tâm nằm ở đầu đao giúp tăng sức đánh của các kỹ thuật chặt , chém , ngoài ra còn có súng Carabine cho các nhiệm vụ trinh sát . Với khối lượng nhẹ và độ cơ cộng cao  , khinh kỵ thường được sử dụng trong các nhiệm vụ trinh sát , che chắn , khiên khích và tấn công xung kích nếu cần thiết .  

Chevauxleger 


Chevauxleger bắt nguồn từ tiếng Pháp Chevaulèger (Kỵ binh hạng nhẹ) , tuy nhiên trong quân đội Hesse,  Chevauxleger được trang bị tương đương với Long kỵ . 

Gardes du Corps - Trung đoàn Vệ sĩ

Là lực lượng bảo vệ gia đình Hoàng Gia , được trang bị tương tự Thiết kỵ 


5.3c Tác chiến kỵ binh

Tronng suốt nhiều thế kỷ , Kỵ binh vẫn là hình tượng lãng mạng trong thế giới phương Tây . Với kích thước to lớn và mặc những trang phục  lộng lẫy , lưỡi gươm bóng loáng và lực lượng gồm những người có địa vị cao trong xã hội, kỵ binh vẫn luôn nổi tiếng với những đòn tấn công xung kích  đến tận thế kỷ 19 . Kỵ binh lúc này thường được chia thành hai nhóm : Kỵ binh hạng nặng được sử dụng nhằm tung đòn trong khảnh khắc quyết định của trận chiến và Kỵ binh hạng nhẹ để trinh sát , che chắn và truy đuổi .

Những năm 1850s đánh dấu khởi đầu của sự suy thoái kỵ binh , cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra cùng với sự ra đời của các loại pháo bắn đạn ngòi chạm nổ và súng trường nạp hậu đã thay đổi mọi thứ khi giờ đây các đội hình bộ binh có thể dễ dàng trúng hỏa lực chính xác từ khoảng cách rất xa , dẫn đến rối loạn , không giữ được sự thống nhất đồng đều trong đội hình và chịu thương vong lớn . Dẫu vậy ở Châu Âu , quân đội các nước vẫn bám giữ lấy hình tượng lãng mạng của kỵ binh ấy  , dù cho  có được trang bị các loại súng ngắn , carabine hay pháo kỵ để cố gắng bắt kịp thời đại thì vũ khí lạnh vẫn luôn được xem là trang bị lí tưởng của kỵ binh ,mục đích cho sự tồn tại của kỵ binh vẫn luôn là ‘’Charge en masse’’.

Trong chiến tranh Crimea 1853 - 1856, Lữ đoàn kỵ binh hạng nhẹ  quân đội  Anh chỉ huy bởi Bá Tước Cardigan đã tung đòn xung kích để ngăn quân Nga tràn vào vị trí pháo binh  Thổ tuy nhiên một số nhầm lẫn trong quá trình ra lệnh đã hướng cuộc tấn công đến vị trí công sự pháo binh nằm ở cuối thung lũng với 50 khẩu pháo . Bá tước Cardigan dẫn đầu cuộc tấn công với hơn 600 kỵ binh , nhưng khi nhận ra mình đang nhắm sai mục tiêu và cố gắng ra lệnh thì ông đã bị giết chết bởi một quả đạn trái phá phát nổ ngay khi vừa chạm mặt đất , Lữ đoàn không hiểu chuyện gì tiếp tục tấn công. Dưới các loạt đạn chùm từ pháo,  đội hình dần mất sự đồng nhất của mình, tốc độ tiến công từ nước đại giảm xuống nước trung, khi đã tiếp cận được vị trí các khẩu pháo và đánh bật các pháo thủ Nga thì kỵ binh ngay lập tức bị hỏa lực bộ binh dội từ ba phía khiến lực lượng này buộc phải rút lui , các pháo thủ Nga lập tức trở lại vị trí dội thêm một loạt đạn chùm vào lưng kỵ binh đang rút lui . Tổng cộng thương vong của Lữ đoàn là 278 người và 335 ngựa , chưa tính tù binh bị  bắt - khoảng 50% lực lượng tấn công ban đầu.

Archibald Forbes, chứng kiến cuộc xung kích quy mô lớn của kỵ binh Pháp tấn côn bộ binh Phổ tại Sedan 1870 :
’’Không khẩu súng nào lên tiếng khi những người kỵ mã  lộng lẫy lao xuống con dốc thoải như một trận tuyết lở . Khi những người lính mã đã thu hẹp tới khoảng khoảng cách mà cả họ lẫn phía bộ binh có thể nhìn rõ bộ râu trên gương mặt và lá cờ trung đoàn của nhau , dọc theo hàng râu của những người lính Phổ sau đó lóe lên một hàng lửa  . Âm thanh như tiếng sét của một trận cuồng phong và loạt khói trắng cuốn về phía Kỵ binh Chasseurs và che mắt toàn bộ cảnh tượng ấy. Khi ngọn gió đã cuốn bay nó đi , có thể thấy một hàng dài những bộ quân phục sáng lóa và những chú ngựa xám nằm vật vã hoặc bất động dưới đất . Sự hủy diệt đến từ một loạt vô lê có thể là thứ duy nhất một người lính già còn sống chưa thấy’’

Tuy nhiên trong chiến tranh Áo-Phổ , tại Lagensalza vào ngày 27/6/1866  Kỵ binh Hanover đã phá vỡ đội hình chữ nhật của bộ binh Phổ dù chịu thương vong lớn trong cuộc tấn công này . Cuộc tấn công này làm một minh chứng cho những người ủng hộ kỵ binh , Tổng tham mưu trưởng quân đội Phổ Thượng tướng Helmuth von Moltke trong một thông cáo nhạy cảm gửi Quốc vương Wilhelm năm 1868 đã thẳng thắn chỉ  ra những điểm yếu của đội quân chiến thắng , trong đó ông cho rằng Kỵ binh nên được sử dụng hiệp đồng tác chiến cùng bộ binh và pháo binh như quân Hanover tại  Lagensalza chứ không nên giữ lại phía sau để chờ đợi cơ hội tung đòn xung kích kết liễu , thay vào đó kỵ binh nên được tập trung sử dụng hơn trong vai trò trinh sát , che chắn và an ninh hơn .

Điều đó đã chỉ rõ trong nội chiến Mỹ  (1861-1865 ), các với sự đa dạng của kỵ binh châu Âu  các Trung đoàn kỵ binh quân đội Mỹ hầu hết  là Long Kỵ - được huấn luyện và trang bị để chiến đấu trên lưng ngựa vào chiến đấu như bộ binh , thường được triển khai trong vai trò trinh sát , do thám như kỵ binh hạng nhẹ. Sau đó toàn bộ lực lượng kỵ binh đều được tái tổ chức thành các Trung đoàn kỵ binh (Cavalry Regiment) ,không phân loại và chiến thuật thống nhất trong giai đoạn đầu  nội chiến . Chiến đấu chủ yếu khi xuống ngựa và sử dụng súng trường như bộ binh và chỉ sử dụng ngựa làm phương tiện cơ động  , những cuộc đọ sức bằng đao lên lưng ngựa như tại ga Brandy , Virginia  1863 diễn ra rất ít. Đối với người Mỹ thì cái chết không hề có một sự khác biệt dù dưới hình thức nào trong khi với kỵ binh ở  Châu Âu bị trói buộc đạo đức tinh thần về một cái chết trên lưng ngựa .

Dù một mặt bám giữ chiến thuật tấn công truyền thống , dưới ảnh hưởng của Helmuth von Moltke , kỵ binh Phổ giờ đây thực hành các phương pháp tác chiến mới rút kinh nghiệm những sai lầm  từ chiến tranh Áo-Phổ 1866. Trong cuộc chiến ấy kỵ binh Phổ thể hiện một cách tồi tàn khi Thiết kỵ không thể theo kịp để tham gia các trận đánh lớn và khinh kỵ thường xuyên bị khinh kỵ Áo đánh chặn và truy đuổi,  dẫn đến thường xuyên mất dấu quân Áo . Moltke sẽ không bao giờ bắt được chủ lực Áo tại Königgrätz nếu một toán trinh sát Thương kỵ không thể vượt qua lớp cảnh giới của kỵ binh Áo và chứng kiến một loạt các doanh trại khổng lồ quanh Sadowa. Moltke sau đó chuyển hướng 3 Tập Đoàn Quân di chuyển trong đêm và ập đến ép chặt chủ lực Áo về  sông Elbe . Khi cánh phải của Áo sụp đổ và toàn bộ đạo quân tổ chức rút lui qua bờ Đông sông Elbe , vào lúc này Moltke rất cần đến kỵ binh hạng nặng để có thể tung đòn kết liễu và biến cuộc rút lui thành hỗn loạn nhưng trong số 350 kỵ đội , chỉ có 39 kỵ đội xuất hiện trên chiến trường và một loạt các cuộc phản công của Thiết kỵ Áo đã thành công trong việc che chắn bộ binh và pháo binh rút lui .


’’Quả tạ vô dụng , tốn kém của quân đội’’ - Helmuth von Moltke

Vị Tổng tham mưu trưởng cực kỳ khó chịu với kỵ binh sau trận chiến , ông thẳng thắn nêu rõ những điểm yếu của kỵ binh với Quốc vương Wilhelm và bịt họng mọi thành phần phản ứng trong quân đội . Các chiến thuật tác chiến trinh thám được đưa vào huấn luyện , thậm chí cả Thiết kỵ cũng được triển khai để trinh sát , súng carabine được trang bị đại trà .  Trong chiến tranh Pháp-Phổ Mỗi Sư Đoàn Bộ  Binh đều có 1 Trung đoàn kỵ binh để trinh sát , làm tiền phong hoặc hậu quân và các Tập Đoàn Quân có các Sư Đoàn Kỵ Binh  thường được triển khai trước bộ binh khoảng 1 ngày hành quân ( có thể lên đến 80km). Các Trung đoàn triển khai các kỵ đội hoạt động sâu  trong chiến tuyến địch để thu thập nhiều thông tin nhất có thể và các kỵ đội này tiếp tục triển khai các nhóm nhỏ thậm chí là từng người một để luồn lách gần khu vực hoạt động của địch hơn một ví dụ điển hình là khi Tập Đoàn Quân sông Rhine rút lui về Metz , các toán tuần tra kỵ binh đã luồn qua cánh của đội quân này và cắt đứt các đường dây điện tín liên lạc từ Paris đến Nancy hay Sư đoàn kỵ binh 5 và 6 được lệnh thám thính khu vực Metz-Verdun nhằm cắt đứt tuyến đường rút lui của Pháp , vào ngày 15/8 khi phát hiện thấy quân Pháp , các khẩu đội pháo kỵ được điều đến để cầm chân lực lượng này, các đơn vị bộ binh của Đức nghe thấy tiếng nổ liền nhanh chóng ập đến và  dập tắt toàn bộ nỗ lực mở đường thoát vây  , toàn bộ một Tập Đoàn Quân Pháp bị mắc kẹt và bao vây ở  Metz ngay sau đó .

Ngược lại kỵ binh Pháp bị ảnh hưởng nặng từ các cuộc chiến ở Algeria và Mexico , sợ rằng kỵ binh đi quá xa với lực lượng nhỏ rất dễ bị phục kích tiêu diệt ,  như  Thống chế Baizane đã nói ‘’Trinh sát quân ta không nên quá táo bạo’’ . Kết quả là các chỉ huy không thể biết được quy mô chính xác của đơn vị địch phía trước như vào đầu cuộc chiến tại Wissembourg và Spicheren khi kỵ binh Pháp thất bại trong việc đánh giá quy mô của quân Đức đối mặt trước Louis Napoleon, vào ngày 3/8 khi Tập Đoàn Quân 3 chuẩn bị tấn công Wissembourg ,tướng Ducrot báo cáo rằng mối đe dọa Bayern chỉ là trò bịp bợm mà không biết rằng quân Đức thực thế đông hơn gấp 3  lần

5.4 Lữ đoàn pháo binh
5.4a Tổ chức & biên chế

Mỗi Lữ đoàn Pháo Binh gồm một Trung đoàn Pháo Dã  Chiến và một Trung đoàn Pháo Vây Hãm, riêng các Lữ Đoàn 9 , 10 , 11 và 12 chỉ có Trung Đoàn Pháo Bộ và Tiểu đoàn Pháo Bộ . Vào thời bình các Lữ đoàn Pháo Binh nằm dưới sự quản lí của quân đoàn , trong cuộc chiến năm 1870 các quân đoàn chỉ mang theo Trung đoàn Pháo Dã Chiến , các Trung đoàn Pháo bộ chỉ được triển khai ra mặt trận để tổ chức các trận  vây hãm . 




Dựa vào các đặc tính kỹ thuật , ta có thể chia pháo thành nhiều loại khác nhau , nếu dựa vào tính chất nhiệm vụ thì ta có thể chia làm 2 loại chính : Pháo dã chiến và Pháo vây hãm . Pháo dã chiến là các loại pháo có khối lượng nhẹ di chuyển cùng các Tập Đoàn Quân và tham gia tác chiến chiến thuật trong các trận đánh quy ước , pháo vây hãm gồm các loại pháo hạng nặng , siêu nặng , dùng để phòng ngự đồn trú hoặc tổ chức bắn phá oanh tạc trong chiến tranh vây hãm

Pháo vây hãm ''Gustav hạng nặng'' trong thế chiến thứ 2


''Lựu pháo dã chiến hạng nặng 15cm kiểu 18''

Trung đoàn pháo bộ - Fuß-Artillerie-Regiment chỉ là tên gọi truyền thống , dùng để phân biệt với pháo kỵ vào đầu thế kỷ 19 (Pháo bộ : Pháo thủ hành quân , Pháo và đạn được kéo bằng xe ngựa , Pháo kỵ : Kíp vận hành và pháo cùng đạn di chuyển trên xe ngựa , nhanh chóng cơ động đến vị trí để triển khai nã đạn ) , các Trung đoàn pháo Bộ giờ đây được trang bị các loại pháo hạng nặng với cỡ nòng lớn dùng để phòng ngự bờ biển , các pháo đài hoặc tổ chức vây hãm trong chiến tranh tấn công vào lãnh thổ địch 

Các quân đoàn sử dụng các khẩu đội từ Trung đoàn pháo dã chiến làm pháo binh Sư đoàn và pháo binh dự bị . Mỗi Trung Đoàn có 3 Tiểu đoàn pháo bộ và 1 Tiểu đoàn pháo kỵ  , 2 Tiểu đoàn pháo bộ thuộc cho 2 Sư đoàn bộ binh và phần còn lại trực thuộc quân đoàn . Mỗi Tiểu đoàn pháo bộ gồm 2 khẩu đội 4-Pfünder và 2 khẩu đội 6-Pfünder và mỗi tiểu đoàn pháo kỵ gồm 3 khẩu đội 4-Pfünder , tất cả các khẩu đội  đều có 6 pháo .Khi có chiến tranh  , mỗi Trung đoàn pháo dã chiến sẽ thành lập 1 tiểu đoàn dự bị với 2 khẩu đội pháo bộ và 1 khẩu đội pháo kỵ. Mỗi khẩu đội sẽ gồm 6 khẩu . 

5.4b Trang bị
Vào giữa thế kỉ 19 , các hệ thống pháo binh mới áp dũng những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến từ cuộc cách mạng công nghiệp  được đưa vào biên chế .Pháo binh Pháp đưa vào hoạt động các loại pháo thuộc hệ thống La Hitte vào năm 1858 . Cũng trong khoảng thời gian này , quân đội Phổ tiến hành thử nghiệm và đưa vào biên chế các loại pháo mới chế tạo bởi công ty sắt thép nổi tiếng - Krupp

Chương trình phát triển các loại pháo nòng xoắn mới được bắt đầu vào năm 1851 với các nguyên mẫu và thiết kế khác nhau , đến giữa thập niên 1850s thì bản thiết kế chính dần hoàn thiện .

Về vật liệu nòng pháo:
- Đồng như các loại pháo La Hitte của Pháp sử dụng là vật liệu rất tốt, dù giá thành cao nhưng đảm bảo độ an toàn tốt hơn khi nòng pháo bị vỡ cũng như khối lượng nhẹ hơn , nếu so với sắt , gang
-  Gang là vật liệu đúc nòng pháo truyền thống , thường được sử dụng trong các pháo đài và bởi hải quân
- Vật liệu thứ ba tham gia các bài thử nghiệm là thép đúc. Vì giá thành đắt đỏ hơn nên các cuộc thử nghiệm chi tiết tạm thời không thực hiện với vật liệu này

Các cuộc thử nghiệm với cả 3 loại vật liệu cho thấy độ bền của Đồng có thể ảnh hưởng đến rãnh xoắn và ưu điểm về độ bền của thép đúc không đem nhiều lợi thế so với khối lượng nhẹ của đồng . Vì nòng xoắn dài hơn có thể giúp tầm bắn và độ chính xác tăng lên - đúng với nhu cầu của pháo dã chiến nên những vấn đề về giá thành và khối lượng được bỏ qua . Tuy nhiên các loại pháo công sự tiếp tục sử dụng gang và đồng để tiết kiệm ngân sách , tương tự với người  Pháp khi họ nâng cấp các loại pháo cũ lên chuẩn La Hitte để tiết kiệm chi phí .

Về thiết kế đạn dược:
- Trái phá được làm bằng vỏ sắt và bọc  chì , lớp vỏ chì nặng giúp viên đạn có thể xoay trong thời gian dài nhưng cấu trúc sắt phải được gia cố để có thể cố định lớp vỏ chì bên ngoài , hơn nữa chì là vật liệu đắt tiền nên các thiết kế về sau sử dụng một lớp vỏ chì mỏng hơn , đạn sử dụng ngòi nổ chạm
- Đạn phá mảnh chứa các viên bi bên trong sử dụng ngòi nổ chạm , nhưng khi đạn nổ chạm đất , hiệu ứng sát thương không khác mấy so với trái phá nên vào năm 1864 Đại úy  pháo binh Richter đã thiết kế ngòi nổ hẹn giờ cho đạn pháo vây hãm ,  thiết kế này trở thành nền tảng của các loại ngòi nổ hẹn giờ cho các loại pháo dã chiến trong tương lai , cung cấp khả năng kích nổ đạn phá mãnh trên không trung

Về thiết kế khóa nòng:

Ngay từ năm 1826 , Hội đồng Pháo binh quân đội Phổ đã bắt đầu thử nghiệm pháo nạp hậu 3-pounder , dù thất bại nhưng ý tưởng về pháo nạp hậu không vì thế mà biến mất . Năm 1843 các cuộc thử nghiệm với các nguyên mẫu pháo sử dụng khóa nòng thiết kế bởi Martin von Wahrendorff người Thụy Điển

Thiết kế đã thể hiện khá tốt nhưng phải mất tận 15 năm sau để có thể đưa vào biên chế bởi quá trình phát triển khóa nòng phải đảm bảo độ vững chắc của thiết kế dưới cường độ chiến tranh .

6-Pfünder-Feldkanone C/61 

Vào năm 1860 , Gußstahl 6-Pfünder-Feldkanone C/61 đã được chấp thuận đưa vào biên chế với 300 khẩu được đặt hàng .  Nòng pháo được chế tạo bởi Krupp và pháo được lắp ráp tại công xưởng pháo binh Spandau .








Khối lượng (kg)

999

Cỡ nòng (cm)

9.15

Dài nòng (L/)

22.3

Tầm bắn tối đa (m)

3700m

Kíp vận hành (Người)

5



Nòng pháo được làm bằng thép đúc với phần vỏ bên ngoài có 1/3 độ dài cuối nòng là  hình trụ và thuôn nhọn về phía trước và nối với phần diềm ở đầu nòng. Ở giữa nòng là các trụ lắp dùng để lắp pháo lên giá đỡ . Các ống gia cố được lắp hai bên lỗ lắp cơ cấu khóa nòng ở cuối nòng .Cơ cấu khóa nòng  Wahrendorff  được lắp sau nòng , với khóa nòng được làm bằng gang , xy lanh khóa làm bằng thép đúc và tay quay . Khóa nòng được cho vào nòng như nắp chai và được chốt bởi một xy lanh hình trụ khác cho vào lỗ lắp cơ cấu khóa nòng ở hai bên nòng pháo . Thiết kế này rất đơn giản và dễ vận hành , giúp thời gian nạp đạn tăng lên nhiều lần tuy nhiên khóa nòng không hề kín khí nên phải lắp thêm một đĩa bịt khí ở sau viên đạn.

Chiều dài nòng là 2.04m , cỡ nòng 9.15cm và rãnh xoắn trong nòng xoắn 18 vòng .

Giá pháo sử dụng là loại  C42/56 được làm từ gỗ kết hợp với gang , thép tấm .

Xe chở hành được kết nối với càng pháo với một thùng đạn lớn . Mỗi thùng đạn chứa 30 viên và 30 liều thuốc phóng , theo tiêu chuẩn gồm 18 Lựu đạn , 9 Đạn phá mảnh  , 3 Đạn chùm  , 30 liều phóng  1.2 pfünder , 4 liều phóng 0.5 pfünder , 4 liều phóng 0.25 pfünder , 5 khóa nòng , 34 que kích lửa và các dụng cụ khác






Các loại đạn sử dụng :

- Lựu đạn : Nặng khoảng 6.785kg , với phần vỏ sắt bọc chì và 250g thuốc nổ , ngòi nổ là loại nổ chạm quán tính Perkussionszünder C 61 . Tầm bắn tối đa khoảng 3750m với liều đầy , khoảng 1500m với liều 0.5 pfünder và khoảng 900m với liều 0.25 pfünder .

- Lựu đạn cháy : Lựu đạn thông thường được nhồi thêm chất cháy . Loại đạn này không được mang cùng khẩu đội mà được vận chuyển  cùng đoàn vận tải 


- Đạn phá mảnh : Nặng khoảng 7.14kg , có thiết kế tương tự với lựu đạn tuy nhiên phần vỏ sắt được làm mỏng hơn để có thể chứa 88-92 viên bi bằng chì được trám vào trong bằng lưu huỳnh . Phần giữa là 20g thuốc nổ được bọc trong ống cách lưu huỳnh . Ngòi nổ sử dụng vẫn là loại  Perkussionszünder C 61 do ngòi nổ hẹn giờ Ritcher không thể sử dụng cho pháo dã chiến . Vì sự thiếu hiệu quả của loại đạn này với ngòi nổ chạm,  vào năm 1866  đạn phá mảnh bị ngưng sử dụng . Tầm bắn tối đa khoảng 1500m với liều đầy




- Đạn chùm : Nặng khoảng 4.5kg , là một hộp thiếc hình trụ chứa 41 quả bóng kẽm . Tương tự với đạn shotgun , Được sử dụng ở tầm gần để chống kỵ binh và đội hình bộ binh. Tầm bắn tối đa khoảng 300m với liều đầy




Ngòi nổ quán tính Perkussionszünder C 61 được thiết kế bởi Rudolf Sylvius von Neumann vào năm 1859 . Khi đạn bắn ra khỏi nòng , lực ly tâm sẽ gài ngòi và khi va chạm mục tiêu , lực quán tính sẽ đẩy kim hỏa về phía trước  đập vào bộ kích lửa , đốt cháy dây dẫn dẫn đến thuốc nổ trong đạn 




6-Pfünder-Feldkanone C/64

C/64 được đưa vào biên chế vào năm 1864 với nhiều cải tiến từ C/61 . Khác biệt chính giữa hai loại là thiết kế khóa nòng . Nòng pháo  sử dụng thiết kế của pháo 4-Pfünder C/64 với các kích thước từ C/61 được giữ nguyên : dài 2.04m , cỡ nòng 9.15cm và nòng pháo có hình trụ suốt chiều dài nòng . Loại đạn sử dụng tương tự với C/61
Giá pháo và giá hòm đạn được thiết kế lại giúp giảm 61.6kg khối lượng toàn hệ thống . Cơ cấu khóa nòng trượt nêm đôi được đưa vào sử dụng .
Với loại khóa nòng mới  C/64 chỉ cần 1 người vận hành đóng mở khóa nòng so với  2 như trên C/61.

4-Pfünder-Feldkanone C/64

Sau khi pháo 6-Pfünder C/61 mới được đưa vào chế , thay thế một phần các loại 12-Pfünder cũ , vào ngày 21/11/1860 , Hội đồng kiểm duyệt pháo binh đặt ra yêu cầu về loại pháo 4-Pfünder mới để thay thế cho pháo 7-Pfünder cũ . Công việc chế tạo nguyên mẫu nòng pháo được giao cho Krupp và Spandau và các cuộc thử nghiệm nòng được bắt đầu từ năm 1861 đến năm 1864 , nguyên mẫu pháo hoàn thiện đầu tiên được cho ra mắt trước Quốc Vương Wilhelm và Trong chiến tranh với Đan Mạch cùng năm đó một khẩu đội thử nghiệm gồm 8 khẩu . Quá trình sản xuất bắt đầu từ năm 1864 và sau màn thể hiện không tốt của các khẩu đội 12-Pfünder và các khẩu đội pháo kỵ trong chiến tranh Áo-Phổ , mệnh lệnh từ hội đồng tối cao vào ngày 6/11/1866 đã yêu cầu thay thế toàn bộ 12-Pfünder và pháo kỵ bằng loại  4-Pfünder nhỏ nhẹ cơ động hơn .






Khối lượng (kg)

625

Cỡ nòng (cm)

7.85

Dài nòng (L/)

24.6

Tầm bắn tối đa (m)

3450

Kíp vận hành (người)

5

4-Pfünder C/64 có nòng dài 1.935m , cỡ nòng 7.85cm  , rãnh xoắn trong nòng xoắn 12 vòng và cuối nòng được lắp khóa nòng trượt nêm đôi dựa trên cơ cấu khóa nêm đôi Kreiner được sử dụng trên pháo vây hãm từ năm 1862 . 


Nòng pháo được bịt bởi 2 khối thép hình nêm , ở giữa mặt tiếp xúc của hai khối tạo thành góc nghiêng , bằng cách trượt hai khối giữa bề mặt nghiêng này  ta có thể dễ dàng thay đổi lực ép vào thành nòng để có thể dễ dàng kéo khối thép và mở khóa nòng . So với khóa nòng Wahrendorff loại khóa nòng mới chỉ cần 1 người vận hành  nhờ vào sự đơn giản trong thao tác , giúp tăng tốc độ nạp đạn đáng kể .

Các thao tác vận hành pháo gồm :
- Xoay tay quay ngược chiều kim đồng hồ 3/4 vòng
- Kéo tay quay để mở khóa nòng
- Nạp đạn và liều phóng
- Đẩy tay quay để đóng khóa nòng , xoay tay quay theo chiều kim đồng hồ để ép chặt khóa nòng
- Lắp que kích lửa

Pháo đã sẵn sàng để bắn .

Trong quá trình tác chiến , gờ chắn bánh pháo hình nêm có thể được đặt một khoảng sau bánh của giá pháo , vì trong thời kì này cơ cấu lùi nòng chưa được phát minh nên khi bắn pháo có thể giật lùi ra sa vài mét , gờ chắn hình nêm ở sau có công dụng đỡ cũng như cho bánh pháo lăn về trước trở về vị trí bắn , giảm thời gian thao tác pháo . Cách sử dụng này chỉ hiệu quả với pháo nạp hậu bởi với các loại pháo nạp đầu nòng thì phía trước nòng pháo cần một khoảng không gian đủ rộng để nạp đạn , sau khi nạp các pháo thủ phải dùng sức đẩy pháo lên trước vào vị trắn.

Các loại đạn được sử dụng gồm:

- Lựu đạn  : Nặng khoảng 4kg  ,  chứa 170g chất nổ với lớp vỏ làm bằng sắt bọc chì . Sử dụng ngòi nổ quán tính Perkussionszünder C 61 . Tầm bắn tối đa 3450m với liều đầy


- Lựu đạn cháy : Lựu đạn thông thường được nhồi thêm chất cháy .

- Đạn chùm : là hộp chì nặng 3.4kg chứa 48 viên bi thiếc ,khi bắn hộp vỡ và nhả ra các viên bi . Được sử dụng ở khoảng cách gần , tương tự với đạn shotgun . Tầm bắn tối đa khoảng 400m  



Liều phóng gồm 3 loại : 1.2 Pfünder (liều đầy) , 0.5 Pfünder và 0.25 Pfünder

4-Pfünder-Feldkanone C/67

Trong chiến tranh Áo-Phổ 1866 , khi hoạt động với cường độ cao một vài khẩu 4-Pfünder C/64 bị xịt đạn mà không có dấu hiệu cảnh báo trước  , điều này đã làm dấy lên sự nghi ngờ về độ tin cậy sau thời gian dài sử dụng của nòng pháo làm từ thép đúc . Tuy nhiên các cuộc điều tra về các loại pháo thép đúc như  C/61  vốn không hề mắc phải lỗi  này cho thấy vấn đề không nằm ở chất liệu nòng pháo mà nằm ở  cơ cấu khóa nòng . C/67 từ đó ra đời với một số chỉnh sửa về khóa nòng nhằm khắc phục vấn đề này .


Về thiết kế cơ cấu khóa nòng mới , kích thước hai khối nêm vẫn giữ như cũ tuy nhiên khối nêm cố định được áp vào buồng đốt và khối nêm nằm phía sau là khối nêm trượt , điều này nhằm giúp tránh trường hợp khóa nòng bị kẹt khi phần khối nêm phía trước liên tục chịu tác động của áp suất và nhiệt độ cao như trên C/64 ,khiến quá trình vận hành cần phải kê tấm đệm bằng đồng trước nêm để tránh tình trạng kẹt khóa nòng, mỗi tấm đệm bằng đồng có thể chịu 100 phát bắn .  Cơ cấu khóa nòng mới trên C/67 được trang bị thêm cơ cấu bảo vệ trên tay quay giúp ngăn khóa nòng mở ra ngoài ý muốn . Một số thay đổi trên nòng pháo để phù hợp với cơ cấu khóa mới khiến trọng lượng nòng tăng 26.5kg . Các bộ phận còn lại như giá pháo ,đạn dược … đều tương tự như trên C/64 nên không có sự khác biệt đáng kể về ngoại hình

5.4c Tác chiến pháo binh

Có thể nói bộ binh là ngôi sao sáng duy nhất trong cuộc chiến với  Áo năm 1866, cả Kỵ binh lẫn Pháo binh đều mắc chung một điểm yếu lớn nhất : Di chuyển quá xa ở phía sau  (để làm dự bị) và kết quả là khi trận đánh diễn ra chỉ một phần lực lượng có thể được  tung vào tác chiến . Trung bình trong chiến tranh năm 1866 , người Áo đã sử dụng gần như toàn bộ các khẩu pháo của mình so với chưa đến một nửa của người Phổ. Bằng cách học hỏi chiến thuật của Pháp sau khi thua trận vào năm 1859 , pháo  binh Áo triển khai cực kỳ táo bạo đưa gần như toàn bộ các khẩu đội pháo lên phía trước để càn quét chiến trường theo kiểu Napoleon hơn 50 năm về trước khi ông thường triển khai toàn bộ pháo binh dự lên trước bộ binh để lập Grande Batterie và đục khoét vị trí phòng ngự của địch trước khi triển khai bộ binh đột phá lỗ hổng này , đi kèm với chiến thuật này là rủi ro đánh mất các khẩu pháo khi bị địch đẩy lùi  .

Trong trận Koniggratz quân Áo đã triển khai khoảng 300 khẩu pháo lên phía trước và chặn đứng bước tiến của bộ binh Phổ  . Trung bình mỗi khẩu bắn 118 viên đạn pháo , ở những khu vực hoạt động mạnh thì con số này lên đến 217 viên / khẩu - tương đương cường độ trong Thế chiến thứ nhất . Paul von Hindenburg - Tổng thống Cộng hòa Weimar tương lai lúc này là một chỉ huy trung đội tại Koniggratz , chiến đấu ở khu vực bị bắn phá nặng nề , chỉ trong vòng vài phút chỉ huy đại đội cùng nửa quân số bị loại khỏi chiến . Phần lớn thương vong của Phổ trong cuộc chiến ấy không phải từ lưỡi lê hay đạn súng trường mà từ mảnh đạn pháo .Dù chiến thắng nhưng Motlke không thể bỏ qua những điểm yếu trong phương pháp tác chiến , pháo binh dã chiến được tái trang bị với các loại 6-Pfünder và 4-Pfünder mới có tầm bắn xa và tốc độ bắn nhanh  , vấn đề tiếp theo là phương pháp triển khai pháo binh .

Nếu các khẩu đội di chuyển quá xa đằng sau khiến bộ binh thiếu hỏa lực lực yểm trợ như năm 1866 thì vào năm 1870 , pháo được đưa lên phía trước đội hình hành quân và thường di chuyển sau đơn vị thứ nhất hoặc thứ hai và việc đánh mất các khẩu pháo vào tay địch giờ đây không còn là một sự ‘’nhục nhã’’ như quan niệm truyền thống  .

Về tổ chức , mỗi Sư đoàn bộ binh được trang bị 1 tiểu đoàn pháo bộ (thuộc  Trung đoàn pháo dã chiến) với 12 khẩu 4-Pfünder và 12 khẩu 6-Pfünder - vượt trội hoàn toàn so với pháo binh Sư đoàn của Pháp - 12 khẩu cỡ 4 và 6 khẩu Mitrailleuse
Nếu so sánh hỏa lực pháo binh của toàn bộ Quân Đoàn thì 1 Quân đoàn với 2 Sư đoàn bộ binh và pháo binh dự bị có tổng cộng 72 khẩu 4-Pfünder và 36 khẩu  6-Pfünder và 1 Corps d’Armée với biên chế mạnh nhất (1,3,6) gồm pháo binh thuộc 4 Sư đoàn bộ binh và pháo binh dự bị có tổng cộng 84 khẩu cỡ 4 , 24 khẩu Mitrailleuse và 12 khẩu cỡ 12 như vậy chỉ nhỉnh hơn chút với 1 Quân đoàn của Phổ . Tuy nhiên cần phải lưu ý rằng tính năng kỹ chiến thuật của Mitrailleuse không thể so sánh được với pháo thông thường nên thực tế pháo binh Quân đoàn mạnh của Pháp chỉ có 96 khẩu pháo để đối đầu với 108 khẩu pháo của một Quân đoàn Phổ , và với 6 Quân đoàn thông thường còn lại thì con số này là 72 đánh 108 . Như vậy chỉ tính riêng về tổ chức thì pháo dã chiến Phổ hoàn toàn áp đảo pháo dã chiến của Pháp
. Nếu so sánh về đặc điểm kỹ chiến thuật của pháo hay các Corps d’Armée còn lại với ít pháo hơn thì quân Pháp chắc chắn sẽ bị áp đảo hỏa lực . Chủ yếu nhờ vào lợi thế về tốc độ bắn - có thể lên đến 6 -10 phát/phút so với 2 phát/phút của các loại pháo nạp nòng Pháp cũng như có thể bắn lựu đạn ở mọi khoảng cách nhờ ngòi nổ chạm (so với ngòi hẹn giờ với các mốc khoảng cách được cài đặt sẵn của pháo dã chiến Pháp)  . Tuy nhiên vì lúc đó thuốc súng không khói vẫn chưa ra đời nên việc bắn dồn dập trong một khoảng thời gian ngắn sẽ tạo rất nhiều khói khiến các khẩu đội không thể quan sát chiến trường , do đó kỹ thuật bắn các loạt đạn giữa các khoảng thời gian được áp dụng  .

’’ Bọn ta không cần phải đợi lâu trước bộ binh địch bắt đầu di chuyển. Chúng tiến công theo đội hình khối cột từ Amanvillers , hướng về phía bọn ta với tinh thần máu lửa . Khi đã có thể quan sát rõ đội hình trên đỉnh đồi , bọn ta bắn thử một viên để ước lượng khoảng cách,  sau đó toàn bộ các khẩu pháo nã đạn dồn dập . Toàn bộ đội hình địch đều chìm trong khói trắng khi những quả lựu đạn nổ  , một lúc sau từ đám khói xuất hiện những cái quần màu đỏ bước ra phía trước . Lúc đó tất cả ngừng bắn . Một phát đạn thử được ngắm ở tầm 1700 bước chân giúp các pháo thủ ước lượng góc bắn chính xác  và tiếp tục dồn dập nã loạt đạn tiếp theo . Tương tự cứ lặp lại như thế  ở tầm 1500 bước , 1300 bước và 1100 bước  .Những con người dũng cảm ấy vẫn tiếp tục bước lên trước mặc cho các khẩu pháo của ta đang liên tục gieo rắc kinh hoàng lên đội hình của họ . Và cuối cùng ở khoảng cách 900 bước chân , sát thương gây ra bởi pháo lúc này đã là quá đủ vớ họ và quay đầu  bỏ chạy . Bọn ta tiếp tục nã đạn đuổi theo đến khi không nhìn thấy địch nữa’’ -  Công tước Kaft August xứ Hohenlohe-Ingelfingen

Tiếp theo về phương pháp triển khai pháo binh  . Vì tính chất phân tán và dàn trải rộng khắp chiến trường của  bộ binh Phổ , việc tập trung tất cả các khẩu pháo để tập trung hỏa lực vào một khu vực sẽ dẫn đến bộ binh ở những khu vực khác thiếu đi sự hỗ trợ cần thiết của pháo binh để có thể tiến công hiệu  quả nhưng việc phân tán pháo binh để hỗ trợ thì lại không thể tập trung hỏa lực pháo binh một cách hiệu quả . Để có thể gỉai quyết đồng thời hai vấn đề này phương pháp ad-hoc mới được đưa vào sủ dụng : ‘’Artillery-Massen” (Pháo binh tập trung) , các khẩu đội pháo vẫn được triển khai phân bố hỗ trợ các đơn vị . Khi vị trí nào cần được yểm trợ hỏa lực mạnh thì toàn bộ các khẩu đội gần đó , dù có hay không cùng đơn vị  (thuộc quyền chỉ huy) đều được tập hợp để dồn hỏa lực về khu vực cần thiết,  khi hoàn thành nhiệm vụ các khẩu đội sẽ được trả về đơn vị cũ . Cách triển khai ad-hoc và vượt quyền chỉ huy này đòi hỏi sự chủ động và độc lập của các chỉ huy cấp thấp (Auftragstaktik) - phương pháp này chính là tền đề của các  ‘’Kampfgruppe’’ - ''Cụm tác chiến'' thường được Wehrmacht triển khai trong thế chiến 2  . Trong trường hợp cần tối đa mọi loại hỏa lực trên chiến trường (và khi có đủ thời gian) , toàn bộ các khẩu đội có thể được tập trung để lập thành  ‘’Grossen Batterien’’Đại khẩu đội như Napoleon thường làm hơn 60 năm về trước

Các ví dụ về chiến thuật triển khai pháo binh sẽ được đưa ra trong vài chương tới khi giao chiến được tiến hành

’’ C'est votre artillerie, Sire, qui a gagné la campagne. ‘’ - Napoleon III nói với Wilhlem  
( Chính pháo binh của ngài , thưa ngài , đã chiến thắng chiến dịch này)

7. Quân đội Hoàng Gia Bayern

3 đất nước Nam Đức là Bayern , Wurttemberg và  Baden tham gia liên minh  quân sự với Bắc Đức , đều đưa vào sử dụng mô hình quân đội Phổ vào năm 1867 . Khác với Wurttemberg và Baden khi đưa vào biên chế súng trường Dreyse ngay sau đó thì quân đội Bayern sử dụnh loại vũ khí của riêng mình - súng trường Podewils .

Bài học từ cuộc Nội chiến Hoa Kỳ 1961-1865 đã khiến quân đội Bayern  thành lập một hội đồng nhằm lực chọn các thiết kế tốt nhất cho súng trường bộ binh mới của Bayern . Vào thời điểm đó, quân đội Bayern được trang bị súng trường M1858 Podewils với đạn 13,9mm , cùng cỡ nòng với  M1854 Lorenz của Áo.    Trong chiến tranh Áo-Phổ. Bayern liên minh với Áo cùng với Baden, Hanover, Hesse-Kastle, Sachsen, Wurttemberg, và một số bang nhỏ khác của Đức nhưng đã nhanh chóng bị quân đội  Phổ đánh bại  . Người ta tin rằng chiến thắng của Phổ trước Áo là nhờ vào súng trường Dreyse chứ không phải chiến thuật mới . Quân đội Bayern đã hoán cải  các loại súng trường Podewils và Lorenz thành súng trường nạp hậu bằng khóa nòng , với cơ cấu kích hỏa cũ vẫn được giữ nguyên( M1854 / 67 Podwils-Lindner ,  M1854 / 67 Wänzl  ). Đây là giải pháp tạm thời cho đến khi quá trình phát triển loại súng trường thế hệ mới có thể hoàn thành 

Súng trường Podewils vẫn sử dụng cơ cấu kích nổ bằng nắp kích lửa tuy nhiên đã áp dụng thiết kế nạp đạn bằng khóa nòng như súng trường Dreyse .


Đến năm 1869 , súng trường Werder hiện đại hơn bắt đầu được đưa vào biên chế   do Johann Ludwig Werder thiết kế và đăng ký bằng sáng chế vào năm 1868 . Werder sử dụng cơ cấu khóa nòng Peabody, được tinh chỉnh đáng kể để tăng tốc hoạt động . Loại đạn sử dụng là loại 11x50R sử dụng cơ cấu kích hỏa bằng kim hỏa   







Tuy nhiên vì chiến tranh sẽ nổ ra chỉ 1 năm sau khi Werder được đưa vào biên chế nên một số đơn vị  vẫn sẽ tiếp tục được sử dụng súng trường Podewils cũ
Súng trường Werder sẽ tiếp tục phục vụ trong biên chế quân đội Bayern cho tới khi bị thay thế bởi súng trường Mauser vào năm 1877.

Biên chế lực lượng tuyến đầu , 1870:
-  16 Trung đoàn bộ binh , mỗi Trung đoàn có 3 Tiểu đoàn
-  10 Tiểu đoàn Jäger
-  2 Trung đoàn Thiết Kỵ
-  6 Trung đoàn Khinh Kỵ
-  2 Trung đoàn Thương Kỵ
(Với các trung đoàn kỵ binh, mỗi trung đoàn gồm 4 kỵ đội chiến thuật và 1 kỵ đội dự bị)
- 4 Trung đoàn pháo binh , mỗi trung đoàn gồm 8 Khẩu đội dã chiến và 5 Khẩu đội pháo bộ (Vây hãm)
- 1 Trung đoàn công binh với 2 tiểu đoàn dã chiến (6 đại đội) và 4 đại đội pháo đài

Tổng cộng : 58 000 bộ binh , 6000 kỵ binh và 192 khẩu pháo

Biên chế tuyến hai (Các đại đội , kỵ đội dự bị):
- 18 500 bộ binh , 1500 kỵ binh và 48 khẩu pháo

Biên chế quân đồn trú trong nội địa (Landwehr , quân đồn trú pháo đài) :
- 22 400 Landwehr và các khẩu đội pháo vây hãm được liệt kê ở trên










8. Quân đội Württemberg  

Biên chế lực lượng chính quy năm 1870 gồm :
- 8 Trung đoàn bộ binh , mỗi trung đoàn gồm 2 tiểu đoàn điểu thương và 3 tiểu đoàn súng trường
- 4 Trung đoàn kỵ binh , mỗi trung đoàn có 4 kỵ đội
- 1 Trung đoàn pháo dã chiến với 3 tiểu đoàn và 2 đại đội công binh
Tổng cộng : 19000 Bộ binh , 1700 Kỵ binh và 54 Khẩu pháo

Biên chế lực lượng dự bị gồm:
- 4 Tiểu đoàn bộ binh
- 1 Tiểu đoàn súng trường
- 3 Kỵ đội
- 3 Khẩu đội
Tổng cộng : 4800 Bộ binh , 400 Kỵ binh và 12 Khẩu pháo

Biên chế đồn trú gồm:
- 6 Tiểu đoàn Landwehr
- 1 Tiểu đoàn pháo đồn trú
Tổng cộng : 4200 bộ binh


9. Quân đội Baden

Đại công quốc Baden tái tổ chức quân đội theo mô hình của Phổ vào ngày 12 tháng 2 năm 1868 , kế hoạch huy động quân số dựa theo kế hoạch của Bắc Được cũng được vạch ra  . Vũ khí được trang bị các loại của Phổ , súng trường Dreyse mẫu 1862 nhập từ kho Trung đoàn pháo binh Magdeburg thay thế các loại súng trường Minié của Pháp và súng trường Lorenz của Áo  . Một loại súng mới dành cho Jager được phát triên từ 1861 và đưa vào trang bị từ năm 1864 là Jägerbüchse M/64 loại súng trường nạp hậu duy nhất cùng với Dreyse trong quân đội các thành bang Đức trước chiến tranh Áo- Phổ năm 1866 . Đến năm 1869 kho vũ khí của quân đội Baden gồm 22 000 khẩu súng trường Dreyse mẫu 1862 , 18 600 súng trường Dreyse mẫu 1857 và 994 Jägerbüchse M/64  . Pháo binh Baden cũng được tái trang bị với các loại pháo nạp hậu của Krupp  .Lực lượng tuyến đầu của Baden gồm:

- 6 Trung đoàn bộ binh,mỗi trung đoàn gồm 3 tiểu đoàn
- 3 Trung đoàn Long kỵ,mỗi trung đoàn gồm 4 Kỵ đội chiến thuật và 1 Kỵ đội dự phòng
- 1 Trung đoàn Pháo dã chiến với 9 Khẩu đội
- 1 Tiểu đoàn Công binh
- 1 Tiểu đoàn hậu cần
Tổng cộng : 18500 Bộ binh , 1400 Kỵ binh và 54 Khẩu pháo

Lực lượng tuyến hai gồm :
- 3 Tiểu đoàn bộ binh
- 3 Kỵ đội
- 1 Khẩu đội
Tổng cộng  : 3000 Bộ binh , 400 Kỵ binh và 6 Khẩu pháo

Lực lượng đồn trú gồm :
- 10 Tiểu đoàn Landwehr
- 1 Kỵ đội
- 1 Tiểu đoàn pháo pháo đài
Tổng cộng  : 6850 Bộ binh  , 150 Kỵ binh và 7 Khẩu pháo




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét