Thứ Bảy, 15 tháng 3, 2025

CHIẾN DỊCH MÙA THU 1813

 

1.Các lực lượng liên minh

Sau gần 2 tháng ngừng bắn thì toàn bộ các đơn vị chiến đấu của Phổ trong chiến dịch mùa xuân đều được bù đắp thiệt hại , nâng sức mạnh chiến đấu về mức tối đa , toàn bộ các con ngựa bị mất , pháo hỏng đều đã được thay thế .

Cụ thể thì bộ binh có thêm 2 trung đoàn chính quy cùng 12 trung đoàn dự bị vừa hoàn thành quá trình huấn luyện vào mùa hè . Số lượng các quân đoàn tự do ngày càng tăng lên , 2 tiểu đoàn sông Elbe và 1 tiểu đoàn Thüringia được thành lập từ các vùng vừa được giải phóng ngay trước trận Großgörschen . Tổng cộng khoảng 50 tiểu đoàn với khoảng 40 000 người đã được triển khai đến mặt trận trước khi chiến dịch mùa thu bắt đầu . Kỵ binh được tăng cường bằng một trung đoàn khinh kỵ Mecklenburg và 3 trung đoàn kỵ binh quốc gia tổ chức ở Đông Phổ , Pommern và Schlesien , tổng cộng 13 kỵ đội . Trong chiến dịch mùa xuân thì pháo binh có tổng cộng 45 đại đội (khẩu đội) , sau mùa hè thì được tăng cường bằng 44 đại đội tạm thời , như vậy pháo binh Phổ trên chiến trường gần như tăng gấp đôi số lượng các khẩu pháo . Công binh cũng được tăng cường sức mạnh từ 4 đại đội pháo đài và 3 đại đội dã chiến lên 6 đại đội pháo đài và 7 đại đội dã chiến .

 


Tuy nhiên đây vẫn chưa phải là tất cả bởi các tiểu đoàn Landwehr đã bắt đầu đạt trạng thái sẵn sàng chiến đấu . Trước đó vào giai đoạn mùa xuân thì vấn đề chính của Landwehr là thiếu các sĩ quan chỉ huy , do phần lớn các sĩ quan bán thời gian đã được dùng để phân vào các tiểu đoàn dự bị . May thay là theo luật thì sĩ quan Landwehr có thể được bầu chọn nên không nhất thiết phải có xuất thân quý tộc (nhưng thường thì các binh sĩ vẫn ưu tiên bầu chọn quý tộc - những người có nhiều kiến thức hơn so với thường dân) .  Vấn đề thiếu hạ sĩ quan được giải quyết bằng cách gọi các hạ sĩ quan già đã về hưu cùng các giáo viên hướng dẫn trong quá trình huấn luyện tham gia hàng ngũ . Trong khi thỏa thuận ngừng bắn đang diễn ra thì các sĩ quan chính quy cũng được gọi về để huấn luyện cho các tiểu đoàn Landwehr với mục tiêu là ít nhất các đơn vị này phải học được bài tấn công bằng khối tiểu đoàn , tuy vậy thì khi chiến dịch mùa thu bắt đầu các đơn vị Landwehr vẫn yếu về các kỹ năng bắn súng , chiến đấu ngoài đội hình và công tác hậu cần . Tính kỷ luật của Landwehr cũng là dấu chấm hỏi lớn bởi phần lớn vẫn chưa quen với các quy định của quân đội .


Do ngân sách của Vương quốc Phổ có giới hạn nên các tiểu đoàn Landwehr chỉ được cấp phát các trang bị rẻ tiền nhất ví dụ như áo Litewka xanh đậm , đội mũ kepi thay vì mũ shako , quần vải lanh , giày không có cổ chân và một túi chéo để đựng đạn . Chỉ có vài người được nhận thêm áo choàng và dụng cụ nấu nướng . Do thiếu trang bị chiến đấu nên trong đội hình chiến đấu , hàng đầu tiên được chỉ định cầm thương , chỉ sau khi thu được thêm súng điểu thương từ Pháp thì Landwehr mới bỏ hết thương . Tất nhiên là những sự thiếu sót này thay đổi tùy vào từng khu vực khác nhau , ví dụ như các đơn vị Landwehr thuộc Quân đoàn Bülow và Quân đoàn Tauentzien được trang bị khá đầy đủ và không phải hành quân một mạch dài đến mặt trận nên vẫn giữ được sức . Đối với Quân đoàn Yorck và Quân đoàn Kleist thì câu chuyện lại hoàn toàn diễn ra theo hướng ngược lại khi họ phải hành quân dọc các tuyến đường lầy lội khi chiến dịch vừa bắt đầu , thậm chí một vài trung đoàn Landwehr suýt nữa vỡ trận sau các trận giao tranh đầu tiên khi tinh thần suy sụp nghiêm trọng .




Tổng cộng 37 trung đoàn (149 tiểu đoàn) Landwehr đã sẵn sàng vào ngày 10/8 . Phần lớn các tiểu đoàn Landwehr chỉ đạt 500-700 người thay vì 726 như tiêu chuẩn . Tổng sức mạnh Landwehr đạt khoảng 100 000 người .

So với bộ binh Landwehr thì kỵ binh Landwehr có mức độ sẵn sàng chiến đấu cao hơn , chủ yếu bởi có lực lượng sĩ quan chất lượng hơn . Tuy nhiên nếu so sánh với kỵ binh chính quy thì vẫn còn một số vấn đề như chỉ dùng ngựa giống yếu hơn , kỹ năng cưỡi ngựa kém , thiếu kỷ luật như Thiếu tướng Borstell mô tả : ‘’họ không nghe theo hiệu lệnh kèn mà cứ cắm đầu một cách quả cảm vào địch , nhưng khi bị đánh bật thì chỉ khi gặp vật cản họ mới chịu dừng lại để tập hợp đội hình đội ngũ . ‘’ Phần lớn kỵ binh Landwehr được trang bị với thương - loại vũ khí lạnh dễ sử dụng nhất nhưng quá trình huấn luyện các bài võ thuật đánh thương trên lưng ngựa vẫn chưa thể thực hiện đầy đủ . 


Tổng cộng 30 trung đoàn với tổng cộng 146 kỵ đội đã được thành lập tính đến giữa tháng 8 .

Trong quá trình chiến đấu thì các đơn vị tiền tuyến chắc chắn sẽ có thương vong nên cần được bù đắp sau thời gian dài , nhiệm vụ huấn luyện tân binh ở hậu phương do đó được giao cho các đơn vị thay thế (Ersatz) . 38 tiểu đoàn bộ binh Ersatz , 3 đại đội Jäger Ersatz và 22 kỵ đội dự phòng đã được thành lập tại địa phương .  Thậm chí cả Landwehr cũng có các đơn vị dự phòng để thay thế , theo ước tính thì vào tháng 8 thì có khoảng 10 000 người thuộc Landwehr-dự bị .

 

Tổng cộng vào giữa tháng 8 năm 1813 , Vương quốc Phổ có 271 000 quân nhân thuộc các đơn vị chính quy , Landwehr và Ersatz . Tới cuối năm 1813 thì con số này sẽ nâng lên thành 300 000 quân nhân , đạt khoảng 6% dân số của toàn vương quốc (khoảng 5 triệu người) . Sức mạnh chiến đấu của các tập đoàn quân trên chiến trường đã tăng gấp đôi chỉ trong vòng 8 tuần , nếu so với tháng 1 năm 1813 thì quy mô quân đội đã tăng lên gấp 6.5 lần . Có thể thấy tốc độ vũ trang của Vương quốc Phổ vào năm 1813 là cực kỳ khủng khiếp , ngay cả Napoléon cũng không tài nào lường trước được . Đây là thành quả của cuộc cải cách quân đội từ năm 1807 .

Từ các lực lượng này , 4 quân đoàn được thành lập :
-Quân đoàn I. chỉ huy bởi Trung tướng Ludwig von Yorck , tập trung ở Schlesien
-Quân đoàn II. chỉ huy bởi Trung tướng Friedrich von Kleist , tập trung ở Schlesien
-Quân đoàn III. chỉ huy Trung tướng Friedrich von Bülow , tập trung ở Mark
-Quân đoàn IV. chỉ huy bởi Trung tướng Bogislav von Tauentzien , tập trung ở Mark

Các quân đoàn I , II , III được biên chế 4 lữ đoàn bộ binh , 3 lữ đoàn kỵ binh (bao gồm 1 lữ đoàn kỵ binh Landwehr) và 4-8 khẩu đội làm dự bị . Mỗi lữ đoàn bộ binh gồm 1 trung đoàn bộ binh chính quy , 1 trung đoàn bộ binh dự bị , 1 trung đoàn bộ binh Landwehr  , 1 trung đoàn kỵ binh và 1 khẩu đội . Riêng Quân đoàn IV. lập thành từ phần lớn là Landwehr nên được biên chế theo kiểu khác , ngoài ra thì Quân đoàn vây hãm Stettin và Quân đoàn vây hãm Küstrin cũng nằm dưới quyền Tauentzien .

Tổng sức mạnh của 4 quân đoàn , cùng với Vệ binh Hoàng gia Phổ là 161 764 người . Nếu tính thêm các lực lượng tổ chức vây hãm với 30 670 người thì tổng số các lực lượng sẵn sàng cơ động của Phổ  vào ngày 10/8 là  228.5 tiểu đoàn , 196 kỵ đội và 402 khẩu pháo .

 


Về phía Nga , nhằm đưa các đội hình chiến đấu về trạng thái ban đầu , các lực lượng thuộc nhóm gọi quân dịch vào năm 1812 gồm khoảng 70 000 người giờ đây mới xuất hiện trên chiến trường . Tất nhiên chỉ nhiêu đây thôi là chưa đủ để bù đắp lại thiệt hại trong chiến dịch mùa xuân , nhiều trung đoàn vẫn chỉ đạt sức mạnh của 1 tiểu đoàn và sức mạnh chiến đấu trung bình của một tiểu đoàn Nga là khoảng 500 người . Tuy nhiên điểm sáng là các binh sĩ của Nga xuất thân là nông dân , dù không được giáo dục đầy đủ  nhưng có sức khỏe rất tốt, ngoài ra sau khi hành quân liên tục trong suốt năm 1812 và mùa xuân năm 1813 thì đã chai lì  , không đòi hỏi vật chất nhiều và luôn tuân theo thượng lệnh . Quần áo , trang bị và vũ khí đều ở trạng thái tuyệt vời . Suốt 2 tháng ngừng bắn thì các đơn vị được phép nghỉ ngơi , duy chỉ có các đơn vị Jäger là tăng cường huấn luyện với súng trường .

Đối với kỵ binh thì dù đã được tăng cường bằng 14 000 kỵ sĩ nhưng nhiều trung đoàn vẫn chỉ có 2-3 kỵ đội thay vì 7 như tiêu chuẩn . Trung bình mỗi kỵ đội có 120 kỵ sĩ , được trang bị đầy đủ và huấn luyện tốt . Đối với các lực lượng kỵ binh phi chính quy như Cossack thì cũng được trang bị đầy đủ , nhưng không thể thực hiện các đòn tấn công phối hợp trong đội hình hay thực hiện nhiệm vụ trinh sát tốt bằng kỵ binh chính quy , dù gì đi nữa thì nhiệm vụ chính của Cossack vẫn là để đột kích các tuyến đường tiếp tế của địch .

Về pháo binh thì vẫn chưa xác định được chính xác số lượng các đại đội đến tăng cường , nhưng những đại đội với 12 pháo được mô tả trong tình trạng tuyệt vời .

 

Cũng giống với chiến dịch mùa xuân , tinh thần chiến đấu của các sĩ quan Nga không hề đồng đều mà chia thành phe chủ hòa và phe chiến đấu . Đa phần các sĩ quan già có xu hướng chủ hòa còn những sĩ quan trẻ hơn , nhất là những người gốc Đức thì muốn đánh đa phần là bởi họ muốn tận dụng cuộc chiến này để tìm kiếm vinh quang , nhận các huân huy chương và thăng tiến trong sự nghiệp  .  


Khi thỏa thuận ngừng bắn kết thúc thì lực lượng viễn chinh của Nga gồm :
-Quân đoàn bộ binh 1 chỉ huy bởi Gorchakov
-Quân đoàn bộ binh 2 chỉ huy bởi Württemberg
-Quân đoàn bộ binh 6 chỉ huy bởi Scherbatova
-Quân đoàn bộ binh 9 chỉ huy bởi Olsufieva
-Quân đoàn bộ binh 10 chỉ huy bởi Kaptsevich
-Quân đoàn bộ binh 11 chỉ huy bởi Liven
-Quân đoàn lựu binh 3 chỉ huy bởi Raevsky
-Quân đoàn cận vệ 5 chỉ huy bởi Yermolov
-Quân đoàn Wintzingerode
-Quân đoàn kỵ binh 1 chỉ huy bởi Korfa
-Quân đoàn kỵ binh Valsichikov
-Quân đoàn kỵ binh Golitsyn
-Quân đoàn kỵ binh Palena
-Cossack Tschernichev
-Cossack Voronzov
-Cossack-Landsturm Tettenborn
-Binh đoàn Nga-Đức
-Tập đoàn quân Ba Lan (Польская армия)
-Các nhóm vây hãm tại Zamosc , Modlin và Danzig

Tổng cộng 297 000 người , trong đó có 184 000 người đã vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu .


So với tuyên bố khi đàm phán ngoại giao thì Tập đoàn quân dã chiến Áo (Österreich Feldarmee) không đạt sức mạnh như đã hứa . Áo dù là một cường quốc ở châu Âu lục địa với tiềm lực quân sự mạnh nhưng họ đã liên tục triển khai một loạt các tập đoàn quân để chống Pháp trong các chiến dịch năm 1792 , 1799 , 1805 và 1809 và đều thất bại , nhất là chiến dịch năm 1809 đã bào mòn toàn bộ ngân sách của Áo .  Kể từ đó trở đi thì toàn bộ các lĩnh vực đều phải chi tiêu một cách tiết kiệm , kể cả quân đội . Điều này đã dẫn đến việc quân số vào thời bình bị cắt giảm cực kỳ nghiêm trọng , ví dụ trong các trung đoàn Đức thì mỗi đại đội chỉ có 50 người , chỉ khi tập trận thì con số này mới tăng lên 100 người .  Riêng các trung đoàn Hungary thì theo quy định một khi đã ghi danh sách vào ngũ thì không thể cho về nhà , thậm chí vào thời bình nên sức mạnh của các trung đoàn này luôn ở mức tối đa . Phần lớn Quân đoàn dự phòng Áo tham gia chiến dịch 1812 tại Nga là các trung đoàn Hungary . Vào tháng 1 năm 1813 thì lực lượng sẵn sàng cơ động của Áo chỉ có sức mạnh đạt khoảng 60 000 người .

Phải nhờ những nỗ lực không ngừng nghỉ của Chủ tịch hội đồng chiến tranh - Thống chế Bellegarde cùng Tổng tư lệnh quân đội - Công tước Schwarzenberg mà vào tháng 8 thì tổng sức mạnh của quân đội Áo mới có thể nâng lên mức  233 256 người , trong số đó 127 435 người tập hợp ở vùng núi Böhmen , 30 079 tập hợp ở biên giới Bayern , 36 557 tập hợp ở biên giới Ý , 39 185 người đồn trú ở các pháo đài Therensienstadt , Prag , Königgrätz và Josefstadt . Phần lớn các vấn đề về trang bị đều đã được giải quyết trong suốt mùa xuân và mùa hè . Nhưng có tới 2/3 lực lượng chỉ mới được gọi vào ngũ từ 3 tháng trước nên quá trình huấn luyện cùng đội ngũ sĩ quan cấp thấp bị thiếu trầm trọng , cũng giống như bộ binh Landwehr của Phổ . Toàn bộ các trang bị vũ khí đều đầy đủ duy chỉ có quân phục là chất lượng tệ , nhất là thiếu áo choàng cùng ủng , điều này sẽ gây không ít bất lợi vào cuối tháng 8 khi bắt đầu chuyển sang mùa mưa .

Vào ngày 10/8 thì Tập đoàn quân dã chiến Áo tại Böhmen được tổ chức như sau :
-2 sư đoàn hạng nhẹ
-Hữu quân gồm 5 sư đoàn bộ binh và 2 sư đoàn kỵ binh
-Tả quân gồm 2 sư đoàn bộ binh và 1 sư đoàn kỵ binh
-Dự bị gồm 2 sư đoàn bộ binh và 1 lữ đoàn kỵ binh

Tuy nhiên không hiểu vì sao quân Áo lại không tổ chức thành sư đoàn-quân đoàn như năm 1809 mà lại tổ chức nửa vời gần giống với trước năm 1806 . Về cơ bản thì việc nhóm các sư đoàn thành các cánh cũng tương đương với quân đoàn nhưng việc nhóm trên 3 sư đoàn là khá cồng kềnh .

Về độ cơ động thì các đơn vị của Áo có khả năng hành quân rất tốt , nhất là các đơn vị đã từng tham gia chiến dịch tại Nga vào năm trước . Về phần tân binh thì do lãnh thổ của Áo rất rộng lớn nên phần lớn đều phải hành quân một đoạn dài đến vùng núi Böhmen để tập hợp nên khả năng chịu đựng của họ cũng đã được rèn giũa từ đầu .

Về tinh thần chiến đấu thì thậm chí cả những trung đoàn Đức cũng không mấy hào hứng như người Phổ và họ chỉ biết được mình sắp phải chiến đấu chống lại ai chỉ vài ngày trước khi bắt đầu chiến dịch . Và khi biết được rằng mình lại phải đánh Napoléon thì chẳng còn mấy ai phấn khởi .

 


Quân đội Thụy Điển gồm 2 thành phần chính : các đơn vị Thụy Điển bản địa và các đơn vị người Đức tuyển từ Tây Pommern và Rügen . Hệ thống quân dịch của Thụy Điển có 2 kiểu : một là gọi vào ngũ trong thời gian ngắn , hai là phục vụ suốt đời nhưng đổi lại được tặng một nông trại cùng mảnh ruộng và chỉ cần có mặt tại doanh trại để huấn luyện khi có lệnh . Nhìn sơ qua thì cũng biết về khoản kỷ luật và kỹ năng chiến đấu không thể đạt được chất lượng tốt nhất .

Toàn quân được tổ chức thành 3 sư đòan cùng pháo binh dự bị . Tổng cộng quân Thụy Điển tại Đức có sức mạnh vào khoảng 29 715 người , bố trí dọc khu vực Mark-Mecklenburg-Stralsund .

 


Ngoài 4 lực lượng chính nêu trên của liên minh thì còn có các đơn vị của Anh và từ vùng Mecklenburg . Sức mạnh chiến đấu của toàn liên minh sẵn sàng cơ động trên chiến trường vào ngày 10/8 như sau :

- Phổ : 185 + 0.5 tiểu đoàn , 174 kỵ đội , 362 pháo (161 764 người)
- Nga : 212 tiểu đoàn , 228 kỵ đội , 639 pháo , 68 trung đoàn Cossack (184 123 người)
- Áo : 107 tiểu đoàn , 117 kỵ đội , 290 pháo (127 435 người)
- Thụy Điển : 39 tiểu đoàn , 32 kỵ đội , 62 pháo (23 449 người)
- Anh : 9 tiểu đoàn , 17 kỵ đội , 26 pháo (9 283 người)
- Các bang quốc Mecklenburg : 4 tiểu đoàn , 4 kỵ đội , 2 pháo (6 149 người)

Tổng cộng : 556 + 0.5 tiểu đoàn , 572 kỵ đội , 1381 pháo , 68 trung đoàn Cossack (512 203 người)

Nếu tính thêm các lực lượng vẫn đang trong quá trình tổ chức cùng các đội hình vây hãm Nga-Phổ dọc sông Oder và sông Weichsel cùng các lực lượng của Áo tại biên giới Bayern và biên giới Ý thì tổng sức mạnh của liên minh thứ sáu vào tháng 8/1813 đạt gần 860 000 người .

2.Lực lượng của Pháp cùng đồng minh

Ở đầu bên kia dọc vùng trung lập , Napoléon đã tận dụng tối đa khoảng thời gian 8 tuần để bổ sung cho các đơn vị chiến đấu của mình . Giờ đây thì phần lớn các ‘’Cohort’’ cùng ‘’tân binh’’ vào mùa xuân , sau khi đã hành quân dọc Vương quốc Sachsen và giành chiến thắng tại Lützen và Bautzen sẽ được dùng làm các đơn vị xương sườn để tổ chức lại lực lượng chiến đấu . Các tân binh được gọi vào ngũ giữa tháng 1 và tháng 4 năm đó đã được chuyển vào các đơn vị dự phòng . Theo lệnh của Hoàng Đế thì họ sẽ ở đây trong vòng 4 tuần để nhận quân trang và làm quen với điều kiện sống trong quân ngũ , sau đó hành quân đến Đức cùng với các sĩ quan chỉ huy theo từng nhóm 100 người . Trong quá trình hành quân thì họ sẽ được tăng cường tập huấn , các nhóm này sau đó sẽ được chỉ định vị trí tập trung để lập thành đại đội , từ đại đội lập thành tiểu đoàn . Trước khi đến doanh trại tại Mainz thì các đơn vị này buộc phải thuộc các bài chiến đấu theo tiểu đoàn . Chỉ khi nào nhận đủ toàn bộ trang bị thì mới lập thành trung đoàn , khi đó thì mới tiếp tục hành quân đến Sachsen . Tại Dresden thì đích thân Hoàng Đế duyệt từng trung đoàn một sau đó chuyển các trung đoàn này đến các quân đoàn .

Việc huấn luyện một cách gấp gáp trong thời gian ngắn như vậy rõ ràng là không đủ , thậm chí nếu mọi thứ đều đi đúng theo kế hoạch . Nhưng chỉ cần các binh sĩ biết cách cầm một khẩu súng và biết cách xếp thành khối tiểu đoàn thì Napoléon vẫn có thể chiến đấu với họ được . Những kỹ năng như bắn súng , chiến đấu ngoài đội hình , tiền đồn đều ở mức kém trầm trọng , thậm chí nhiều người khi đã vào trận thì mới bắt đầu được học cách nạp đạn . Nhiều đại đội gặp phải vấn đề thiếu các sĩ quan cấp thấp (1 đại úy và 1 trung úy mỗi đại đội) dù cho nhiều sĩ quan đã được rút bớt từ chiến trường Tây Ban Nha cũng như gọi các sĩ quan về hưu trở lại ngũ . Mặc dù đội ngũ sĩ quan cấp cao của Pháp có chất lượng rất tốt với nhiều kinh nghiệm chinh chiến nhưng vấn đề về sĩ quan cấp dưới sẽ dẫn đến việc nhiều đơn vị tân binh sau một đợt giao tranh thất bại sẽ hoàn toàn vỡ trận và không thể nào tập hợp được đội hình ở phía sau .

Vấn đề tiếp theo của các tân binh này là độ tuổi , hầu như ai cũng chỉ mới 19-20 tuổi , chưa đi lao động nhiều nên thể lực chưa phát triển đến mức tối đa . Quan sát sau các cuộc hành quân dài ngày tới Đức thì có rất nhiều người không thể theo nổi và bị bỏ lại phía sau . Có nhiều đơn vị sau khi hành quân tới nơi chỉ còn một nửa sức mạnh do nửa còn lại đã tụt lại ở sau , các tiểu đoàn hành quân tới Metz do đó có sức mạnh không đồng đều . Ngoài ra thì tỉ lệ tử vong vì kiệt sức cũng đạt mức báo động . Nếu so sánh với Landwehr của Phổ thì các đơn vị tân binh Pháp cũng không khá hơn là bao .


Để tăng cường khả năng cơ động thì các chỉ huy quân đoàn tiến hành ghép các trung đoàn tân binh vào cùng lữ đoàn với ít nhất một trung đoàn kinh nghiệm .


Về kỵ binh thì do phần lớn kho ngựa đều được bố trí ở Đức nên các kỵ sĩ phải hành quân vào lúc đầu . Khi tới nơi thì mới bắt đầu vội vã huấn luyện trong vài tuần ít ỏi trước khi được tung vào chiến trường . Vấn đề thiếu sót về ngựa cùng trang bị vẫn còn tồn tại kể từ chiến dịch mùa xuân .

Pháo binh là binh chủng có mức độ sẵn sàng chiến đấu cao nhất của Pháp vào năm 1813 . Khi thỏa thuận ngừng bắn vừa kết thúc thì Napoléon đã tổ chức một đội hình pháo binh dự bị rất mạnh . Số lượng các khẩu pháo trên chiến trường là 1284 khẩu pháo , tăng gấp hơn 2 lần kể từ chiến dịch mùa xuân và đã đạt mức 71% sức mạnh chiến đấu của năm 1812 .

’’Trong số 1800 khẩu pháo mang tới Nga vào năm 1812 , người Nga báo cáo chiếm được 929 khẩu và chỉ 250 số đó là hỏng . Phần còn lại ném xuống đầm lầy và hồ để tránh bị chiếm .’’ - Nafziger , Cuộc xâm lược Nga của Napoleon

 

Tinh thần chiến đấu của các pháo thủ đều ở trạng thái tuyệt vời :

’’Aster kể một câu chuyệnlạ về một khẩu đội [trong trận Dresden] nhận được lệnh sẵn sàng di chuyển vào tuyến chiến đấu. Các pháo thủ vào lúc này đều đã lấm lem bụi và quần áo lộn xộn sau cuộc hành trình dài. Ngay khi nghe lệnh, toàn bộ bắt đầu lấy bộ quân phục diễu hành ra để mặc . Những cảnh hài hước xảy ra sau đó, khi họ trong khi đang thay quần , buộc phải nhảy cóc để tránh một quả đạn pháo sắp nổ. Tất cả đều cười và vui vẻ, như thể sắp đi dự một lễ hội nào đó.’’ - Petre , Napoleon trong chiến tranh

Nhìn chung thì chất lượng của quân Pháp có xu hướng đi xuống nên các đội hình chiến đấu giờ đây dù có quy mô lớn nhưng còn tệ hơn cả lực lượng ban đầu chiến đấu trong chiến dịch mùa xuân . Lương thực là vấn đề nhức nhối nhất khi thậm chí thu gom từ Pháp hay cả Đức cũng không đủ để nuôi quân , bánh mì trộn cám thường xuyên được phân phát thay cho thịt hoặc đôi khi là nhịn đói cả ngày . Khi thỏa thuận ngừng bắn vừa kết thúc thì quân Pháp đã có tới 90 000 người nhập viện vì kiệt sức hoặc suy dinh dưỡng .  Toàn bộ các chỉ huy quân đoàn đều báo cáo tình trạng tồi tệ của lực lượng chiến đấu đến cho Napoléon , một tin tức không mấy tốt lành .

Các lực lượng chiến đấu vào mùa thu được tái tổ chức như sau :

-6 sư đoàn bố phòng tại Bayern được chia thành 2 phần : Quân đoàn XIV chỉ huy bởi Thống chế St.Cyr và Quân đoàn IX chỉ huy bởi Thống chế Augereau
-2 trong số 4 sư đoàn của Quân đoàn I cũ được điều chuyển đến Sachsen cùng một vài đơn vị của Quân đoàn VI để lập thành Quân đoàn I mới dưới quyền Vandamme
-2 sư đoàn còn lại của Quân đoàn I cũ cùng Sư đoàn Hamburg được dùng để lập thành Quân đoàn XIII dưới quyền Thống chế Davout
-Quân đoàn VIII cùng Quân đoàn kỵ binh IV lập thành từ quân Ba Lan được phép rút lui về Sachsen theo điều khoản ngừng bắn . Quân đoàn VIII được đặt dưới quyền chỉ huy của Công tước Poniatowski người Ba Lan còn Quân đoàn kỵ binh IV được đặt dưới quyền Thượng tướng Kellermann .
-Quân đoàn kỵ binh III nâng sức mạnh chiến đấu lên thành 3 sư đoàn và thêm một sư đoàn nữa đang trên đường hành quân từ Tây Ban Nha .

Các quân đoàn còn lại vẫn được biên chế như cũ . Riêng lực lượng đang bị vây hãm ở Danzig được đổi tên thành Quân đoàn X  .


Phần lớn các quân đoàn đều đã cải thiện được về mặt huấn luyện tại chỗ cũng như tính kỷ luật , nhưng điểm yếu về mặt thể lực thì vẫn còn đó . Tình trạng thiếu kỵ binh đã dần được cải thiện nhưng khả năng chiến đấu không cao , ngoại lệ là kỵ binh từ Vệ binh đế chế , kỵ binh Ba Lan cùng một vài trung đoàn cựu binh từ chiến trường Tây Ban Nha . Pháo binh được tổ chức rất mạnh và các khẩu pháo hiện trong tình trạng tốt .

 

Về tinh thần chiến đấu thì nhiều người trẻ bị gọi vào ngũ là bởi họ không trốn được , nhưng một khi họ đã tới trung đoàn của mình và được tiếp xúc với một nhóm nhỏ các cựu binh và với sức hút Hoàng Đế thì bỗng dưng họ lại trở nên cực kỳ phấn khích , điều này không có gì mới lạ bởi Napoléon đã từng nhiều lần ‘’kích thích’’ tinh thần chiến đấu các đạo quân mà ông từng chỉ huy trong quá khứ .

 


Cũng giống với chiến dịch mùa xuân thì lần này Liên bang sông Rhine và Vương quốc Ý tiếp tục cung cấp số lượng đáng kể các đơn vị chiến đấu cho Pháp . Các đơn vị tiền tuyến được nâng sức mạnh len mức tối đa , ngoài ra các đơn vị mới cũng đã hành quân đến Sachsen .

Vấn đề thiếu sót về kỵ binh được bù đắp một ít khi phần lớn các trung đoàn kỵ binh của Đức và Ý được dùng làm kỵ binh sư đoàn . Phần lớn kỵ binh Pháp và Ba Lan thì được gom lại để lập thành kỵ binh dự bị .

Như vậy vào tháng 8 thì Pháp cùng đồng minh có Vệ binh đế chế Pháp , 12 quân đoàn cùng 5 quân đoàn kỵ binh trên các chiến trường Sachsen , Schlesien , Mark và Hamburg . Ngoài ra còn có Quân đoàn trinh sát Leipzig tại thành phố Leipzig và Quân đoàn liên lạc tại Wittenberg và Magdeburg . Tổng cộng 559 + 0.25 tiểu đoàn , 394 kỵ đội và 1284 khẩu pháo (442 810 người) .

Nếu tính thêm các lực lượng đang bị vây hãm tại Danzig , Zamosc , Modlin , Stettin , Küstrin ,Glogau , Erfurt , Würzburg cùng các lực lượng đang đồn trú tại Hamburg , Bremen , Magdeburg , Wittenberg , Torgau và Dresden cùng Sư đoàn Lemoine , Quân đoàn của Augereau , Quân đoàn Bayern và Quân đoàn kỵ binh của Mihaud vẫn đang được tổ chức ở tuyến hai thì tổng cộng Pháp cùng đồng minh có tới 700 000 người trên chiến trường ở Đức .













    



Không tính tới các lực lượng đang bị vây hãm thì lực lượng của cả hai phe đều khá đồng đều . Pháp dù yếu hơn liên quân về kỵ binh nhưng lại mạnh hơn về pháo binh , chất lượng bộ binh tùy thuộc vào từng trung đoàn nhưng phần lớn bộ binh của cả hai phe đều là lực lượng non nớt kinh nghiệm vừa được gọi đến chiến trường . Ngôn ngữ chính là vấn đề lớn nhất của liên quân và cả Pháp nên các sĩ quan buộc phải giao tiếp với nhau bằng tiếng Pháp , tuy nhiên khác biệt chính là các đơn vị Ý , Tây Ban Nha , Bồ Đào Nha , Hà Lan , Đan Mạch , Ba Lan và Đức của Napoléon đều được đặt dưới quyền của các sĩ quan Pháp cũng như được huấn luyện theo chiến thuật của Pháp nên vấn đề này không quá nghiêm trọng .

Về sĩ quan thì đa phần các sĩ quan cao cấp của Pháp đều có chất lượng tốt hơn so với phần lớn các sĩ quan của liên quân , dù trung bình họ trẻ hơn 10 tuổi . Điều này là bởi các sĩ quan cao cấp của Pháp đa phần đều được thăng tiến từ hàng ngũ sau thành tích tốt trên chiến trường kể từ 20 năm về trước trong khi ở phía ngược lại chỉ có quân đội Phổ vừa cải cách mới bắt đầu áp dụng mô hình tuyển chọn mới . Hạ sĩ quan của Pháp có chất lượng rất tệ bởi tình trạng thiếu nhân lực nên buộc phải lấy từ những người mới vào ngũ .

Khác với liên quân khi các phe liên tục đặt lợi ích quốc gia của mình lên bản đồ chiến liên tục khiến kế hoạch tác chiến liên tục bị thay đổi thì ở bên kia chiến tuyến , Napoléon hoàn toàn nắm quyền chỉ huy các lực lượng của đồng minh . Yếu tố này sẽ gây cản trở đến quá trình tác chiến vào giai đoạn đầu chiến dịch của liên quân , như sẽ thấy ở phần sau .

3.Kế hoạch tác chiến

Thượng tướng von Toll , Tham mưu trưởng của Sa Hoàng trình kế hoạch chiến dịch lên bộ tư lệnh tối cao của liên quân vào ngày 9/6 . Theo đó thì toàn bộ các lực lượng tác chiến sẽ tập trung ở hai khu vực chính : Tại Mark - Schlesien và tại vùng núi Böhmen dọc sông Oder . Như vậy thì chủ lực của Pháp tại Sachsen sẽ bị đặt vào thế gọng kìm .

Sức mạnh chiến đấu tại các khu vực nêu trên theo ước tính của Toll như sau :
- Nga và Phổ : 187 000 người
- Áo : 120 000 người
- Pháp cùng đồng minh : 160 000 người

Vào ngày 26/7 khi thỏa thuận ngừng bắn vừa kết thúc thì Tập đoàn quân Nga-Phổ tại Schlesien sẽ tập trung tại doanh trại Schweidnitz . Cùng ngày hôm đó thì Tập đoàn quân dã chiến Áo sẽ hành quân từ Böhmen đến Görlitz để hội quân với Quân đoàn III. của Phổ - khi ấy vừa hành quân xuống từ Mark . Như vậy thì một lực lượng mạnh sẽ bất ngờ xuất hiện sau lưng quân Pháp . Toll dự đoán khi ấy Napoléon buộc phải rút lui về tả ngạn Elbe nhằm tránh bị bao vây tiêu diệt . Nếu dự đoán của Toll là đúng thì ngay khi thời hạn ngừng bắn vừa kết thúc thì quân Pháp sẽ rút lui về sông Elbe , khi ấy thì khoảng 70 000 quân Nga-Phổ sẽ đuổi theo đến Dresden , phần còn lại thì hội quân với quân Áo gần Böhmen . Sau khi hội quân thì một tập đoàn quân chủ lực với tổng cộng 220 000 người sẽ được dùng để đánh vào sườn phải của Napoléon bằng ngã Leitmeritz-Teplitz hoặc bọc hậu qua ngã Hof-Saarfeld . Theo tính toán của Toll thì tập đoàn quân chủ lực với quy mô lên đến 220 000 người là để dùng ưu thế vượt trội về quân số để đối đầu trực diện với Napoléon .

Trên thực tế thì ước tính về quân số của Toll là sai hoàn toàn bởi khi chiến dịch bắt đầu thì Nga-Phổ có sức mạnh tổng cộng 350 000 người tại Schlesien , có lẽ vì Phổ vũ trang quá nhanh nên Toll không thể lường trước được con số này . Tiếp theo là ông đã ước tính sức mạnh của quân Pháp tại Sachsen thấp hơn 3 lần so với thực tế nên việc dùng tập đoàn quân chủ lực để đẩy thẳng đến Saarfeld là phương án không khả thi . Tuy nhiên so với chiến dịch mùa xuân thì giờ đây có thể thấy liên quân đã bắt đầu có xu hướng tác chiến quyết liệt hơn , khi họ chủ động tấn công quân Pháp để xác lập ưu thế trên chiến trường .

Trong suốt vài ngày sau đó thì kế hoạch của Toll liên tục bị thay đổi tại Reichenberg dưới ảnh hưởng của Schwarzenberg . Phiên bản cuối cùng được đưa ra vào ngày 13/6 với phần lớn ý tưởng của Toll vẫn được giữ nguyên . Khác biệt chính nằm ở việc nhằm phục vụ lợi ích của Áo thì họ sẽ khiến Napoléon tấn công về phía Nam , giúp các lực lượng còn lại của liên quân cụ thể là Tập đoàn quân Nga-Phổ có thể tấn công quyết liệt . Tập đoàn quân dã chiến Áo khi ấy sẽ được tiếp viện bằng khoảng 25 000 quân Nga . Ngoài ra thì các lực lượng tại Hạ nguồn Elbe cùng Mark sẽ được đặt dưới quyền chỉ huy Vương Thái Tử Thụy Điển . Kế hoạch này nhanh chóng được đồng ý bởi sở chỉ huy của Schwarzenberg tại Gitschin . Tuy vậy thì bản kế hoạch chính thức cuối cùng vẫn chưa thể được đưa ra chừng nào Áo chưa gia nhập liên minh .

Để đề phòng trường hợp Áo không tham gia liên minh thì các kế hoạch dự phòng khác tiếp tục được bàn bạc ở Reichenbach . Theo Knesebeck - Phó tướng của Friedrich Wilhelm III thì ông đoán rằng Napoléon sẽ tấn công quân Áo và đánh bại họ ở Böhmen , khi ấy thì toàn bộ liên quân chứ không phải chỉ mình 25 000 quân Nga buộc phải hội quân với Áo để ngăn điều này xảy ra . Như vậy theo Knesebeck thì các lực lượng tại Mark buộc phải vòng qua Schlesien để tiếp cận Böhmen chứ không thể hành quân xuyên thẳng qua Sachsen . Tuy nhiên nếu xét về mặt chính trị thì vùng Mark cùng Hạ nguồn Elbe có ý nghĩa rất quan trọng với liên minh , nhất là với Thụy Điển , ngoài ra thì việc hành quân quãng đường dài sẽ dẫn đến sức khỏe cùng tinh thần chiến đấu của Landwehr (vốn toàn người cao tuổi) bị suy giảm nghiêm trọng . Trong trường hợp liên quân buộc chia thành 2 phần - 1/3 ở Mark còn 2/3 ở Böhmen thì cũng đồng nghĩa với việc đặt toàn bộ quyền chỉ huy và số phận của Vương quốc Phổ vào tay Thụy Điển và Áo - hai quốc gia không mấy thân thiện đối với người Phổ .  

Thế là tháng 6 kết thúc nhưng liên quân vẫn chưa thể đạt được sự thống nhất trong kế hoạch tác chiến của mình . Để giải quyết điều này thì theo yêu cầu của Bernadotte , một hội nghị sẽ được tổ chức tại Trachenberg với toàn bộ các quân vương của liên minh . Hội nghị diễn ra xuyên suốt từ ngày 10/7-12/7 với kết quả là Thỏa thuận Trachenberg đã được ký kết , nội dung của thỏa thuận như sau :

’’Nguyên tắc chính sau đây đã được quyết định : các lực lượng của liên quân sẽ luôn luôn tập trung ở bên sườn của chủ lực địch . Chính vì thế :

1. Các quân đoàn hoạt động ở hai bên sườn hoặc sau lưng địch sẽ cắt đứt đường tiếp tế của địch

2. Lực lượng chủ lực của liên quân buộc phải chọn vị trí sao cho họ có thể đối mặt với địch khi địch tiến công . Vùng Böhmen có vẻ là địa điểm phù hợp nhất . Theo nguyên tắc này thì khi thỏa thuận ngừng bắn kết thúc , tập đoàn quân hợp thành sẽ phải tập trung ở những khu vực như sau :

 Một phần của tập đoàn quân tại Schlesien (98 000 đến 100 000 người) sẽ hội quân trong thời gian sớm nhất bằng ngã đường Landshut và Gratz , quân Áo khi đó sẽ hội quân với lực lượng này bằng khoảng 200 000 - 220 000 người ở Böhmen

 

 Tập đoàn quân của Vương Thái Tử Thụy Điển , trong khi để lại một quân đoàn có sức mạnh khoảng từ 15 000 đến 20 000 người nhằm bảo vệ Lübeck và Hamburg trước Pháp và Đan Mạch , sẽ tập trung khoảng  70 000 người gần Trauenbrutzen . Ngay khi thỏa thuận ngừng bắn kết thúc thì lực lượng này sẽ vượt sông Elbe tại khu vực nằm giữa Torgau và Magdeburg , sau đó tiến thẳng đến Leipzig

 

 Phần còn lại của liên quân ở Schlesien , với khoảng 50 000 người sẽ đuổi theo chân địch đến sông Elbe . Lực lượng này phải tránh đối đầu với địch ngoại trừ trong tình huống cực kỳ lợi thế . Ngay khi đã đến sông Elbe thì lực lượng này sẽ cố gắng vượt sông tại khu vực nằm giữa Torgau và Dresden nhằm hội quân với Vương Thái Tử Thụy Điển . Khi ấy thì tổng sức mạnh của tập đoàn quân này sẽ đạt 120 000 người .  Tuy nhiên trong trường hợp cần phải tiếp viện cho liên quân ở Böhmen thì lực lượng này sẽ hành quân tới Böhmen thay vì tăng cường cho Vương Thái Tử Thụy Điển .

 

 Quân Áo sẽ tiến công qua ngã Eger hoặc Hof , hoặc qua Sachsen , Schlesien hoặc dọc sông Danube .

 Nếu Hoàng Đế Napoléon quyết định tấn công Tập đoàn quân Böhmen thì Vương Thái Tử Thụy Điển sẽ nhanh chóng tấn công sau lưng của địch . Ngược lại nếu Napoléon tấn công quân Thụy Điển thì liên quân sẽ tấn công quyết liệt về phía đường liên lạc của địch để có thể nhanh chóng tham gia trận chiến . Toàn bộ các tập đoàn quân sẽ buộc địch phải đóng trại ở điểm hợp vây .

 Dự bị quân Nga chỉ huy bởi Bennigsen sẽ tiến từ sông Vistula tới sông Oder qua ngã Kalitsch theo hướng Glogau để có thể lập tức tiến tới vị trí của địch nếu họ quyết định bám trụ ở vùng Schlesien , hoặc ngăn địch không thể tấn công Ba Lan . ‘’

 

Theo ước tính như trong thỏa thuận Trachenberg thì liên quân có tổng sức mạnh vào khoảng 370 000 - 390 000 người , thậm chí chính bản thân họ cũng không thể biết được chính xác sức mạnh của lực lượng của các đồng minh . Thay vì chia các lực lượng của liên quân thành hai phần như kế hoạch của Knesebeck thì giờ đây liên quân được chia thành ba phần , gắn liền với lợi ích không chỉ của Áo mà còn của Nga và Phổ . Ngoài ra khi trận chiến nổ ra thì các tập đoàn quân buộc phải ập đến cùng lúc để bao vây quân Pháp , với lực lượng của Schlesien được chỉ định cụ thể hơn là nếu bị tấn công thì ngay lập tức rút lui . Tập đoàn quân chủ lực tại Böhmen sẽ đóng vai trò chính trong việc đối đầu với chủ lực quân Pháp nên lực lượng này tùy vào tình huống sẽ tấn công qua Schlesien , Sachsen , Bayern hoặc dọc sông Danube . Nguyên tắc cơ bản của cả ba tập đoàn quân liên quân là nếu Napoléon đánh một thì hai tập đoàn quân còn lại sẽ đánh vào lưng vào sườn của quân Pháp .

 

Do không có đại diện của Áo trong hội nghị nên thỏa thuận được gửi đến bằng thư . Sau khi thỏa thuận được đồng ý thì Radetzky (Quân nhu trưởng của Schwarzenberg) bắt đầu lập kế hoạch tác chiến . Tuy nhiên thay vì làm đúng y như thỏa thuận thì trong kế hoạch của Radetzky , nếu bị Napoléon tấn công thì quân Áo cũng sẽ rút lui chứ không tiếp chiến ở Böhmen , làm như vậy là để tránh một trận thua và bảo toàn lực lượng trong khi chờ hai tập đoàn quân còn lại khép vào sườn của địch . Chỉ khi nào quân Pháp đã hoàn toàn bị bao vây từ ba phía thì quân Áo mới bắt đầu tấn công .

Đại tá Latour mang kế hoạch của Radetzky đến Reichenberg và các lãnh đạo liên minh buộc phải đồng ý với kế hoạch này , bởi khi ấy họ đang bị phụ thuộc vào Áo về mặt chính trị .

 


Trong suốt khoảng thời gian ngừng bắn , Napoléon biết rõ thái độ của liên minh và đoán rằng mình sẽ đối đầu với quân Áo ngay khi chiến dịch vừa bắt đầu . Sườn phải của quân Pháp tại Sachsen khi ấy sẽ được bảo vệ bởi Quân đoàn trinh sát Bayern tại Inn , còn sườn trái thì được bảo vệ bởi Quân đoàn XIII của Davout gần Hamburg . Với các pháo đài dọc sông Weichsels , sông Oder và sông Elbe vẫn đang giữ vững , cũng như việc các đạo quân của địch đang phân tán ở nhiều hướng nên Napoléon đánh giá rằng vị trí của mình thuận lợi hơn so với liên quân . Bằng cách chiếm lĩnh vị trí trung tâm của cánh cung thì ông có thể cơ động tới chiến trường nhanh hơn với đối phương , từ đó tiêu diệt từng phần một của địch .

Đây là tình huống của Vương quốc Phổ trong chiến tranh bảy năm 1756-1763 khi bị bao vây từ ba phía , nhưng bằng cách thần kỳ nào đó Friedrich Đại Đế liên tục đánh bại từng đạo quân một và cứu sống vương quốc của mình .

Nếu Napoléon tấn công thì ông buộc phải tập trung lực lượng trước tiên , sau đó là chọn một trong ba tập đoàn quân của địch để đánh . Tập đoàn quân dã chiến Áo là mục tiêu dễ nhất bởi lực lượng này vẫn đang trong quá trình chuẩn bị , ngoài ra thì nếu Tập đoàn quân Nga-Phổ hành quân tới Böhmen để ứng cứu thì họ cũng sẽ phải rời khỏi căn cứ tiếp tế để đi một chặng dài trước khi có mặt tại chiến trường . Ngoài ra thì nếu tiến đến Böhmen thì Napoléon cũng sẽ đưa chủ lực của mình hoạt động gần hơn với quân Đức dưới quyền Augereau ở Bayern và quân Ý dưới quyền Eugène .

Tuy nhiên nếu quân Áo rút lui chứ không chịu tiếp chiến thì kế hoạch này sẽ thất bại bởi quân Pháp sẽ không thể truy đuổi quá xa bởi các đoàn vận tải - vào lúc này đang bị tắc đường tại sông Elbe sẽ không thể nào theo kịp được .

Lựa chọn tấn công Tập đoàn quân Nga-Phổ cũng không khả dĩ bởi vấn đề tiếp tế nêu trên , cũng như nguy cơ hai tập đoàn quân của liên quân tại hai cánh sẽ cắt đường rút lui của quân Pháp .

 

Như vậy lựa chọn còn lại là tấn công vào vùng Mark nhằm dời khu vực tác chiến chính về Hạ Đức cũng như kiểm soát Berlin nhằm bóp nát tinh thần chiến đấu của người Phổ .  Khi ấy thì ông có thể giải vây các pháo đài trên sông Oder cũng như dập tắt hoàn toàn các âm mưu nổi dậy ở khu vực hạ nguồn Elbe . Tuy nhiên việc kiểm soát Berlin sẽ không phải là mục tiêu cuối cùng , bởi thủ đô chỉ mang ý nghĩa tinh thần chứ không đủ để gây thiệt hại lên cỗ máy chiến tranh của toàn bộ một quốc gia .

Ví dụ vào giai đoạn ngừng bắn thì tỉnh Kurmark (bao gồm Berlin) chỉ thành lập mới 26 tiểu đoàn và 28 kỵ đội hay khoảng 20 560 người so với khoảng 50 000 người từ tỉnh Schlesien hay khoảng 35 000 người từ các tỉnh phía Đông của Công quốc Phổ  .

Ngoài ra thì ta có thể dễ dàng nhận ra điều này như Wien trong các chiến dịch năm 1805 , năm 1809 , như Berlin trong chiến dịch năm 1806-1807 và như Moskva trong chiến dịch năm 1812 , dù chiếm được thủ đô nhưng chỉ khi Napoléon tiêu diệt được tập đoàn quân chủ lực của địch trên chiến trường thì họ mới đồng ý đàm phán .

’’4.Mục tiêu là nhằm dập tắt sức kháng cự của địch.’’   - Clausewitz , Vom Kriege

Như vậy nếu muốn đánh theo hướng Bắc thì Napoléon buộc phải đẩy lùi quân Thụy Điển về hữu ngạn sông Oder . Khi ấy thì Tập đoàn quân Nga-Phổ có thể sẽ buộc phải hành quân đến Danzig để bảo vệ Đông Phổ , hoặc tập trung với Tập đoàn quân dã chiến Áo để đánh phá các căn cứ tại Sachsen của quân Pháp .

Vấn đề tiếp theo là dù cho có đánh bại được một tập đoàn quân của địch đi chăng nữa thì Napoléon không thể nào tận dụng tối đa thành công của mình bởi khác với các chiến dịch trước thì giờ đây ông phải đối mặt với tình huống phải liên tục quay đầu để giải quyết 2 tập đoàn quân còn lại . Theo tính toán của Hoàng Đế thì Tập đoàn quân Nga-Phổ có sức mạnh vào khoảng 200 000 người còn quân Áo tại Böhmen có sức mạnh khoảng 100 000 người . Nếu ông địch lại hai lực lượng này bằng 300 000 người thì ông vẫn còn dư 120 000 nên lực lượng này có thể được dùng để đánh theo hướng còn lại nhằm giải quyết vấn đề này . Theo tính toán của mình thì chủ lực sẽ tấn công theo hướng Schlesien hoặc Böhmen tùy vào tình hình còn lực lượng phụ sẽ tấn công quân Thụy Điển ở hướng Bắc .

Theo các lá thư của Hoàng Đế vào ngày 12-13/8 thì quân Pháp sẽ tập trung tới các vị trí như sau :
- Quân đoàn XI : Pirna-Königstein
- Quân đoàn kỵ binh III. (một phần) : Pirna-Königstein
- Quân đoàn I : Bautzen
- Vệ binh đế chế : giữa Görlitz và Zittau
- Quân đoàn kỵ binh I : biên giới Böhmen
- Quân đoàn II : biên giới Böhmen
- Quân đoàn kỵ binh III. (phần còn lại) : biên giới Böhmen
- Quân đoàn III : tuyến Hainau-Goldenberg
- Quân đoàn V : tuyến Hainau-Goldenberg
- Quân đoàn kỵ binh II : tuyến Hainau-Goldenberg
- Quân đoàn XII : Bunzlau-Löwenberg
- Quân đoàn VI : Bunzlau-Löwenberg

Sau khi tập trung ở các khu vực nêu trên thì sẽ hình thành 3 nhóm quân chính . Chủ lực nằm ở giữa sông Oder và sông Elbe quanh Görlitz , xoay mặt về hướng Đông và hướng Nam với tổng cộng 8 quân đoàn và 3 quân đoàn kỵ binh . Tại Görlitz là dự bị gồm Vệ binh đế chế và 1 quân đoàn kỵ binh .

Nếu Tập đoàn quân Nga-Phổ tiến thẳng tới Dresden từ Schlesien thì họ sẽ phải đối mặt với 4 quân đoàn trên sông Bober với khoảng 130 000 người . Nếu trận chiến nổ ra thì Quân đoàn II và Quân đoàn VIII sẽ nhanh chóng ập tới chiến trường , nâng tổng sức mạnh của quân Pháp lên thành 238 0000 người . Nếu quân Áo tiến thẳng về phía Dresden qua ngã Peterswalde thì sẽ chạm trán với Quân đoàn XIV tại Pirna , nếu trận chiến nổ ra thì Quân đoàn I cùng Quân đoàn kỵ binh III (một nửa) và Quân đoàn kỵ binh IV sẽ ập đến trong vòng 1 ngày . Nếu quân Áo tiến công theo hướng Zittau thì sẽ chạm trán với Quân đoàn VIII , nếu trận chiến nổ ra thì Quân đoàn II cùng Vệ binh đế chế sẽ ập đến chiến trường . Nếu Nga , Phổ và Áo tấn công cùng một lúc thì một hướng sẽ cố gắng kìm chân địch trong khi Hoàng Đế sẽ đánh bại đạo quân ở hướng còn lại . Trong trường hợp quân Áo hành quân qua ngã Josephstadt để hội quân với Tập đoàn quân Nga-Phổ tại Schlesien thì Hoàng Đế sẽ tập hợp lực lượng tại Bunzlau để chuẩn bị đánh một trận quyết định tại đây .

Ở Bắc Đức , Tập đoàn quân Berlin được thành lập bao gồm Quân đoàn IV ,  Quân đoàn VII  , Quân đoàn XII và Quân đoàn kỵ binh III (nửa còn lại) , đặt dưới quyền Thống chế Oudinot . Với tổng cộng 70 000 người , lực lượng này tập trung tại Baruth vào ngày 16/8 sau đó bắt đầu tiến thẳng đến Berlin . Quân đoàn Girard gồm 2 sư đoàn tại Magdeburg và Wittenberg có nhiệm vụ thiết lập đường liên lạc giữa Tập đoàn quân Berlin với nhóm quân của Davout ở hạ nguồn Elbe . Bản thân Davout có nhiệm vụ tiến công theo hướng Đông Bắc nhằm đe dọa đường rút của quân Thụy Điển . Do khoảng cách giữa 3 cụm tập đoàn quân trên chiến trường của Pháp quá lớn nên các hoạt động tác chiến của cả 3 chỉ mang tính tương hỗ về mặt chiến lược chứ không thể hỗ trợ nhau về mặt chiến dịch-chiến thuật .





4.Khai cuộc


Khi thỏa thuận ngừng bắn kết thúc vào ngày 10/8 , Tập đoàn quân dã chiến Áo với Sư đoàn khinh binh 2 của Bubna tập trung tại tuyến Schluckenau-Georgenthal-Gabel-Friedland , đứng thành hình vòng cung bao quanh vùng Thượng Lausitz . Đằng sau Bubna , nằm trên đường Zittau-Prag là tiền quân , chủ lực quân Áo ở các doanh trại Hirschberg-Hübnerwasser-Hohlan , dự bị Klenau ở Pilsen . Lực lượng này ban đầu ở trạng thái phòng ngự trước đòn tấn công của Napoléon từ sông Laufiß , nhưng khi không nhận thấy quân Pháp có bất cứ động tĩnh nào thì họ tiến hành đi qua tả ngạn Elbe như kế hoạch Trachenberg . Các đơn vị từ Tập đoàn quân Nga-Phổ , cụ thể là Quân đoàn Wittgenstein , Quân đoàn II và Vệ binh đế chế Nga hành quân tới khu vực giữa Budin và Marschau hội quân với Tập đoàn quân dã chiến Áo , riêng Sư đoàn khinh binh 2 ở lại hữu ngạn Elbe .

Toàn bộ lực lượng của liên minh tập trung tại vùng núi Böhmen được gọi là Tập đoàn quân Böhmen (Böhmischen Armee/Armée de Bohême) , gồm : 127 500 quân Áo , 82 000 quân Nga và 45 000 quân Phổ . Tổng cộng 255 000 người , bao gồm 42 000 kỵ binh và 692 khẩu pháo . Giờ đây thì chúng ta có một tập đoàn quân (Tập đoàn quân chủ lực của Nga) nằm bên trong một tập đoàn quân (Tập đoàn quân Nga-Phổ) và nằm bên trong một tập đoàn quân khác (Tập đoàn quân Böhmen) . Về bản chất thì Tập đoàn quân Böhmen thực chất là một cụm tập đoàn quân

Theo yêu cầu của phía Áo thì chỉ huy Tập đoàn quân Böhmen sẽ là một sĩ quan Áo , phía Nga và Phổ cũng không từ chối bởi trong hàng ngũ của họ không có một sĩ quan nào có quân hàm tương ứng với một đạo quân hơn 200 000 người . Thống chế Schwarzenberg là người được Hoàng Đế Franz lựa chọn .

Schwarzenberg khi ấy 42 tuổi , đang ở đỉnh cao sự nghiệp của mình . Ông gia nhập quân đội Áo năm 16 tuổi với quân hàm trung úy , kể từ năm 1789 đổ về sau thì Schwarzenberg đã tham gia mọi cuộc chiến của Áo . Vào năm 1812 Schwarzenberg chỉ huy Quân đoàn dự phòng Áo trong chiến dịch tại Nga và được lòng Napoléon , chính nhờ đề xuất của Napoléon mà Franz mới thăng ông thành Thống chế .


Mặc dù có nhiều kinh nghiệm chinh chiến , nhưng vai trò mà Schwarzenberg rất đảm nhận sẽ có nhiều cản trở đối với công việc của ông . Đầu tiên là ông phải làm việc với 3 vị quân vương , nên ông phải phục vụ cho lợi ích chính trị của cả Áo , Nga và Phổ . Hoàng Đế Franz cho phép Schwarzenberg tự do hành động , nhưng ngoại lệ là nếu dùng quân Áo thì ông phải xin phép  thông qua phó tướng của mình - Thống chế Duka , điều này không mấy tốt đẹp gì khi Duka xem Radetzky là đối thủ của mình và ông thường hay can thiệp vào chiến dịch dưới danh nghĩa Hoàng Đế . Việc chỉ huy các lực lượng Nga-Phổ càng khó khăn hơn nữa khi Schwarzenberg phải thông qua Barclay và bản thân Barclay lại phải xin phép Sa Hoàng trước khi kế hoạch được đưa vào thực hiện . Tiếp theo là ông phải khéo léo trong việc cân bằng những mối hiềm khích , sự ganh tị cá nhân giữa các sĩ quan từ nhiều hàng ngũ khác nhau . Cuối cùng là việc ông vừa là tư lệnh Tập đoàn quân dã chiến Áo , vừa là  tư lệnh Tập đoàn quân Böhmen và vừa là tư lệnh phối hợp của các lực lượng liên minh tại Đức mà chỉ có đúng một ban quân nhu của Tập đoàn quân dã chiến Áo) để hỗ trợ . Ông chỉ có duy nhất một mình Quân nhu trưởng Radetzky để làm hết toàn bộ các công việc được giao .

Phần còn lại của Tập đoàn quân Nga-Phổ tại vùng Schlesien gồm Quân đoàn I , Quân đoàn bộ binh 6 , Quân đoàn bộ binh 9 , Quân đoàn bộ binh 10 , Quân đoàn kỵ binh Vasilchikov và Quân đoàn kỵ binh 1 lập thành Tập đoàn quân Schlesien (Schlesische Armee) , đặt dưới quyền chỉ huy của Blücher . Dù Blücher trên danh nghĩa được đặt dưới quyền của Barclay , nhưng trên thực tế thì Barclay chỉ can thiệp với các quân đoàn của Nga , còn lại thì ông để cho các đơn vị của Phổ tự do hành động . Điều này sẽ dẫn tới một số vấn đề trong việc phối hợp tác chiến giữa các đội hình thuộc Tập đoàn quân Schlesien , như sẽ thâ trong chiến dịch sắp tới .

Việc các quân đoàn của Phổ bị tách khỏi nhau và biên chế dàn đều cho các đạo quân của liên minh dường như là một bất lợi , nhưng Gneissenau đã tận dụng điều này để biến thành lợi thế cho mình . Không những toàn bộ các quân đoàn của Phổ đều có ít nhất một sĩ quan tham mưu và thậm chí một vài đội hình của Nga cũng mượn các sĩ quan tham mưu của Phổ , ví dụ như Cụm quân đoàn Wallmoden có Clausewitz.  Toàn bộ các sĩ quan này đều báo cáo trực tiếp với Gneissenau và điều này sẽ giúp ông nhanh chóng hiểu rõ tình hình và ý đồ của 2 tập đoàn quân còn lại chứ không cần phải thông qua kênh thông tin từ Schwarzenberg hay Quốc Vương . Gneissenau đưa ra chỉ thị cho các sĩ quan tham mưu nhằm liên tục cố vấn các chỉ huy của mình luôn luôn tác chiến phối hợp với Tập đoàn quân Schlesien , nếu có thể . Dưới thời của Scharnhorst thì toàn bộ các sĩ quan tham mưu đều đã được huấn luyện trực tiếp bởi tham mưu trưởng , vì thế khi đối diện với cùng một tình huống thì họ đều suy nghĩ và hành động y hệt nhau (và y hệt tham mưu trưởng) . Ngoại lệ là trong số các sĩ quan tham mưu có Grolman và Boyen , hai thành viên quan trọng của Hội đồng cải tổ quân sự . Trong trường hợp các sĩ quan này không hài lòng với chỉ huy của mình hay nếu có bất cứ vấn đề nào phát sinh thì họ sẽ phản ánh trực tiếp với Gneissenau .

 






Những khó khăn trong việc cân bằng giữa lợi ích của các bên của liên minh tiếp tục được thể hiện trong cuộc họp tại Melnik vào ngày 17/8 . Do không rõ ý đồ và sức mạnh của Napoléon nên một vài tướng lĩnh tin rằng ông sẽ tấn công Tập đoàn quân Böhmen nên cần phải chiếm lĩnh vị trí phòng ngự ở phía Đông sông Elbe gần Mückenhahn , một vài người thì cho rằng Hoàng Đế Pháp sẽ đánh vào Mark để tấn công quân Thụy Điển . Trong cả hai trường hợp thì kế hoạch Trachenberg vẫn phải được áp dụng nghiêm ngặt bằng cách đánh vào đường tiếp tế của quân Pháp . Cho rằng Napoléon sắp đánh quân Thụy Điển thì Tập đoàn quân Böhmen , lúc này đang trong quá trình tập hợp lực lượng cũng sẽ phải đợi tới ngày 21 thì mới bắt đầu tấn công được . Riêng Schwarzenberg thì có ý kiến khác ,  nhận định của Schwarzenberg là có thể Napoleon đã rút lui về tả ngạn sông Elster nhằm tránh bị lộ sườn . Tùy thuộc vào việc sẽ chạm trán với địch tại Chemnitz hoặc tại Freiberg thì Tập đoàn quân Böhmen sẽ tập hợp tại Sayda hoặc Marienberg để chuẩn bị cho trận đánh quyết định . Trong trường hợp Napoléon tấn công ngay trước khi liên quân kịp xuống núi thì họ sẽ rút lui về vùng núi Böhmen để tổ chức phòng ngự . Blücher và Bernadotte khi ấy sẽ đánh vào lưng của địch

Sau khi mọi thứ đã chuẩn bị hoàn tất vào ngày 20/8 thì Tập đoàn quân Böhmen bắt đầu di chuyển thành 4 đội hình đến dãy núi Ergebirges . Tới sáng sớm ngày 21/8 thì tới nơi nhưng toàn quân đã kiệt sức nên không thể tiếp tục hành quân . Tuy nhiên cùng ngày hôm đó thì có tin tức từ Blücher rằng Tập đoàn quân Schlesien đã vượt qua sông Katzbach mà không hề chạm trán với địch , đồng nghĩa với việc Napoléon đã rút lui khỏi hữu ngạn Oder và có thể là ông cũng sẽ bỏ hữu ngạn Elbe . Theo đó thì vị trí tập trung quân số của Tập đoàn quân Böhmen vào ngày 22/8 được chỉ định như sau : Pirna , Sayda và Marienberg . Mặc dù vào ngày 21/8 xảy ra tình trạng thiếu quân lương do tiếp tế cùng mưa lớn nhưng hầu hết các đơn vị đều đã hành quân tới địa điểm được chỉ định . Trong quá trình hành quân thì 3 đội hình bên sườn trái đã chạm trán với các tiền đồn kỵ binh của Pháp , riêng đội hình của Wittgenstein buộc phải đối đầu với một phần lực lượng của Quân đoàn XIV tại khu vực Müglitzbach .

Vào ngày 22/8 , sau khi lấy được thông tin từ tù binh Quân đoàn XIV thì liên minh biết rằng ở hướng Leipzig sẽ không có địch và tại Dresden chỉ có mỗi một mình Quân đoàn XIV của St.Cyr , còn Napoléon vẫn đang ở tận Lausitz . Vào đêm 22-23/8 thì một vài kỵ đội Westfalen đã đào ngũ sang phe liên minh và chỉ điểm rằng chủ lực của Pháp đang được bố trí tại Lausitz và Schlesien . Tin tức : ''Hoàng Đế đang ở rất xa tại Schlesien'' chính là cơ hội để giành lấy Dresden của liên minh . Thế là một cuộc họp mới lại được tổ chức tại Zöblitz tại HQ của Alexander I , kết luận của cuộc họp này là hủy bỏ kế hoạch tấn công theo hướng Leipzig , thay vào đó thì Tập đoàn quân Böhmen sẽ tiến công Dresden qua các ngã Frauenstein và Dippolddiswalde .

Thế là quá trình chuyển hướng được thực hiện vào ngày 23/8 khi 3 đội hình bên sườn trái lần lượt di chuyển tới Altenburg , Rechenberg và Sayda . Việc thay đổi hướng hành quân đã buộc Tập đoàn quân Böhmen phải băng qua các thung lũng chạy dọc hạ Böhmen . Giả như tiếp tục hành quân theo hướng Leipzig thì sẽ thoải mái hơn bởi phía trước là vùng đồng bằng Sachsen . Vì thế nên việc xoay đội hình chiến đấu sang phải đã bào mòn thêm một phần sức lực của ngựa và các binh sĩ .

Vị trí của Tập đoàn quân sông Böhmen vào tối ngày 24/8 :
- Tiền quân : Maxen-Rabenau-Tharandt
- Cụm quân đoàn Wittgenstein : Torna-Prohlis-Zehista
- Cụm quân đoàn Klenau : Freiberg
- Chủ lực : Rheinholdshain-Dippoldiswalde

Vào ngày 25/8 thì Schwarzenberg tiến hành đẩy Tập đoàn quân Böhmen tiếp cận thủ đô Vương quốc Sachsen để chuẩn bị cho trận chiến lớn :
- Các đơn vị Nga dưới quyền Wittgenstein với tiền quân tại Blasewitzer Tännigt-Gruhna , chủ lực tại Seidnitz , Quân đoàn bộ binh 2 đối diện Königstein .
-Quân đoàn II. của Phổ tại Leubnitz với dự bị kỵ binh và dự bị pháo binh đặt tại Maren
-Sư đoàn bộ binh Colloredo tại Räcknitz
-Sư đoàn bộ binh Chasteler tại Plauen
-Sư đoàn bộ binh Meszko tại Löbtau
-Cụm quân đoàn Klenau tại Freiberg
-Phần còn lại của Tập đoàn quân dã chiến Áo tại Dippoldiswalde-Wendisch-Karsdorf
 
Sau khi không còn nguy cơ sắp bị Napoléon tấn công thì dự bị Tập đoàn quân Nga-Phổ (Quân đoàn lựu binh 3 , Quân đoàn cận vệ 5 , Quân đoàn kỵ binh) được chia thành 2 phần : 1 phần hành quân tới Kulm , 1 phần ở lại Dippoldiswalde .

Tổng cộng vào chiều ngày 25/8 có khoảng 80 000 quân đứng trước cổng thành Dresden . 


5.Dresden

Trước đó vào ngày 15/8 , Napoléon đã rời khỏi Dresden để cưỡi ngựa tới Bautzen . Phần lớn các quân đoàn của Pháp khi ấy đã tiến vào vị trí của mình đúng như mệnh lệnh vào ngày 13/8 . Napoléon không hề biết gì về ý định của liên minh bởi lực lượng kỵ binh quá yếu của mình nên ông chỉ có thể dựa vào tin tức từ các chỉ huy quân đoàn . Vào ngày 16/8 thì có tin từ Macdonald báo rằng một quân đoàn Nga với quy mô 40 000 người đang hành quân từ Schlesien tới Böhmen , ngay lập tức Hoàng Đế Pháp lệnh cho Quân đoàn III , Quân đoàn XI , Quân đoàn V , Quân đoàn VI và Quân đoàn kỵ binh II khép sát lại gần nhau hơn , đồng thời bố phòng mọi tuyến đường dẫn từ Schlesien tới Böhmen để tránh bị bất ngờ .

Để lấy thêm thông tin thì vào ngày 18-19/8 thì ông cho Quân đoàn kỵ binh IV. thâm nhập vào vùng Böhmen và bất ngờ đánh vào doanh trại của Sư đoàn Bubna tại Gabel . Theo lời khai của tù binh cùng cư dân địa phương thì đúng là khoảng 40 000 quân Nga-Phổ đã hành quân tới đây từ Schlesien để hội quân với quân Áo , lúc ấy đang vượt sông Elbe . Như vậy thì Napoléon đã rõ về ý định của liên minh , nhưng thứ ông biết không chính xác đó là về quy mô của các lực lượng liên minh bởi đúng ra là có tới 125 000 quân Nga và quân Phổ chứ không phải là 40 000 .

Đánh giá tình hình hiện tại việc quân Pháp đánh vào vùng Böhmen rất khó để nhử Schwarzenberg quay trở lại hữu ngạn Elbe mà để đạo quân này của liên minh hành quân tới Dresden thì phải tốn thêm vài ngày nữa nên Napoléon sẽ có vài ngày rảnh tay ở Schlesien . Cùng lúc ấy thì Tập đoàn quân Schlesien của Blücher vừa mới tấn công đẩy lui Tập đoàn quân sông Bober cùng Quân đoàn III của Ney vào ngày 14/8 , do đó ưu tiên trước mắt của Napoléon là đánh bại Tập đoàn quân Schlesien trước khi nghĩ tới trận chiến với quân Áo tại Zittau hoặc Dresden .

Sau khi Quân đoàn III rút lui về Bunzlau thì Ney nhận được lệnh từ Hoàng Đế nhằm dừng lại để chuẩn bị đánh trận . Toàn bộ Vệ binh đế chế cùng Quân đoàn kỵ binh I nhận lệnh hành quân tới Lauban vào ngày 20 . Quân đoàn III , Quân đoàn V, Quân đoàn VI và Quân đoàn XI nhận lệnh sẵn sàng vượt sông Bober vào ngày 21 . Sau khi vượt sông thì Ney cùng với Quân đoàn kỵ binh II sẽ đánh vào sườn phải của địch tại Löwenberg . Ý định của Napoléon là chờ cho Ney đánh vào sườn của địch trước khi tung 3 quân đoàn còn lại đánh vào mặt chính diện tương tự như trong trận Bautzen . Hẳn là giờ đây các chỉ huy quân đoàn phải nhớ được bài học cũ từ trận chiến mùa xuân .

''Sắp có trận đánh lớn rồi''  - Napoléon viết cho Công tước Bassano

Tưởng chừng như 180 000 quân Pháp đối đầu với 100 000 quân Nga-Phổ dưới quyền Blücher là đảm bảo trận thắng sẽ nằm gọn trong tay mình tuy nhiên bất ngờ đến vào rạng sáng ngày 21 .

Trước đó ở bên kia chiến tuyến từ Löwenberg , Blücher đã quan sát thấy sự hiện diện của Vệ binh đế chế Pháp cùng tiếng hô vang : ''Vive l'Empereur! '' . Biết rằng Napoléon đã có mặt ở bên kia sông Bober , Blücher lập tức làm đúng theo kế hoạch Trachenberg - không tiếp chiến với Hoàng Đế Pháp mà ngay lập tức rút lui . Rạng sáng ngày 21/8 , Tập đoàn quân Schlesien bắt đầu rút lui về Schnelle Dike dưới sự che chắn của Cụm quân đoàn Osten-Sacken .

Thế là chẳng có một trận chiến lớn trên sông Bober như Napoléon hi vọng và kế hoạch tấn công vào vùng Schlesien của ông xem như thất bại . Vào ngày 22/8 Napoléon buộc phải hành quân cùng với Vệ binh về Lausitz . Cùng ngày hôm đó thì có tin tức từ St.Cyr báo rằng chủ lực liên minh cùng với cả 3 vị Quân Vương đang tổ chức tấn công thành phố Dresden . Sau khi nghe tin này , Napoléon lập tức lệnh cho toàn bộ các đơn vị có sẵn hành quân hết lực về Lausitz . Thống chế Macdonald được chỉ định thay thế Ney làm tư lệnh Tập đoàn quân sông Bober (gồm Quân đoàn III , Quân đoàn V , Quân đoàn XI và Quân đoàn kỵ binh IV) với nhiệm vụ canh chừng Blücher tại Bunzlau .

Ban đầu thì Hoàng Đế chưa biết rằng nên tấn công theo ngã Zittau-Prag hay đánh vào Böhmen , nhưng khi có tin xác nhận vào ngày 23 rằng liên minh đã tràn vào Sachsen thì tình hình mới trở nên rõ ràng hơn . Vệ binh Đế Chế , Quân đoàn VI và Quân đoàn kỵ binh I cùng Hoàng Đế thì hành quân tới Görlitz vào ngày 25 . Thế là Napoléon lại hài lòng với tình huống như này , nếu địch không chịu tiếp chiến với ông tại Schlesien thì có lẽ họ sẽ tiếp chiến với ông tại Dresden . Một kế hoạch mới được vẽ ra trong đầu của Hoàng Đế :

Tại Dresden có hai cây cầu tại Königstein đã được xây vào giai đoạn ngừng bắn và đang được giữ bởi quân đoàn của St.Cyr .  Cho rằng Quân đoàn I của Vandamme sẽ tới cứu viện St.Cyr đúng như chỉ thị của mình thì lực lượng này  với tổng cộng khoảng 60 000 người sẽ giữ vững được vị trí này trong suốt vài ngày mà không có hỗ trợ . Phần còn lại của quân Pháp thì ông không cho hành quân thẳng tới Dresden mà thay vào đó vòng qua Königstein-Pirna và bất ngờ ập vào sườn , vào sau lưng của địch (lại thêm một đòn Manuevre sur les derrieres nữa) . Trong trường hợp liên minh nhận ra đòn đánh này và tiến hành rút lui thì họ sẽ buộc phải rút qua ngã Komotau bởi tuyến đường tiếp tế ngắn nhất dẫn về Böhmen (Pirna-Teplik) đã bị chặn lại , thậm chí cả tuyến đường rút về Dippoldiswalde cũng sẽ bị đe dọa . Như vậy thì quân Pháp sẽ có thể hành quân đến Böhmen sớm hơn so với liên minh và phá hủy các căn cứ tiếp tế tại đây . Trong trường hợp đòn đánh này thất bại thì Napoléon cũng có thể rút lui an toàn về hữu ngạn Elbe qua Königstein .

Để thực hiện chỉ thị của Napoléon , Quân đoàn kỵ binh I , Vệ Binh Đế Chế và Quân đoàn VI với tổng cộng khoảng 80 000 người sẽ phải hành quân hơn 240km trong vòng 3 ngày , với Quân đoàn II gia nhập giữa đường từ Bautzen . Toàn bộ mũi bọc sườn tập trung tại Stolpen vào ngày 25/8 với tổng cộng 120 000 người còn mũi chính diện của Vandamme với khoảng 40 000 người thì bố trí quanh Königstein .

Tuy nhiên sự thành công của kế hoạch này phụ thuộc vào việc Dresden có thể trụ vững thêm vài ngày tới không bởi vì vào tối 25/8 thì Napoléon đã nhận được tin từ Dresden rằng chủ lực của liên minh đang tập trung ngoài cổng thành và ''Chúng tôi chỉ đang mong chờ Hoàng Đế . Nếu liên minh tấn công vào ngày mai thì họ sẽ chiếm được thành phố. Thật may thay bởi đội hình của họ đã dừng lại , có vẻ như là đang đợi đội hình cánh trái tiến tới chiến trường rồi mới bắt đầu tấn công . ''

Tin tức này đã khiến Napoléon không còn cách nào khác buộc phải hủy bỏ đòn bọc sườn qua Königstein và thay vào đó hành quân thẳng tới Dresden để cứu St.Cyr . Thay vào đó thì ông lệnh cho Quân đoàn I nhanh chóng vượt qua sông Elbe vào ngày 26 , sau đó tiến công tới Hellersdorf-Berggießhübel để đe dọa sườn phải của liên minh .

''Ý định của ta là tung đòn này với toàn bộ tập đoàn quân của mình , nhưng tình thế tại Dresden không cho phép ta làm điều đó , ta không muốn bỏ thành phố này . Ta chỉ còn vài giờ nữa để rời khỏi đây . Vandamme đủ mạnh để thực hiện đòn đánh này và có thể gây thiệt hại nặng cho địch . Đây là cơ hội tuyệt vời để ông ấy được nhận cây baton thống chế.''

Câu hỏi được đặt ra vào lúc này là vì sao Napoléon - một người rất hay đặt cược , lần này lại không chấp nhận mạo hiểm tung đọc bọc sườn địch bằng cả tập đoàn quân của mình ? Bởi vì thậm chí dù liên minh có chiếm được thành phố Dresden bên tả ngạn Elbe đi nữa thì Victor vẫn có thể cầm cự ở Neustadt - phần thành phố nằm bên hữu ngạn sông . Để giải thích cho quyết định này thì có các lí do khả dĩ như sau :
a) Về lí do quân sự
- Chất lượng các tân binh của Pháp quá kém nên không đảm bảo để thực hiện hiện đòn đánh này thành công . Để thực hiện đòn đánh này thì cần phải hành quân một quãng rất dài , sau khi vượt sông tại khu vực Pirna-Königstein thì phải chiến đấu ở địa hình bất lợi .
- Napoléon lo lắng rằng St.Cyr không đủ ''liều'' để cầm cự đủ lâu tại Dresden trước lực lượng vượt trội nếu không có sự hiện diện của chính ông .
- Bằng cách hành quân thẳng tới Dresden thì ông có thể kéo liên minh vào trận đánh còn nếu tung đòn bọc sườn thì khả năng cao là họ sẽ rút lui giống như Blücher .

b) Về lí do chính trị
- Dù cho St.Cyr có cầm cự được ở Neustadt thì việc để mất thủ đô Dresden sẽ khiến các chư hầu của Pháp thuộc Liên bang sông Rhine suy nghĩ lại về việc liệu Napoléon có đủ khả năng để bảo vệ mình hay không .

Đội hình tiếp viện xuất phát sớm hơn dự kiến vào những giờ đầu tiên của ngày 26 , khi mặt trời mọc thì khoảng 26 tiểu đoàn cùng phần lớn kỵ binh đã có mặt tại Dresden . Tới chiều thì lực lượng phòng thủ Dresden , bao gồm cả quân đoàn của St.Cyr có sức mạnh : 105 tiểu đoàn , 117 kỵ đội và 324 khẩu pháo , tổng cộng 90 000 người . Bản thân Napoléon đã có mặt tại thủ đô Sachsen vào lúc 9 giờ sáng , sự hiện diện của ông không những làm tăng nhuệ khí cho các binh sĩ chiến đấu mà thậm chí cả người Đức sống trong thành phố cũng hoan nghênh chào đón .


Vào đêm ngày 25/8 tại sở chỉ huy của Tập đoàn quân Böhmen thì không ai biết rằng Napoléon đang ở rất gần Dresden . Một cuộc họp được tổ chức để thống chế kế hoạch tấn công thành phố . Cuối cùng thì quan điểm của Sa Hoàng đưa ra đã được áp dụng , Schwarzenberg dù không ủng hộ nhưng cũng không còn cách nào khác . Theo mệnh lệnh vào ngày 26/8 thì Tập đoàn quân Böhmen sẽ giàn thành một hàng dài dọc chiến tuyến để răn đe quân Pháp và bắt đầu tiến công , nhưng Schwarzenberg không có nhắc tới việc tấn công thành phố Dresden (trong lòng Schwarzenberg vẫn không đồng ý với Alexander) .

Vào lúc sáng sớm 26/8 , 5 đội hình tấn công bắt đầu tràn vào ngoại ô Dresden . Pháo binh bắt đầu bắn phá thành phố vào lúc 4 giờ chiều .


Metternich viết thư về Wien vào rạng sáng hôm đó :

''Dresden sẽ bị tấn công và ta sẽ giành được thành phố vào hôm nay . 60 000 quân , bao gồm 20 000 quân Áo đã được giao nhiệm vụ này . ''

Khi ấy phòng ngự Dresden chỉ có 3 sư đoàn dưới sức của St.Cyr , cộng thêm 1 sư đoàn nữa của Vandamme . Nếu lập tức tấn công vào sáng sớm thì khả năng cao Dresden đã nằm trong tay liên minh bởi vì phải tới khoảng trưa chiều thì phần lớn lực lượng tiếp viện của Napoléon mới tiến đến chiến trường . Các tường thành bao quanh Dresden đã có tình trạng không tốt kể từ năm 1811 , và góc bắn cũng rất hẹp nên rất khó để biến Dresden thành một pháo đài kiên cố . Vì thế nên quá trình chuẩn bị phòng ngự được chuẩn bị chủ yếu ở nội ô , tận dụng các hàng rào và tường gạch . 4 ụ đặt pháo đã được xây dựng ở trước tường thành . Tuy vậy thì St.Cyr vẫn không có đủ quân để bịt kín mọi lối đi vào nội thành , ông đặt một sư đoàn phòng ngự Friedrichstadt cùng các nông trại Schusterhäuser , Cotta và Löbtau , các sư đoàn còn lại thì đặt từ nội ô tại Weisserit tới sông Elbe với nhiệm vụ bảo vệ vườn lớn .

Để có thể giành lấy thành phố thì mệnh lệnh được đưa ra phải chị thị mục tiêu rõ ràng cho từng đội hình tiến công với từng mốc thời gian cụ thể và không phải đợi tới tận 4 giờ chiều thì mới bắt đầu dùng pháo binh . Tuy nhiên mệnh lệnh của Schwarzenberg thì lại dùng từ ngữ không rõ ràng , dẫn tới nhiều đơn vị tấn công lẻ tẻ vào rạng sáng 26 .

Đội hình đầu tiên tung đòn tấn công là Quân đoàn II. của Phổ với 5 tiểu đoàn tiến về vườn lớn vào lúc 5 giờ sáng . Tại đây Sư đoàn Berthezène kháng cự quyết liệt , trận chiến giành giật từng tấc đất kéo dài tới chiều khi quân Phổ đã giành được nửa khu vườn thì dừng lại . Cụm quân đoàn Wittgenstein bên cánh phải tiến công vị trí của Sư đoàn Claparède nhưng bị hỏa lực áp chế dữ dội nên buộc phải rút lui về vị trí xuất phát , riêng tiền quân thì cầm cự ở lại vườn lớn cùng quân Phổ . Bên cánh trái , quân Áo tiến công lên đồi Hahnenberg và Weisserit , sau đó đã tiến tới được vị trí Feldschlößen-Meisterei tuy nhiên đã bị hỏa lực áp chế từ 2 ụ pháo đối diện bắn ghim chân . Riêng Sư đoàn Meszko là có bước tiến đáng kể nhất khi đã giành được Cotta và Schlusterhäuser.

Từ trên đồi Räcknitz cả 3 vị quân vương của liên minh theo dõi diễn biến trận đánh . Tuy nhiên mọi thứ có vẻ không diễn ra theo ý muốn của họ khi quân Pháp kháng cự quyết liệt cùng với sự xuất hiện của các tiểu đoàn tiếp viện và tiếng hô : ''Vive l'Empereur!'' từ xa . Lúc ấy thì không còn nghi ngờ gì nữa  , Napoléon đã có mặt tại chiến trường . Các cố vấn của 3 vị quân vương khi ấy ngay lập tức tuyên bố rằng không thể tiếp tục đánh trận này nữa và buộc phải rút lui ngay bây giờ , nhưng duy chỉ có Quốc vương Phổ cho rằng như vậy là quá nhục nhã bởi tại sao phải rút 200 000 quân chỉ vì cái tên Napoléon ? Công tước Schwarzenberg cũng đồng ý với quan điểm này nên ông làm ra vẻ sắp đưa ra mệnh lệnh trước mặt Alexander và Franz nhưng trên thực tế thì Schwarzenberg chẳng làm gì cho tới tận 4 giờ chiều . Vào lúc 4 giờ chiều sau hiệu lệnh từ 3 phát đạn pháo thì cuộc tấn công vẫn được tiếp diễn và bộ binh lại tiếp tục tiến lên phía trước .




Bên sườn phải , Wittgenstein tấn công bằng 3 đội hình nhằm vào các nông trại Engelhardt , Anton và Lämmchen . Sau khi đã giành được khu vực này , dù chịu thiệt hại nặng nhưng quân Nga vẫn tiếp tục tiến về phía trước và giành được hai nông trại tại Hopfgarten nằm gần cổng thành phía đông . Tại đây thì hỏa lực pháo binh từ phía bắc tại bờ sông Elbe bắn phá dữ dội khiến toàn bộ bước tiến bị chặn lại . Tới khoảng 5 giờ chiều thì Wittgenstein bắt đầu tung đòn tấn công cuối cùng bằng dự bị từ Windmühlenberg .

Bên cánh trái của Wittgenstein , quân Phổ đã chiếm được vườn lớn vào lúc 2 giờ chiều và giờ đây họ đã bắt đầu tấn công tường thành . Sau 3 đợt tấn công với thương vong nặng thì quân Phổ đã chiếm được một ụ pháo gần Kaißbach và cổng thành Dohna . Tới khoảng 5 giờ chiều thì tình hình tại hướng này đối với quân Pháp là cực kỳ nguy hiểm bởi quân Phổ có thể tràn vào trong thành vào bất cứ lúc nào .

Ở sườn phía nam và phía tây thì đòn tấn công của quân Áo dọc sông Weisserit được thực hiện với hỏa lực yểm trợ từ 72 khẩu pháo . 2 ụ pháo nằm ở phía tây của Pháp sau đó đã bị vô hiệu hóa , mở đường cho bộ binh áp sát tường thành từ hướng này . Tuy nhiên do không có thang hay thiết bị hỗ trợ để trèo qua tường nên quân Áo cố gắng tiến qua cổng thành Löbtau , tuy nhiên toàn bộ những nỗ lực tấn công từ hướng này đều thất bại .



 Như vậy tới khoảng 5 giờ chiều thì liên minh đã áp sát tường thành Dresden và khi Napoléon đang chuẩn bị cho đòn phản công thì một loạt đạn pháo rơi vào trong nội thành nơi Quốc vương Sachsen đang ngồi trong lo lắng . Sau khi Napoléon gặp quốc vương thì ông lệnh cho Lữ đoàn Augustus hành quân dọc hữu ngạn Elbe tới vị trí tập trung còn Murat (lúc này vừa quay trở lại Đức từ Ý) được bổ nhiệm làm chỉ huy nhóm quân tại Friedrichstadt . Ney chỉ huy nhóm quân tại Seevorstadt và Mortier ở ngoại ô Pirna . Hoàng Đế buộc phải 2 lần chạy tới chỗ St.Cyr để động viên các tân binh cố gắng bám trụ tại tường thành . Phần lớn các tân binh này đều ở trong trạng thái thể lực tồi tệ khi họ vừa hành quân suốt 3 ngày mà chưa ăn uống gì , một vài lên tiếng than với sĩ quan chỉ huy rằng họ sẽ chết vì đói . Napoléon đi tới từng đơn vị một để động viên , ông không hề bỏ sót bất cứ một trung đoàn nào .  Các tân binh khi ấy trông thấy Hoàng Đế đều lập tức quên đi cơn đói và hô : ''Vive l'Empereur!'' .


Sau khi tiểu đoàn tiếp viện cuối cùng đã hành quân đến Dresden thì Napoléon lệnh bắt đầu phản công . Từ mọi con phố tại Dresden , các khối tiểu đoàn của Pháp bắt đầu tiến về phía trước . Trước élan dữ dội của khoảng 70 000 quân Pháp , các đơn vị liên minh tại tường thành đều bị bất ngờ trước đòn phản công bất thình lình này .

Các đơn vị của Wittgenstein ngay lập tức bỏ các nông trại mà mình vừa chiếm được trước nguy cơ bị bao vây bởi Sư đoàn Roguet tiến dọc sông Elbe . Nông trại Windmühlenberg cũng rơi vào tay quân Pháp sau một hồi ngắn giao tranh . Tận dụng đà tiến , Sư đoàn Decouz đẩy lùi 2 quân đoàn của Nga tới tận Striesen thì mới dừng lại . Tới khoảng 12 giờ đêm thì cả Striesen cũng rơi vào tay quân Pháp , Quân đoàn II. của Phổ buộc phải điều Lữ đoàn Klüx tới giải cứu quân Nga .

Tại vườn lớn , các đơn vị của Quân đoàn II. bị tấn công bằng hai đội hình của Sư đoàn Vệ binh già cùng Sư đoàn Berthezène . Trận chiến giành giật vườn lớn diễn ra suốt 2 giờ thì quân Phổ rút lui về vị trí xuất phát .

Bên cánh trái của liên minh ,  Sư đoàn Barrois và Sư đoàn Dumoustier đẩy lùi quân Áo khỏi cổng thành Löbtau , chiếm lại được một ụ pháo và tiến tới khu vực Feldschlößchen . Trận chiến giành giật đồi Hahnenberg diễn ra cho tới khuya , sau đó quân Áo buộc phải rút lui xuống đồi .

Cách Dresden khoảng 3km dọc theo hướng thượng nguồn Elbe thì một trận chiến khác cũng diễn ra đồng thời tại Pirna . Theo mệnh lệnh từ trước đó thì Quân đoàn I bắt đầu vượt sông Elbe gần Königstein vào ngày 26 . Khi Sư đoàn Mouton dẫn đầu đội hình bắt đầu leo lên các quả đồi ở bờ tây thì chạm trán với Quân đoàn bộ binh 2 của Nga tại đây . Quân đoàn bộ binh 2 có nhiệm vụ bảo vệ đường tiếp tế Pirna-Teplitzer nằm bên sườn phải của Tập đoàn quân Böhmen . Nhận ra việc lực lượng của Vandamme sẽ đe dọa tới sườn phải của liên minh tại Dresden , Quân đoàn bộ binh 2 lập tức rút về vị trí đánh trận giữa Kriezwitzsch và Struppen nhằm kìm chân quân Pháp tại đây . May thay là bởi quá trình vượt sông diễn ra chậm chạp nên Vandamme không thể xuyên phá vị trí của quân Nga vào ngày hôm đó . Đêm hôm đó Quân đoàn bộ binh 2 tiếp tục rút lui lên đồi Zahista để chuẩn bị đánh cầm chân địch vào ngày hôm sau . HQ Tập đoàn quân Böhmen dù nhận được tin về việc có một quân đoàn của Pháp đang đánh vào sườn phải của mình , nhưng ban đầu chưa ai nhận ra sự nguy hiểm của quân đoàn này . Chỉ khi liên tục bị cầu cứu thì họ mới bổ nhiệm Bá tước Ostermann làm chỉ huy bên sườn phải , đồng thời gửi 12 tiểu đoàn và 10 kỵ đội từ dự bị tới cứu viện vào rạng sáng 27/8 .

Như vậy thì đòn đánh vào thành phố Dresden vào ngày 26 đã thất bại . Một cuộc họp được tổ chức vào tối hôm đó tại HQ Tập đoàn quân Böhmen với sự tham gia của Alexander và Friedrich Wilhelm , kết luận được đưa ra cuối cùng là liên minh vẫn sẽ tiếp tục tấn công vào ngày hôm sau mặc cho quân Pháp đã tới cứu viện cho thành phố . Về phía liên minh thì vào ngày 27 , Cụm quân đoàn Klenau sẽ hành quân tới chiến trường vào khoảng trưa , nâng tổng sức mạnh chiến đấu của liên minh tại Dresden lên 168 000 người  .

''Hôm nay đòn tấn công sẽ được tiếp tục . Chúng ta sẽ giành từng tấc đất một trong thành phố .'' -  Metternich viết về Wien vào tối 26

Theo lệnh của Schwarzenberg thì vị trí của các đội hình chiến đấu vào ngày 27 là như sau :

- Cụm quân đoàn Wittgenstein : trên đường Dresden-Pirna với tiền quân ở các làng Blasewitz ,  Gruhna , Grüne Wiese , Landgraben và chủ lực ở Leubnitz . Sau đó thì Barclay sửa lại lệnh để cho hai nhóm quân này tập trung gần nhau hơn tại Leubnitz và Prohlis , qua đó bỏ trống đường Pirna cho quân Pháp .
- Dự bị kỵ binh Quân đoàn II. (Phổ) : nằm sau Landgraben giữa hai nhóm quân của Wittgenstein
- Quân đoàn II. (Phổ) : nằm giữa Leubnitz và Gostritz , pháo binh dự bị trên đồi Strehla
- Dự bị Tập đoàn quân Nga-Phổ : sau Leubnitz , một phần bố trí ở giữa Mockritz và Klein-Pestitz .
- Tập đoàn quân dã chiến Áo : Sư đoàn Colloredo và Sư đoàn Chasteler đối diện đồi Räcknitz và Plauen , dự bị kỵ binh gần Zschernitz và Plauenschen Grunde . Sư đoàn Civalart và Sư đoàn Moritz Liechtenstein lập thành lớp thứ hai ở sau với dự bị kỵ binh tại Gittersee . Bên tả ngạn Wesserit là Sư đoàn Weißenwolff và Sư đoàn Sư đoàn Aloys Liechtenstein bố trí tại Dölzschen-Naulitz - Wölfnitz . Ở sau cùng là Sư đoàn Meszko tăng cường bởi một trung đoàn bộ binh tại Friedrichstadt-Prießnitz .

Tổng cộng liên minh có : 24 000 quân Nga-Phổ bên sườn phải , 120 000 quân Áo-Nga-Phổ ở trung tâm và 24 000 quân Áo bên sườn trái .

Vào đêm 26-27/8 thì quân đoàn của Marmont và quân đoàn của Victor đã hành quân tới thành phố , nâng tổng sức mạnh của quân Pháp lên khoảng 145 000 người . Từng này lực lượng là đủ để tung các đòn phản công phối hợp nhằm vào hai bên sườn của liên minh , khi ấy thì sẽ cầm chân liên minh trước thành phố . Murat nhận  lệnh tiến công dọc đường Freiberg nhằm bao vây cánh trái của địch còn Mortier thì bao vây cánh phải của địch từ đường Pirna . Vị  trí của quân Pháp vào sáng ngày 27/7 là như sau :

- Cụm quân đoàn Murat : 39 000 người gồm Quân đoàn II và Sư đoàn Teste ở trước cổng thành Löbtau , Quân đoàn kỵ binh I và Sư đoàn kỵ binh Pajol trước cổng thành Prießitz .
- Quân đoàn XIV ở phía nam vườn lớn
- Quân đoàn VI đối diện Seevorstadt
- 2 sư đoàn vệ binh trẻ ở trước cổng thành Falten và cổng thành Freiberg
- Sư đoàn Vệ binh già ở giữa hai ụ pháo phía tây
- Sư đoàn kỵ binh vệ sĩ ở giữa Striesener Landgraben và vườn lớn
- Cụm quân đoàn Mortier : 25 000 người gồm Sư đoàn Decouz và Sư đoàn Roguet giữa sông Elbe và đường Pirna , Sư đoàn kỵ binh Léfèbvre và Sư đoàn kỵ binh Ornano giữa Landgraben và sông Elbe


 

Vào đêm 26-27/8 tại chiến trường có một trận mưa lớn nên toàn bộ thuốc súng đều bị ướt khiến súng điểu thương không thể bắn được nên bộ binh chỉ có thể dùng lưỡi lê . Khoảng 7 giờ sáng thì các đội hình chiến đấu của quân Pháp bắt đầu tiến về phía trước . Sư đoàn Decouz và Sư đoàn Roguet tấn công qua khu vực nằm giữa vườn lớn và sông Elbe . Sư đoàn Roguet do không gặp địch trên đường Pirna nên đẩy thẳng tới Blasewitzer Tännigt buộc quân Nga tại Gruhna phải rút lui về Seidnitz . Quân Pháp đuổi theo và trận giết giành giật làng Seidnitz và Dobritz đã  nổ ra , tới khoảng 11 giờ trưa thì quân Nga tiếp tục rút lui .

Ở khu vực trung tâm , quân đoàn St.Cyr đã đẩy lùi lữ đoàn tiền quân của Phổ khỏi Strehla tới Leubnitz vào khoảng 8 giờ sáng . Kể từ 10 giờ thì St.Cyr đặt pháo của mình lên đồi Strehla và bắt đầu bắn phá các khẩu đội của địch tại Zschernitz và Leubnitz . Quân đoàn Marmont cùng 2 sư đoàn vệ binh trẻ trong khi đó chỉ đánh cầm chân địch đúng như mệnh lệnh .

Ở phía tây chiến trường , Victor bố trí quân đoàn của mình ở giữa đường Freiberg và đường Tharandt và bắt đầu tấn công vị trí của Áo tại Nauslitz-Wölfnitz . Sư đoàn Teste tiến công bên sườn phải của Victor giữa Löbtau và Kleinhamburg , Quân đoàn kỵ binh I và Sư đoàn kỵ binh Pajol tiến bên phải ngoài cùng . Dưới hỏa lực yểm trợ từ pháo binh , Victor triển khai quân đoàn của mình thành 4 đội hình tấn công đâm xuyên qua vị trí của Áo giữa Dölzschen và Wölfnitz . Quân Áo tại vị trí này rất mỏng và ngoài ra họ không thể sử dụng hỏa lực do thuốc súng bị ướt nên nhanh chóng vỡ trận . Cuối cùng thì Quân đoàn kỵ binh I cùng Sư đoàn Teste đã kiểm soát hoàn toàn đường Freiberg vào lúc 11 giờ trưa . Sườn trái của quân Áo bị đe dọa nghiêm trọng từ hướng Schlusterhäuser-Cotta-Löbtau , buộc Sư đoàn Meszko phải rút lui về Gorbitz .

Napolén trong khi đó đã quan sát diễn biến trận đánh từ ụ pháo ngoài cùng phía tây từ lúc 6 giờ sáng . Khi có tin từ Murat rằng ông ấy đã bọc qua sườn trái của địch lúc 11 giờ trưa thì Napoléon tin rằng trận đánh sắp bước vào giai đoạn quyết định , chính vì thế nên ông phi ngựa một mạch sang sườn còn lại để ngăn liên minh không thể điều quân tiếp viện tới cứu quân Áo . Hoàng Đế cưỡi ngựa tới Grüne-Wiese đúng lúc Mortier vừa giành được làng Großdobritz , đẩy lùi Wittgenstein về Reick và Prohlis . Napoléon lập tức lệnh cho Lữ đoàn Palet tại Grüne-Wiese vào lúc đó nhằm tung đòn tấn công về Reick với sự hỗ trợ từ Sư đoàn Roguet . Tiền quân của Wittgenstein vào lúc này buộc phải rút lui lên đồi Torna , song song với đường Pirna . Dù ở cánh này liên minh có tới 85 kỵ đội so với 28 kỵ đội của Pháp nhưng họ chả làm gì thêm ngoài cho bộ binh cầm cự tại chỗ . Trong khi đó thì St.Cyr vẫn chưa thể giành được Leubnitz từ tay quân Phổ . Đến 1 giờ chiều thì toàn bộ bước tiến của Pháp đã khựng lại và trận chiến chuyển sang giai đoạn đấu pháo .


Trước đó vào khoảng 11 giờ trưa , nhận thấy rằng nếu để mất đường Pirna thì cánh phải của Tập đoàn quân Böhmen sẽ sụp đổ trong trường hợp buộc phải rút lui , Jomini liền hối thúc tung đòn phải công từ hướng này với toàn bộ lực lượng của Wittgenstein và toàn bộ dự bị tại Leubnitz . Đòn phản công sẽ được tung về hướng Seidnitz , Kleist và Vệ binh đế chế Nga trong khi đó sẽ tấn công sườn phải của St.Cyr về khu vực Strehla-Gruhla . Kế hoạch này đã nhận được sự đồng ý của 3 vị quân vương và thời điểm phản công được ấn định là lúc 1 giờ chiều . Tuy nhiên Barclay lại chần chừ không đưa pháo lên tuyến trước tới khu vực đất mềm vì ông sợ rằng trong trường hợp phản công thất bại thì không thể kéo pháo về được nữa , khi ấy thì pháo sẽ rơi vào tay địch . Cùng lúc đó thì Moreau* vừa bị đạn pháo bắn trọng thương bên cạnh Sa Hoàng nên Schwarzenberg không còn tập hợp được đủ sự ủng hộ để tiếp tục bám sát kế hoạch ban đầu . Thế là thảm họa nhanh chóng ập lên đầu liên minh . 



*Một tướng giỏi từ cách mạng Pháp , tuy nhiên sau đó buộc phải lưu đày sang Mỹ để trốn Napoléon và sau đó quay trở lại Châu Âu làm cố vấn theo lời mời của Sa Hoàng vào ngày 16/8


Khi tin tức về việc quân đoàn của Vandamme đã chiếm được Pirna và cùng lúc đó thì cánh trái cũng đang trên bờ vực sụp đổ thì có vẻ như trận Dresden sắp biến thành một thảm họa đối với Tập đoàn quân Böhmen .

Theo mệnh lệnh của Napoléon , Quân đoàn II bắt đầu tấn công vào lúc 2 giờ chiều , đẩy lùi một lữ đoàn từ Sư đoàn Aloys Liechtenstein khỏi Obergorbitz . Sau khi quân Áo vừa rút khỏi ngôi làng thì bị kỵ binh Pháp tấn công khiến toàn bộ lữ đoàn vỡ trận . Toàn bộ sườn trái của Áo bị chặt thành 2 phần , tận dụng cơ hội này Quân đoàn kỵ binh I ngay lập tức đẩy tới phía Bắc Wölfnitz và Niedergorbitz , nằm ở giữa 2 nhóm quân của Áo . Cùng lúc đó thì Sư đoàn Chaste và Sư đoàn Teste thực hiện đòn bọc hậu qua Burgstädtel và Pennrich , qua đó khiến Sư đoàn Mezsko bị bao vây hoàn toàn . Khoảng 9000 người cùng 6 khẩu pháo bị bắt làm tù binh vào lúc 3 giờ chiều . Kể từ lúc này thì cánh trái của Tập đoàn quân Böhmen đã sụp đổ .

Ảnh : Trung đoàn thiết kỵ 9 tại Dresden , Anatoly Telenik

Cùng lúc đó ở phía đối diện thì St.Cyr vẫn chưa giành được Leubnitz còn Mortier thì vẫn chưa nhích thêm được bước nào .  Một vài tiểu đoàn của Mortier đi nhầm ra ngoài Reick liền ngay lập tức bị kỵ binh Phổ tấn công . Do đó để có thể đánh bại cánh phải của liên minh thì Napoléon phải trông chờ vào sự xuất hiện của Quân đoàn I từ Pirna .

Dù mức độ thành công của trận đánh phụ thuộc vào Vandamme nhưng ông lại tiến rất chậm , thậm chí vào ngày 27 thì Quân đoàn I vẫn chưa tập hợp đầy đủ quân số ở tả ngạn Elbe . Bản thân Vandamme thì ước tính địch quá mạnh nên không dám lập tức công ngay nên quân đoàn của ông sau khi giành được Pirna chỉ tiến tới Kriezschwitz và đẩy 1 tiểu đoàn tới Kohlberg  (cách sườn phải của quân Nga chỉ khoảng 3 km) rồi dừng .




Khoảng 3 giờ chiều khi có tin từ thảm họa bên cánh trái thì phần lớn các sĩ quan đều muốn rút lui , không chỉ là rút lui về Dippoldiswalde mà rút về tận Böhmen . Schwarzenberg là người đưa ra quyết định cuối cùng :

''Ta sẽ rút về sau sông Eger gần  Budin và tìm mọi cách để tập trung quân số , lúc ấy đang bị nạn đói hoành hành và trong tình trạng kiệt sức , sau đó thì tạm thời bảo vệ vùng Böhmen .''

Thứ tự hành quân được soạn bởi Toll và Radetzky , sau đó được ban hành vào lúc 4 giờ chiều . Theo đó thì Tập đoàn quân Nga-Phổ sẽ rút bằng đường Dohna-Berggieshübel-Peterswalde tới Teplitz còn Tập đoàn quân dã chiến Áo rút bằng đường Dippoldiswalde-Altenberg về Eichwalde , Dux và Brür . Riêng Cụm quân đoàn Klenau cùng các đơn vị ở bờ tây Wesserit sẽ rút bằng đường Tharandt-Freiberg về Marienberg và Komotau .

Trong khi mệnh lệnh đang được gửi tới các đơn vị chiến đấu thì nhịp độ tác chiến đã giảm dần . Bên cánh trái , Cụm quân đoàn Klenau vừa kịp tới tới ứng cứu tại Potschappel và Deuben nên đã ngăn chặn tình trạng vỡ trận . Bên cánh phải thì Quân đoàn II. của Phổ cầm cự kiên cường tại Leubnitz tới tận 1 giờ đêm , sau khi toàn bộ các đơn vị của Tập đoàn quân Nga-Phổ rời khỏi chiến trường thì mới bắt đầu rút lui .

Tháp chuông nhà thờ tại Dresden rung chuông vào lúc 4 giờ chiều báo hiệu chiến thắng của Napoléon . Hoàng Đế cưỡi ngựa vào thành phố dưới tiếng reo hò ''Vive l'Empereur!'' của cư dân địa phương . Theo sau là khoảng 13 000 tù binh , chủ yếu là quân Áo  , trong đó có Phó thống chế Meszko , 2 tướng , 64 sĩ quan cao cấp , 15 chiến kỳ , 26 pháo và 30 xe chở đạn . Một cuộc truy đuổi được thực hiện bởi Quân đoàn kỵ binh I có thể sẽ khiến Tập đoàn quân Böhmen vỡ trận khi cố gắng rút lui qua vùng núi , tuy nhiên do mặt đất quá mềm do trận mưa vào đêm hôm trước nên đã cản trở tốc độ tiến quân .

Quá trình rút lui của Tập đoàn quân Böhmen cũng không diển ra thuận lợi khi đã xảy ra tình trạng xích mích giữa nhiều sĩ quan . Klenau nhận ra việc nguy hiểm như thế nào trong tình huống rút lui vào vùng núi , không muốn quân đoàn của mình bị tiêu diệt trên đường Freiberg hay đường Tharandt nên đã tự ý rẽ ngang tới Pretzschendorf và cuối cùng đã tới Marienberg vào ngày 30 . Tuy nhiên việc Klenau rẽ ngang tới Pretzschendorf đã chặn đường rút của cánh trung tâm quân Áo . Tình huống tương tự cũng xảy ra ở cánh đối diện khi Barclay trước lo ngại về quân đoàn của Vandamme cũng rẽ ngang sang đường Dippoldiswalde-Altenberg và chặn đường rút của cánh trung tâm quân Áo . Về cơ bản thì Barclay cho toàn bộ quân Nga chạy sang giành phần đường của Áo để rút , riêng Quân đoàn II. của Phổ thì ông cho rút lui dọc đường Maren-Glashütter . Đường này dù xấu nhưng ít ra không xảy ra tình trạng tắc nghẽn . Hậu quả của sự rối loạn trong hệ thống chỉ huy của Tập đoàn quân Böhmen đã dẫn tới việc 120 000 người hành quân trên cùng một con đường duy nhất băng qua núi , tệ hơn là đoàn vận tải của Áo tiến tới từ hướng ngược lại đã chặn đứng toàn bộ con đường . Nếu bị kỵ binh Pháp truy đuổi sát lưng thì chắc chắn Tập đoàn quân Böhmen giờ đây đã bị đánh cho vỡ trận .

Rạng sáng ngày 28/8 thì điều kiện thời tiết đã tốt hơn , nhưng vẫn có nhiều mây che hết ánh sáng mặt trời nên chưa thể nhìn rõ xung quanh . Theo quan sát của trinh sát Pháp thì lúc này chỉ còn lại quân của Wittgenstein là ở lại khu vực Leubnitz và Prohlis , phần còn lại của địch thì đã biến mất từ đêm hôm trước . Khoảng 8-9 giờ sáng khi St.Cyr và Marmont tấn công thì Wittgenstein cũng rút lui khỏi khu vực này .


Như vậy trận Dresden lại là một chiến thắng nữa của Napoléon , nhưng không phải là một chiến thắng trọn vẹn . Cũng giống như trận Lützen và trận  Bautzen trong chiến dịch mùa xuân thì lần này phần lớn chủ lực của liên minh vẫn còn nguyên vẹn . Sự chần chừ của Vandamme đã khiến Napoléon mất đi cơ hội để tiêu diệt Tập đoàn quân Nga-Phổ và đánh gục Tập đoàn quân Böhmen , qua đó loại bỏ tập đoàn quân mạnh nhất của liên minh trong thời gian dài và khi ấy thì kết cục của toàn bộ chiến dịch có lẽ đã khác .

6.Kulm-Nollendorf

Quá trình truy đuổi được tổ chức như sau : Murat đến Freiberg , Marmont đến Dippoldiswalde , Napoléon cùng Quân đoàn I , Quân đoàn XIV và Mortier tiến dọc đường Peterswald - song song với đường rút của Tập đoàn quân Böhmen với ý đồ chặn đầu địch ở lối lên núi . Bởi tầm quan trọng của đường Peterswalde-Teplitz nên Quân đoàn bộ binh 2 cùng Quân đoàn cận vệ 5 của Yermolov được phái làm mọi cách để chặn đứng quân của Vandamme . Tuy nhiên chỉ huy Quân đoàn bộ binh 2 cho rằng ông ấy có thể rút lui một mình qua ngã Peterswalde nên đã tổ chức chặn hậu để tạo điều kiện cho Yermolov rút lui . Do Quân đoàn I lúc đó đang nằm song song đường Teplitz nên Quân đoàn bộ binh 2 tung đòn tấn công giả để thu hút sự chú ý của Vandamme , nhưng Vandamme không dễ dàng bị lừa nên Quân đoàn I lập tức hành quân tới Berggießhübel để chặn đầu quân Nga . Thế là Quân đoàn bộ binh 2 cùng Quân đoàn cận vệ 5 phải mở đường rút bằng lưỡi lê với thiệt hại nặng . Tới tối thì hậu quân của Nga đã rút lui về Peterswalde  .

Napoléon sau khi ban hành mệnh lệnh truy đuổi thì đã cưỡi ngựa tới Pirna . Khi tới đây vào 9 giờ 45 sáng 27/8 thì có tin từ Vandamme rằng chủ lực địch rút lui từ Dresden đang hiện diện ở phía trước quân đoàn của ông . Tuy nhiên Napoléon cho rằng liên minh sẽ không thể  rút lui bằng đường Pirna (chính xác) bởi con đường này đã bị các đơn vị của Pháp xâm nhập . Thay vào đó thì Hoàng Đế đoán rằng phần lớn địch đã rút theo hướng đông nam về Dippoldiswalde , Marienberg và Annaberg . Báo cáo của Murat sau đó đã xác nhận điều này .

Napoléon sau đó lệnh cho Quân đoàn XIV tiến gần hơn với Quân đoàn VI , đề phòng chạm trán với chủ lực địch thay vì tiếp tục truy đuổi dọc đường Peterswald . Murat trong khi đó tiếp tục di chuyển theo hướng đông nam đến Frauenstein với hi vọng sẽ ập vào sườn hoặc sau lưng của địch . Ở cánh đối diện thì do chỉ có một mình Quân đoàn bộ binh 2 rút lui bằng đường Teplitz nên một mình Vandamme là đủ để đánh gục địch . 


Sư đoàn Vệ binh già được lệnh trở về Dresden , 2 sư đoàn vệ binh trẻ cùng cụm quân đoàn Mortier thì dừng chân tại Pirna để nghỉ ngơi . Đây là quyết định may mắn khi ông trở về Dresden để nhận tin tức từ Macdonald ở Schlesien .

Theo mệnh lệnh tác chiến ngày 28/8 thì quá trình truy đuổi sẽ tiếp tục được thực hiện bằng 4 đội hình chính qua các ngã Freiberg , Dippoldiswalde , Maren và Berggießhübel . Nhiệm vụ của Vandamme là cắt đứt đường rút về Áo của Tập đoàn quân Böhmen .

Tuy nhiên tốc độ hành quân của liên minh diễn ra rất chậm chạp , tới tối ngày 29/8 thì phần lớn Tập đoàn quân Böhmen chỉ mới đi tới sườn dốc phía nam của các dãy núi vùng Böhmen nên Quân đoàn bộ binh 2 buộc phải cầm chân Vandamme cho tới hết hôm đó . Tuy nhiên vì quá lo lắng trước lực lượng vượt trội nên quân đoàn đã bắt đầu rút lui vào sáng 29 , Quân đoàn I của Pháp đuổi theo tấn công quyết liệt và các cuộc giao tranh dữ dội đã diễn ra tại Peterswalde , Voder-Tellnitz và Kulm . Sau khi nghe tin này thì Friedrich Wilhelm ngay lập tức can thiệp , ông gửi Trung tá von Nazmer đến yêu cầu Ostermann-Tolstoy (Sư đoàn bộ binh 1/Quân đoàn cận vệ 5) bằng mọi cách phải cầm chân được Vandamme bởi vì nếu cứ rút lui thì thảm họa sẽ xảy ra .

Khi nhận được tin tức từ Nazmer rằng 2 vị quân vương cùng các đơn vị chủ lực vẫn đang ở trên núi thì Tolstoy đã rất sốc , nhưng ông không tin rằng sư đoàn của mình có thể cản bước cả một quân đoàn của Pháp . Bản thân sư đoàn của Tolstoy vừa chiến đấu tới mức kiệt sức suốt 2 ngày vừa qua và nhiều lúc phải tự phá vây bằng lưỡi lê . Khi vừa rút lui qua Kulm thì Thiếu tướng von Knesebec đến đưa cho Tolstoy lá thư viết tay từ Quốc vương Phổ giải thích tình hình tại đường núi đang nghiêm trọng tới mức nào và tầm quan trọng của việc bảo vệ sườn trái của tuyến đường rút lui .

Sau khi được giải thích về tình hình chiến dịch thì Ostermann-Tolstoy lấy lại tinh thần và quyết định sẽ đánh trận tại Kulm , một mình sư đoàn của ông sẽ chiến đấu chống lại hơn 40 000 quân của Vandamme .

Alexander cưỡi ngựa lên quả núi ở Dux vào lúc 2 giờ chiều để quan sát trận chiến . Ông ngay lập tức can thiệp khi lệnh cho Sư đoàn Colloredo và Sư đoàn Bianchi không hành quân tới Dux như kế hoạch ban đầu mà chuyển hướng sang phía Đông tới Teplitz và Priesten để tiếp viện cho Tolstoy . Quân đoàn kỵ binh vệ sĩ của Nga đồng thời di chuyển lên núi Geiersberg làm dự bị .

Khác với những trận đánh trước đó thì trận Kulm sẽ là trận đánh mang tính chất quyết định tới toàn bộ chiến dịch , bởi nếu không thể cản đường Vandamme thì tập đoàn quân mạnh nhất của liên minh sẽ bị bao vây trên vùng núi Böhmen .





Trong khi các đơn vị của Áo và Nga tiếp cận chiến trường thì trước hết chỉ có một mình sư đoàn dưới sức của Tolstoy cầm chân quân Pháp . Ông chọn làng Priesten làm trung tâm vị trí phòng ngự với ý đồ bảo vệ lối di chuyển của các đơn vị còn lại của liên minh qua rừng Zinnwald và núi Geiersberg . Nằm bên cánh phải từ làng Priesten tới làng Karwitz là 4 tiểu đoàn . Nằm bên cánh trái là 5 tiểu đoàn ,6 kỵ đội và 12 pháo . Sư đoàn bộ binh cận vệ 1  bố trí ở lớp thứ hai xung quanh nhà thờ tại Juchten , gồm có 21 tiểu đoàn , 6 kỵ đội và 54 pháo . Tổng cộng khoảng 14 700 người .

Cũng giống như những ngày hôm trước thì Vandamme lập tức tấn công vào lúc trưa vì chỉ phải đối đầu với một sư đoàn yếu của địch . Sư đoàn bộ binh 5 dẫn đầu mũi tiến công đẩy lùi 3 trung đoàn cácnh trái của Bistrom khỏi Straden . Trận chiến tại làng Priesten là khốc liệt khi quân Pháp chiếm được trong 2 lần đầu tiên đều lập tức bị đẩy lùi khỏi làng . Khi ấy thì Vandamme mới hiểu là địch không chỉ đánh chặn hậu như những ngày trước đó mà họ đang cố thủ .  Vandamme liền cho quân đoàn của mình triển khai thành đội hình đánh trận . Tới khoảng 5 giờ chiều thì phần lớn các đơn vị của Pháp đã có mặt trên chiến trường , nhưng ở phía liên minh thì quân Nga chỉ còn đúng 1 tiểu đoàn chưa triển khai .

Vào lúc này thì Tolstoy bị một quả đạn pháo quật nát cánh tay trái nên phải rời khỏi chiến trường , thay thế Tolstoy là Công tước Württemberg (Quân đoàn bộ binh 2).


Tận dụng lợi thế của mình , Vandamme tiến hành tung đòn tấn công tổng lực . Württemberg không còn cách nào khác liền cho kỵ binh Vệ sĩ Nga , lúc này vừa tới chiến trường nhằm tung đòn phản công để cầm chân quân Pháp .
Sư đoàn của Thiếu tướng Knorring phi thẳng qua các khối tiểu đoàn của Pháp , và đi quá làng Priesten . Nhưng càng đi xa thì các đơn vị này càng bị chia cắt và phân tán nên họ buộc phải tái tập trung ở Straden . Đòn phản công này dù đã khiến cả một sư đoàn bị vỡ tung thành nhiều phần nhưng đã giúp Công tước Württemberg có đủ thời gian để tổ chức và bố trí lại vị trí phòng ngự của mình . Cùng lúc đó thì lần lượt các trung đoàn kỵ binh còn lại thuộc Kỵ binh vệ sĩ tiến tới chiến trường và bố trí gần làng Karwitz .  

Nhận ra không thể đẩy lùi được quân Nga và bởi thương vong quá lớn nên Vandamme đành phải ngừng tấn công ngay sau đó . Như vậy Quân đoàn bộ binh 2 đã thành công trong việc cầm chân Vandamme , giúp câu thêm thời gian cho các đội hình còn lại của liên minh kịp thời rút lui về Áo . Công lao lớn nhất nên thuộc về Công tước Württemberg bởi thay vì làm theo lệnh của Barclay thì ông cho Tolstoy rút lui dọc đường Teplitz để đánh kìm chân Vandamme suốt 3 ngày liên tiếp , ngược lại thì Vandamme đã có thể tự do hành quân một mạch ra sau lưng của Tập đoàn quân Böhmen . Và không ai khác ngoài Tolstoy có thể thực hiện nhiệm vụ này chỉ với 15 000 quân , bởi ngoài Công tước Bagration thì ông là người có kinh nghiệm đánh chặn hậu nhất trong hàng ngũ của Nga* .

* Ostermann-Tolstoy chỉ huy Quân đoàn bộ binh 4 trong chiến dịch 1812 tại Nga . Trong các cuộc giao tranh chặn hậu gần Ostrovo từ 25.7 - 27.7 để kìm chân tiền quân Pháp , khi quân đoàn của ông gần như bị pháo binh địch bắn phá dữ dội dẫn tới thương vong nặng thì cấp dưới liền hỏi nên làm gì tiếp theo, lúc đó thì Tolstoy đáp lại : "Không làm gì cả , đứng đây và chờ chết !".

Kết thúc ngày 29.7  , thương vong của phía liên minh là khoảng 6000 người (gần một nửa lực lượng !) . Thương vong của Pháp không rõ .

Quá trình rút lui của các đội hình của Tập đoàn quân Böhmen vẫn diễn ra chậm chạp , có thể vì kiệt sức , đói và thời tiết kém . Kết thúc ngày hôm đó thì Cụm quân đoàn Klenau chỉ mới tới Gross-Waltersdorf . Murat truy đuổi sau lưng Klenau nhưng không quyết liệt như Vandamme nên chỉ mới tới Liechtenstein . Cụm quân đoàn Wittgenstein hành quân tới Altenberg trong khi bị truy đuổi bởi Marmont , khi đó đã tới Falkenhain . Quân đoàn II của Kleist thì bị đe dọa nghiêm trọng bởi St.Cyr đã vượt qua ông gần Glashütte . May cho Kleist là St.Cyr đã mất dấu địch , ông nghĩ rằng quân Phổ đã rút lui qua ngã Reinhardsgrimma về Altenberg nên ông chuyển hướng về đó và gặp Marmont , sau đó thì St.Cyr quay về Reinhardsgrimma đóng trại để chờ lệnh Hoàng Đế . Mãi tới 4 giờ chiều thì Kleist mới hành quân tới Liebenau . Theo mệnh lệnh của Quốc Vương thì Kleist buộc phải hành quân dọc thung lũng Teplitz để cứu viện cho quân Nga , nhưng vì đã kiệt sức sau 13 tiếng hành quân liên tục nên Kleist không thể thực hiện mệnh lệnh này .

Trong quá trình rút lui thì có nhiều người kiệt sức tới mức không thể lết được cơ thể của mình khỏi bùn , hàng nghìn người bị bắt làm tù binh . Các loại xe chở hàng cùng trang bị , vũ khí cũng bị bỏ giữa đường . Số lượng chiến lợi phẩm càng ngày càng chất đống được đem đến Dresden để trưng bày , giúp Napoléon càng tin tưởng vào khả năng giành chiến thắng của mình .

Vào cuối nga 29.7 thì Sa Hoàng , Quốc Vương , Schwarzenberg và Barclay đã có mặt tại chiến trường gần làng Priesten . Với các đội hình tiếp viện vừa tiến tới chiến trường thì liên minh có tổng cổng 50 000 quân , dư sức chống lại 40 000 quân của Vandamme vào ngày hôm sau . Quyết định cuối cùng được đưa ra  và Barclay sẽ  tổ chức tấn công vào ngày hôm sau nhằm đẩy lùi Vandamme về làng Nollendorf trước khi tiếp viện của Pháp kịp đến chiến trường .

Vào lúc này thì mối lo lắng duy nhất của liên minh là Quân đoàn II. của Kleist , bởi vì quân đoàn này hiện đang bị mắc kẹt tại ngã Graupen và ngã Geiersberg bởi số lượng các trang bị cùng xe chở hàng bị bỏ lại đã khiến tình trạng tắc đường xảy ra nghiêm trọng . Nếu như quân Pháp chỉ cần đẩy mạnh và chặn đứt tuyến đường này thì Quân đoàn II. sẽ kết thúc chiến dịch tại đây . Bởi vì ngã Altenberg đang được dùng bởi Cụm quân đoàn Wittgenstein nên không còn cách nào khác ngoài việc chuyển hướng sang ngã Nollendorf - nghĩa là đâm thẳng vào sườn phải của Vandamme . Quốc Vương đã cho Đại tá von Schöler đến thông báo với Kleist về ý tưởng này . Nhưng ngay cả trước khi Schöler đến gặp thì Kleist đã tự chủ động ra quyết định rút lui bằng đường Streckenwalde-Nollendorf và sau đó phá khỏi vòng vây của quân Pháp .

Giữa lúc căng thẳng và lo lắng về việc thua trận thì tối hôm đó , sở chỉ huy tối cao của liên minh nhận tin Tập đoàn quân Schlesien của Blücher vừa đánh thắng một trận lớn tại Katzbach . Schwarzenberg lập tức liền cho Công tước Liechtenstein đến gặp Blücher để thông báo về trận chiến tại Dresden cùng tình trạng hấp hối của Tập đoàn quân Böhmen , sau đó thúc giục Blücher triển khai ít nhất 50 000 quân , nhưng nếu có thể thì toàn bộ Tập đoàn quân Schlesien hành quân qua ngã Theresienstadt để hội quân với Tập đoàn quân Böhmen càng sớm càng tốt . Điều này đã cho thấy quá trình rút lui của Tập đoàn quân Böhmen diễn ra một cách hỗn loạn và nỗi lo của các lãnh đạo liên minh về tình hình hiện tại như nào .

Vào lúc 3 giờ sáng ngày 30, Đại tá von Schöler từ Fürstenwalde đã quay trở lại Teplitz, lập tức đánh thức tướng Diebitsch - quân nhu trưởng của Barclay, và thông báo với ông về quyết định của Kleist. Triển vọng về một thắng lợi lớn có thể đạt được nhờ quyết định này đã làm bầu không khí tại HQ trở nên phấn khích. Ngay lập tức, họ tiến đến Priesten để xác định vị trí của đối phương.

Tuyến phòng thủ của địch dựa vào dãy núi ở cánh phải và kéo dài qua Straden đến các cao điểm Wapplingsberge. Sườn núi Striesowißer dốc và rậm rạp dường như đã bị Vandamme coi là không thể vượt qua, nên chỉ được phòng thủ yếu ở sườn phía tây.

Kế hoạch tấn công ngay lập tức được vạch ra, trong đó cánh trái và trung tâm sẽ giao chiến nhằm cầm chân địch, trong khi cánh phải, gồm các sư đoàn Áo của Colloredo và Bianchi, sẽ tiến hành một cuộc bao vây rộng, đánh vào cánh trái của đối phương và dồn họ về phía dãy núi. Nếu quân đoàn của Kleist kịp xuất hiện từ Nollendorf trên chiến trường, Vandamme sẽ bị bao vây từ ba phía và không thể tránh khỏi một thảm họa.

Đến 7 giờ sáng, cánh trái quân Nga bắt đầu trận chiến mới, vì Vandamme lại một lần nữa tìm cách đánh vòng qua vị trí tại Eggenmühle như ngày hôm trước. Nhưng lần này, nỗ lực của ông cũng thất bại khi quân Nga liên tục được tiếp viện từ khu vực rừng núi, cuối cùng thì quân Pháp đã bị đẩy lùi về phía sau con suối tại Stradenbach. Tại làng Priesten, trận chiến đã trở thành một cuộc đấu súng tại chỗ.

Trong khi đó, Colloredo đã hoàn tất quá trình triển khai quân dọc theo tuyến Herbiz-Karbiß để chuẩn bị tấn công vào cánh trái của Vandamme. Đến 8 giờ rưỡi sáng, lữ đoàn kỵ binh Knorring tiến lên đánh chiếm các điểm cao phía nam của Wapplingsberge. Mặc dù hứng chịu hỏa lực dữ dội từ pháo binh Pháp, họ vẫn xuyên thủng phòng tuyến pháo địch, thu giữ ba khẩu pháo và đập tan một tiểu đoàn bộ binh Pháp đang bảo vệ khu vực.


Lợi dụng tình thế, bộ binh Áo tiếp tục tiến lên, leo lên đỉnh núi Striesowißer và đẩy lùi cánh trái quân Pháp xuống sườn dốc. Lữ đoàn Quiot kéo đến quá muộn nên chỉ kịp chặn đứng đà tiến quân của Áo . Colloredo lập tức cho đặt pháo trên các cao điểm Striesowißer và kéo dài cánh phải của mình đến Deutsch-Neudörfel. Như vậy, cánh trái của Vandamme đã bị bao vây, và phần phía nam của Wapplingsberge cũng bị chiếm giữ, đúng lúc quân đoàn Kleist tiến đến Vorder-Tellniz, đóng vai trò quyết định về cục diện của trận đánh vào ngày hôm đó.

Quân đoàn của Phổ dự kiến khởi hành vào lúc 3 giờ sáng , tuy nhiên đã phải hoãn đến khoảng 5 giờ sáng do trời vẫn còn quá tối . Sau ba giờ di chuyển, quân đoàn đã đến Nollendorf, nơi Kleist tập hợp quân thành từng lữ đoàn và cho họ nghỉ 1 tiếng rưỡi để hồi phục sau cuộc hành quân đêm. Đến khoảng 10 giờ sáng, họ tiếp tục lên đường.

Tại Peterswalde, ngoài một đoàn xe đạn dược của địch bị Trung đoàn Khinh kỵ Schlesien bắt giữ, không có dấu hiệu nào khác cho thấy quân địch đang tiếp cận. Vào lúc 10 giờ sáng, những phát súng pháo đầu tiên của Quân đoàn Kleist đã vang lên trên các cao điểm phía nam Vorder-Tellnitz. Lúc này thì Vandamme bất ngờ nhận được tin về sự xuất hiện của quân Phổ sau lưng của mình .  Trong khi tuyến quân đối diện với liên minh cũng như Vandamme, người đang chỉ huy trận chiến trên núi Horka, ban đầu lại tưởng rằng đó là Vệ Binh Đế Chế của Mortier đang tiến tới hỗ trợ .  Tuy nhiên, họ nhanh chóng nhận ra tình thế tuyệt vọng mà mình đang đối mặt.

Vandamme, với ý chí sắt đá và sự bình tĩnh vốn có, một lần nữa chứng tỏ bản lĩnh của mình trong thời khắc hiểm nguy. Ông lập tức đưa ra quyết định và ban hành mệnh lệnh với sự điềm tĩnh tuyệt đối. Lối thoát duy nhất là tập hợp toàn bộ lực lượng tại Kulm, hy sinh toàn bộ pháo binh, rồi dùng gươm mở đường xuyên qua quân Phổ đang chặn đường rút lui. Ông không do dự một chút nào để thực hiện kế hoạch này . Cục diện trận chiến thay đổi nhanh chóng: trước đó, quân Pháp còn đang truy đuổi theo địch ,  nhưng giờ đây họ đã phải rút lui khắp mọi nơi. Vandamme chỉ để lại pháo binh giữ vị trí và với sự anh dũng của mình, họ đã kìm hãm đà tiến công của quân Nga và Áo trong , giúp bộ binh có đủ thời gian để xoay đội hình theo hướng ngược lại.



Hai mươi tiểu đoàn bên cánh trái lập tức quay đầu lại. Tám tiểu đoàn trong số đó được lệnh tiến về Nieder-Arbesau, chiếm giữ và bảo vệ ngôi làng bằng mọi giá. Mười hai tiểu đoàn khác di chuyển giữa chân núi và con đường qua Schande đến Liesdorf. Ở giữa hai cánh này, kỵ binh cố tìm cách thoát ra bằng cách mở đường đột phá theo con đường chính . Ban đầu, cuộc rút lui diễn ra có trật tự, nhưng chẳng bao lâu sau, tình trạng hỗn loạn bắt đầu xuất hiện—một điều gần như không thể tránh khỏi trong hoàn cảnh này.





Trong khi đó, lữ đoàn Pirch thuộc Quân đoàn Kleist đã triển khai tấn công ở phía nam Vorder-Tellnitz, dọc theo cả hai bên con đường chính, trong khi quân Nga và Áo, được khích lệ bởi tiếng pháo rền vang báo hiệu thời khắc quyết định đã đến, tiếp tục tiến công với khí thế bùng nổ. Colloredo chiếm được Nieder-Arbesau, còn Eugen giành quyền kiểm soát Straden.

Ở cánh phải quân Pháp, Sư đoàn Mouton-Duvernet tìm cách thoát thân bằng cách trèo lên những sườn núi dốc về phía Ebersdorf và Streckenwalde. Trong khi đó, các sư đoàn Philippon và Dumonceau, vẫn đang chiến đấu tại Kulm, rơi vào tình thế tuyệt vọng sau khi pháo binh Pháp, dù đã kiên cường chặn đứng quân địch trong một thời gian dài, cuối cùng bị tan rã. Khi pháo binh rút chạy trong hỗn loạn, bộ binh Pháp bị tán loạn và bị kỵ binh địch truy kích từ hai phía, không còn lựa chọn nào khác ngoài việc hạ vũ khí đầu hàng.

Trong lúc này, Quân đoàn Kleist phải đối mặt với áp lực nặng nề từ các đội hình Pháp đông đảo hơn, những đơn vị đã quay lại theo lệnh của Vandamme để mở đường rút lui. Lữ đoàn Pirch, đơn vị đầu tiên tấn công, đã chiếm được Ober-Arbesau, nhưng cánh phải của họ ở khu vực con đường chính nhanh chóng rơi vào tình thế nguy hiểm khi các lực lượng Pháp vượt trội tìm cách xuyên qua khu vực này. Lữ đoàn Zieten, vừa đến tiếp viện, cũng chỉ giúp giảm bớt áp lực trong thời gian ngắn. Pháp, với ưu thế về pháo binh, đã đẩy lùi cánh phải quân Phổ và chọc thủng trận tuyến, trong khi cánh trái quân Phổ cũng bị quân địch từ hướng Nieder-Arbesau đánh tan tác.

Tình cảnh của Lữ đoàn Thái tử August xứ Phổ , đơn vị cuối cùng mà Kleist còn có trong tay, cũng không khá hơn. Trung đoàn Landwehr Schlesien 10 , được lệnh tấn công vào Nieder-Arbesau, hoàn toàn mất tinh thần và rút chạy trong hỗn loạn. Đại tá , Công tước Christian cố gắng ngăn chặn hỗn loạn nhưng thất bại và ông đã tử trận . Các Landwehr bỏ chạy cũng khiến Trung đoàn Bộ binh Schlesien , số 2 hoảng loạn mà chạy theo . Thái tử August tự tay mình cầm lá quân kỳ của trung đoàn, cố gắng ngăn chặn sự hoảng loạn nhưng rốt cuộc cũng bị đẩy vào tình thế nguy hiểm. Thiếu tướng Kleist suýt bị bắt sống, chỉ kịp thoát thân trong gang tấc.


Cuối cùng, một cuộc tấn công liều lĩnh từ Sư đoàn kỵ binh Corbineau đã phá tan Quân đoàn Kleist, chia cắt họ thành hai phần ở phía đông và tây của con đường chính—quân Pháp đã thành công trong việc chọc thủng vòng vây. Như vậy, chính Quân đoàn II. dù đã góp phần quyết định cục diện trận chiến nhưng lại phải hứng chịu một thất bại về mặt chiến thuật.

Đến 2 giờ chiều thì Quân đoàn Vandamme đã bị loại khỏi vòng chiến . Mọi đơn vị tác chiến của quân Pháp đều tan rã và chạy tán loạn lên đồi núi. Những ai may mắn thoát được về phía bắc cuối cùng cũng sẽ rơi vào tay lực lượng chặn hậu của Zieten, lúc đó đang hành quân hết lực từ Jungferndorf về Nollendorf. Trong khi đó, tại Nieder-Arbesau, Kulm và Schande, hơn 4.000 binh sĩ đã bị quân Áo bắt làm tù binh.

Vandamme, người đã đứng trên đỉnh Horka lâu nhất có thể, cuối cùng đã bị bắt sống bởi các đơn vị Jäger của Nga khi cố gắng chạy trốn vào thung lũng Sernitz gần đó.


Tổng cộng liên minh đã bắt giữ khoảng 8.000 đến 10.000 binh sĩ, bao gồm nhiều sĩ quan cao cấp . Chiến lợi phẩm thu được gồm 2 con đại bàng, 5 lá cờ và 82 khẩu pháo.

Tổn thất của phe Liên minh thường được ước tính khoảng 3.500 người, nhưng con số này rõ ràng là quá thấp so với thực tế , khi Quân đoàn II. của Phổ đã bị đánh vỡ trận .

Trong khi đó, Thống chế Saint-Cyr vẫn ở Reinhardtsgrimma, chờ nhận chỉ thị tiếp theo từ Hoàng đế. Mãi đến 11 giờ 30 sáng thì lệnh mới được gửi đến, yêu cầu Quân đoàn XIV tiến quân theo hướng giữa Marmont và Vandamme để hỗ trợ lực lượng này. Theo đó, Saint-Cyr bắt đầu hành quân về phía Glashütte vào khoảng giữa trưa, lúc đó thì ông nghe thấy tiếng pháo dội tới từ một hướng không xác định (rất khó xác định hướng của âm thanh dội tới khi ở giữa thung lũng đồi núi). Ông cho quân đoàn của mình tiếp tục hành quân , nhưng với tốc độ nhanh nhất có thể .

Khi đến Lauenstein thì họ gặp tàn quân của các sư đoàn Philippon và Mouton-Duvernet lúc đó đang bị Cossack đuổi theo . Saint-Cyr tiếp nhận những đơn vị này vào đội hình của mình. Do quân đoàn của Kleist cũng vỡ trận ,và bởi không nhận được tin tức từ cấp trên nên ông không nắm rõ tình hình trận chiến. Bởi Quân đoàn II. đã  không đạt được thành công trong các đòn tấn công của mình , sau đó lại bị địch đánh tan nên ai cũng tin rằng họ đã bại trận. Các nhóm tàn quân chạy loạn mà không biết phải đi về hướng nào . Một số nhóm chạy về hương các dãy núi, trong khi những nhóm khác tháo chạy về Letschen với hy vọng có thể vượt sang bờ bên kia sông Elbe.

Trong sự hỗn loạn ấy các nhóm của quân Phổ và quân Pháp thậm chí còn chạy cùng nhau và đóng trại ngay sát nhau vào buôi đêm. Bọn họ thậm chí còn tự thỏa thuận với nhau rằng khi có tin tức về kết quả trận chiến vào ngày hôm sau thì bên thất bại sẽ chấp nhận làm tù binh của bên kia.

Thiếu tướng von Kleist cũng mất liên lạc với quân đoàn của mình và đi lạc vào vùng núi. Sau khi đi đường vòng thì ông quay trở lại đường Nollendorf , tại khu vực giữa Nollendorf và Jungferndorf, ông gặp các tướng von Zieten và von Diebitsch. Chính tại đây thì ông nhận được tin tức đầy bất ngờ về chiến thắng rực rỡ mà liên minh đã giành được. Ông lập tức quay lại chiến trường, nhưng đã bỏ lỡ cơ hội gặp Quốc Vương, người lúc â đang tìm ông để nói lời cảm ơn vì vai trò quyết định của ông trong trận chiến.

Sau trận chiến tại Dresden , khó có thể khẳng định rằng Napoleon có ý định chuyển hẳn chiến trường chiến trường chính sang vùng núi Böhmen, vì tình hình chung trong những ngày gần đây đã chuyển biến bất lợi đối với ông, đặc biệt sau thất bại của Oudinot tại Großbeeren. Nếu Macdonald cũng gặp phải một thảm họa tương tự, thì một chiến dịch tấn công kéo dài vào Böhmen sẽ không phải là lựa chọn khôn ngoan. Khi đó, sự hiện diện của Hoàng đế tại mặt trận phía bắc và phía đông là điều cần thiết để khôi phục thế trận có lợi hơn.

Trong trường hợp này, mục tiêu chính của Napoleon chỉ đơn giản là khai thác tối đa chiến thắng tại Dresden bằng một cuộc truy kích quyết liệt, làm tê liệt đạo quân chủ lực của liên minh trong vài tuần, qua đó tạo điều kiện để ông có thể chuyển hướng sang đối phó với Tập đoàn quân Schlesien hoặc Tập đoàn quân Bắc mà không bị quấy rối sau lưng.

Ông giao nhiệm vụ truy kích trên ba tuyến đường cho Murat và Marmont, đồng thời dẫn ba quân đoàn tiến quân theo đường Teplitz để chặn đầu các đội hình đang rút ra từ các thung lũng . Nếu kế hoạch này thành công, Tập đoàn quân Böhmen khó có thể tránh khỏi sự hủy diệt, trong khi bản thân Napoleon có thể quay lại từ Böhmen trong vòng vài ngày để tính sổ với Blücher và Bernadotte .

Kế hoạch này tỏ ra không thể thực hiện được sau khi Napoléon đích thân trinh sát khu vực Dohna và Pirna. Từ những quan sát thực địa và báo cáo nhận được, ông đi đến kết luận rằng liên minh không rút về hướng Teplitz, mà chủ yếu di chuyển về phía tây nam, hướng tới Marienberg và Annaberg.

Do đó, cuộc truy đuổi của ba quân đoàn theo ngã Teplitz đã trở thành một ''cú đấm vào không khí'' , Trước tin xấu từ mặt trận Mark và mặt trận Schlesien vào chiều ngày 28, ngay cả bản thân Hoàng Đế cũng chưa rõ sẽ hành động như thế nào. Trước mắt, ông ra lệnh cho Vệ Binh Đế Chế dừng truy đuổi và quay trở lại Dresden. Trong khi đó, Vandamme vẫn tiếp tục hành quân về Teplitz, nhưng nhiệm vụ của ông không còn là giáng một đòn quyết định để tiêu diệt quân chủ lực của liên minh và kết thúc chiến tranh. Thay vào đó, chiến dịch của ông thu hẹp lại thành một hoạt động quân sự quy mô nhỏ, mà ngay cả khi thành công, cũng chỉ có tác động tạm thời đến cục diện chiến tranh. Nhưng Napoléon đánh giá rằng như vậy là đủ để gây tê liệt đạo quân chủ lực của liên minh .

Trên thực tế thì đúng là tình hình đã nghiêm trọng đến mức tại HQ Áo, các tướng lĩnh đã đánh giá tình thế là vô cùng nguy cấp. Bản thân khối Liên minh lúc này cũng đang đứng trước nguy cơ tan rã . Napoléon biết rõ điều này thông qua các cuộc đàm phát bí mật với Metternich , vốn chưa bao giờ hoàn toàn chấm dứt, lại được khởi động một lần nữa. Sau trận Dresden, Metternich đã bí mật đề xuất với Hoàng đế Pháp rằng Prag nên được tuyên bố là vùng trung lập và trở thành địa điểm cho các cuộc đàm phán hòa bình mới.

Chính vì thế nếu đứng từ góc nhìn của Napoléon thì việc đưa Vệ Binh Đế Chế quay lại Dresden để sẵn sàng cứu viện cho hướng Bắc hoặc hướng Đông là hoàn toàn hợp lí . Và vô tình thì điều này đã khiến quân đoàn của Vandamme đã bị tiêu diệt trong trận Kulm . Câu hỏi là vì sao Vandamme lại không có tin tức gì về Vệ Binh Đế Chế ?

Như đã đề cập trước đó, Tướng Pajol, chỉ huy tiền quân của Quân đoàn XIV, đã mắc sai lầm trong việc xác định đường rút của Quân đoàn Kleist. Kết quả là bởi quân Phổ chuyển sang đường Glashütte nên Kleist đã không bị truy kích, cho phép quân Phổ thoải mái hành quân đến Nollendorf vào ngày 30 tháng 8 để đánh vào sau lưng Vandamme .

Như vậy, chính sự nhầm lẫn của Pajol là nguyên nhân chính dẫn đến kết cục thảm khốc cho Vandamme. Tuy nhiên, có thể thông cảm cho sai lầm của viên tướng này, vì địa hình rừng núi rậm rạp và tầm nhìn hạn chế khiến việc xác định chính xác hướng di chuyển của quân địch trở nên khó khăn. Ngoài ra, Pajol có thể đã cho rằng đèo Glashütte quá khó khăn để một quân đoàn lớn có thể vượt qua, từ đó tin rằng đối phương sẽ hành quân theo hướng Altenberg thay vì Glashütte. Bản thân Vandamme cũng không tin rằng cả một quân đoàn của địch sẽ băng qua tuyến đường núi cao để ập vào lưng của mình . 


Về công lao chiến thắng của các lực lượng liên minh , Quốc Vương và Sa Hoàng Nga xứng đáng được ghi nhận vì đã nhanh chóng nhận định đúng tình hình và đưa ra các biện pháp kịp thời để ngăn chặn thảm họa đang cận kề. Các tướng lĩnh và binh sĩ Nga - Áo , nhất là sư đoàn của Tolstoy đáng được tôn vinh vì đã chiến đấu với lòng dũng cảm và tinh thần hy sinh cao cả để hoàn thành nhiệm vụ của họ .

Quyết định cực kỳ táo bạo của ban chỉ huy Quân đoàn II. khi họ hành quân qua núi qua Nollendorf để đánh vào lưng địch—chính là yếu tố quyết định dẫn đến sự hủy diệt của quân đoàn Vandamme. Nếu không có sự xuất hiện của Quân đoàn Phổ thì ngay cả khi thất bại, Vandamme vẫn có thể rút lui an toàn vào vùng núi. Và với tài năng chỉ huy cùng tinh thần chiến đấu của quân sĩ , chắc chắn ông ta sẽ tổ chức một cuộc rút lui có trật tự. Thực tế, khi đường thoát bị quân Phổ chặn lại, Vandamme và binh sĩ đã chiến đấu hết sức kiên cường để tìm cách phá vây, minh chứng cho khả năng lãnh đạo và ý chí của họ. Không rõ liệu Kleist , thay là tham mưu trưởng của ông - Grolmann là người đưa ra quyết định hành quân đến Nollendorf bởi sau chiến tranh thì cả hai đều tuyên dương lẫn nhau . Để tuyên dương chiến thắng này thì về sau Quốc Vương đã gọi cựu chỉ huy Quân đoàn II. là ''Kleist từ trận Nollendorf'' (Kleist von Nollendorf) .

7. Katzbach

Tại sườn phía Đông của Napoléon , Tập đoàn quân Schlesien của Blücher gồm Cụm quân đoàn Langeron , Cụm quân đoàn Sacken và Quân đoàn I. của Yorck phòng thủ căn cứ kháng chiến của Phổ tại tỉnh Schlesien . Sức mạnh của lực lượng này vào khoảng 66 500 quân Nga , 38 500 quân Phổ , 14 000 kỵ binh chiến tuyến , 10 000 Cossack và 339 khẩu pháo .

Mặc dù được Sa Hoàng lựa chọn (theo gợi ý của Barclay) nhưng những nghi ngờ về khả năng của Blücher trong vai trò làm chỉ huy tập đoàn quân không những đến từ phía Nga và còn đến từ phía Phổ . Ông bị chỉ trích vì xuất thân chủ yếu từ kỵ binh, thiếu hiểu biết về các binh chủng khác, không có nền tảng quân sự lý thuyết vững chắc và không thông thạo tiếng Pháp – điều quan trọng khi làm việc với các tướng lĩnh Nga. Ngoài ra, tuổi tác cao, tình trạng sức khỏe không ổn định, cùng sở thích rượu và cờ bạc cũng bị xem là trở ngại lớn. Tất cả những lo ngại này không phải là không có cơ sở; tuy nhiên, nếu sau này chúng tỏ ra không có ý nghĩa quan trọng, thì đó là vì bên cạnh những điểm yếu không thể phủ nhận của Blücher, ông còn sở hữu một loạt phẩm chất ưu việt, khiến ông trở thành người phù hợp hơn bất kỳ ai khác cho vị trí mà lòng tin của Quốc Vương đã giao phó cho ông.

Trước hết, Blücher là vị tướng mà người dân và binh sĩ đặt trọn niềm tin. Niềm tin này bắt nguồn từ việc ông luôn chứng tỏ mình là một sĩ quan xuất sắc trong mọi hoàn cảnh. Ngay cả trong những chiến dịch ít vinh quang tại Champagne và sông Rhein, cũng như trong thảm họa năm 1806, ông không chỉ bảo toàn danh dự cho bản thân và đơn vị dưới quyền mà còn giành được một số chiến công nhỏ, đủ để khôi phục lòng tự tin đã bị mai một của binh sĩ. Điều này khiến hình ảnh của ông càng rực rỡ hơn khi so sánh với sự yếu kém của hầu hết các tướng lĩnh khác.

Niềm tin vào Blücher càng được củng cố bởi thực tế rằng ngay cả trong những thời kỳ đen tối nhất của nước Phổ, ông chưa bao giờ mất hy vọng vào một tương lai tươi sáng hơn. Không ai khác ngoài ông đã luôn giương cao ngọn cờ hy vọng về sự khôi phục huy hoàng của quốc gia và lan tỏa niềm tin vào chiến thắng cuối cùng của chính nghĩa đến khắp mọi tầng lớp. Vì vậy, khi Scharnhorst viết thư cho ông vào năm 1808: "Ngài là thủ lĩnh và anh hùng của chúng tôi, ngay cả khi ngài phải được khiêng đi trên cáng thì cũng chỉ với ngài, chúng tôi mới có được quyết tâm và chiến thắng!", ông đã khái quát tất cả những gì tinh hoa của đất nước cảm nhận, những gì quân đội nghĩ và mong mỏi. Hơn nữa thì vị tướng già cũng là một người rất ''văn vở'' , mặc dù khi cầm bút ông còn không thể viết đúng ngữ pháp chính tả nhưng khi đọc diễn văn thì lại chọn được những từ ngữ rất mạnh mẽ trước trận đánh giúp nâng cao tinh thần của các binh sĩ . Nói tóm lại thì Blücher là người rất được lòng dân và quân khi ấy .

Blücher là một người có tính cách rất tự tin và khinh thường đối thủ , ông thù ghét và nguyền rủa Napoléon và từ chối tin rằng quân đội Pháp mạnh hơn quân đội Phổ , thậm chí là sau thảm họa vào năm 1806 . Ông luôn luôn tin rằng chỉ cần có một cuộc cải tổ về giới lãnh đạo quân đội thì sẽ đánh thắng được Pháp và ông luôn luôn chờ ngày chỉ huy quân Phổ trực tiếp đánh trận với quân Pháp để đòi lại món nợ năm 1806 . Ngoài ra thì ông còn có tính cách rất máu lửa và quả cảm , ông không bao giờ bị mất tinh thần sau mỗi trận thua và thường có xu hướng tấn công* , đúng với điển hình về một sĩ quan Phổ .

*Chính vì thế mà sau người ta gọi ông với biệt danh Marshall Vorwärts - Thống chế tiến công .

''Quân đội Phổ luôn luôn tiến công'' - Friedrich Đại Đế

''Blücher là một chiến binh quả cảm và trông rất ra dáng một kiếm sĩ . Ông ta giống như một con bò liên tục liếc mắt xung quanh , và một khi cảm thấy nguy hiểm , liền lập tức lao về phía trước . Ông ta đã mắc hàng ngàn sai lầm và nếu như không phải vì hoàn cảnh khác thì lẽ ra ta đã bắt sống ông cùng thuộc hạ rồi . Ông ta rất ngoan cường và không hề biết mệt mỏi , sợ hãi và rất yêu nước . Ông ta không có bất cứ tài cầm quân nào . Ta nhớ lại thời ta còn ở Phổ khi ăn tối cùng với ông ta sau khi ông trở thành tù binh , vào thời điểm đó thì ông được xem là một yếu nhân . Mặc dù vậy thì ta không thể nào không công nhận tướng Blücher . Lão già ấy luôn luôn tấn công ta một cách rất dữ dội . Thậm chí sau khi bị đánh cho thua tan tành thì kiểu gì lão cũng sẽ quay lại vào ngày hôm sau và tiếp tục tấn công .'' - Hồi ký của Napoléon .


Mặc dù Blücher rất giỏi đánh hơi những tình huống quyết định trong một trận đánh nhưng ông thường hay quên mất đi nhiệm vụ của mình trong tổng thể chiến dịch (ông hầu như còn chẳng xem bản đồ!) . Cũng giống với các sĩ quan Phổ điển hình khác , không phải cứ cắm đầu vào tấn công địch thì chắc chắn sẽ thành công mà các mũi tấn công ấy phải có được sự thống nhất và tương hỗ lẫn nhau . Nhiệm vụ chỉ đường dẫn nước và mách nước cho tư lệnh được giao cho các ban tham mưu , đứng đầu bởi một tham mưu trưởng . Hệ thống tham mưu chiến trường là một thứ hoàn toàn mới mẻ vào thời điểm ấy và thậm chí những cha đẻ của hệ thống này còn bị tố cáo là bọn  ''Liberal'' , ''Jacobins'' .


Ngạc nhiên thay , mặc dù Blücher rất tự tin vào khả năng của mình nhưng ông lại là một trong số các sĩ quan đầu tiên của Phổ nhận ra tầm quan trọng của hệ thống tham mưu chiến trường . Trong chiến dịch 1806 , bằng cách nghe theo lời khuyên của Scharnhorst* thì cánh quân của ông đã đánh thắng quân Pháp tại Lübeck và sau đó thì được đầu hàng trong danh dự . Giờ đây thì Blücher cũng làm giống như trong chiến dịch năm 1806 , dù bên ngoài có những nghi ngờ về năng lực cầm quân nhưng vấn đề này có thể được khắc phục bởi ông có bên mình một ban tham mưu để chỉ đường mách nước ,  đứng đầu bởi chính Tổng Tham mưu trưởng quân đội - Thiếu tướng Gneisenau .

*Sau thảm họa đôi tại Jena-Auerstadt thì Scharnhorst đã đồng hành cùng Blücher và hành động hệt như một tham mưu trưởng trên chiến trường hiện đại .

Trong chiến dịch thì ban tham mưu của Gneisenau luôn luôn cập nhật tin tức và đưa ra những phân tích chiến lược dành cho Blücher* . Blücher chỉ cần hiểu rõ ý đồ của Bộ Tổng Tham mưu và biến ý đồ này thành mệnh lệnh thực tế . Khó khăn lớn nhất là ông phải tin tưởng vào Gneisenau , khi phải đối diện với những yêu cầu từ cả Schwarzenberg và từ phía Nga bởi nhiều lúc ý đồ của họ làm trái với Bộ Tổng Tham mưu .

*: Do đó ở những phần bên dưới khi tôi viết là ''theo nhận định của Blücher'' thì khả năng cao trên thực tế đó là những nhận định của Bộ Tổng Tham mưu còn Blücher chỉ là người có trách nhiệm ban hành mệnh lệnh và thông báo với Bộ chỉ huy tối cao của liên minh .


Nếu như Blücher là một quý tộc cổ điển với những đức hạnh và điểm yếu điển hình từ thời Friedrich thì Gneisenau lại là một người tri thức có xu hướng cấp tiến điển hình của thế kỷ 19 . Gneisenau luôn luôn đặt nặng sức mạnh tri thức từ khi còn nhỏ và nhờ đó thì ông đã kết giao với các nhà tri thức khác vào thời ấy , bao gồm Scharnhorst . Nếu như Scharnhorst là một người anh trong mắt của Gneisenau thì Napoléon lại là người thầy của mình , ông nghiên cứu các chiến dịch của Napoléon để đóng góp trong việc cải cách quân đội Phổ . Không những thế thì Gneisenau lại thường xuyên đi ra nước ngoài để nghiên cứu và học hỏi . Có thể nói vào thời điểm diễn ra chiến dịch mùa thu thì Gneisenau thuộc hàng sĩ quan tri thức nhất trong biên chế của quân đội Phổ , một người không thể nào thích hợp hơn để làm tham mưu cho Blücher.


Ngày ấy các sĩ quan tham mưu của Phổ mặc quân phục với áo khoác màu nước biển để phân biệt với các sĩ quan khác.

Đại tá von Müffling được bổ nhiệm làm Tổng Quân nhu trưởng . Bản thân Müffling đã được đào tạo bởi chính tay Scharnhorst nên ông có thể và sẵn sàng làm phụ các công việc để trợ giúp cho Gneisenau . Một vài sĩ quan nổi bật khác trong Bộ Tổng Tham mưu là Thiếu tá von Lilienstern - người sau này sẽ giữ các vị trí khác nhau trong Bộ Tổng Tham mưu , bao gồm cả Tham mưu trưởng ; Đại úy von Scharnhorst - con trai của cố Trung tướng Scharnhorst ; Thiếu tá von Oppen - người đã đề xướng cải cách các chiến thuật kỵ binh ; Tổng Ủy viên Ribbentrop - đảm nhiệm việc cung cấp lương thực cho quân đội .

Ngoài Bộ Tổng Tham mưu thì Blücher còn mời gọi các quan chức ngoài ngũ khác để làm cố vấn về các vấn đề ngoài quân sự , ví dụ Thẩm án Eichorn , Cố vấn Chính phủ Hädel , Giáo sư Raumer và Giáo sư Steffens .

Như vậy có thể thấy bộ tư lệnh Tập đoàn quân Schlesien là một bộ tư lệnh tập đoàn quân theo kiểu hiện đại , hoàn toàn đủ khả năng đưa ra các quyết định tác chiến hiệu quả . Nhưng vấn đề lại nằm ở chỗ phần lớn các đơn vị chiến đấu lại là các quân đoàn của Nga . Các cụm quân đoàn của Langeron và Sacken đều không có tinh thần chiến đấu hăng hái như quân Phổ , bởi vì không những họ phải chiến đấu trong một tập đoàn quân ''phụ'' mà họ còn bị đặt dưới quyền một sĩ quan Phổ . Các đơn vị này chỉ chiến đấu vì Sa Hoàng lệnh cho họ , ngược lại thì quyền chỉ huy tập đoàn quân đúng ra phải trao vào tay một sĩ quan Nga - những người vừa giành chiến thắng trong chiến dịch 1812 chứ không phải là một sĩ quan đến từ một nước nhỏ mà chính sự tồn vong của nước ấy lại phụ thuộc vào lòng thương của Sa Hoàng !

Người thể hiện sự khó chịu rõ ràng nhất là Bá tước Langeron , bởi vì ông đã từng làm chỉ huy một cánh quân độc lập trong cuộc chiến gần nhất với Thổ Nhĩ Kỳ còn Blücher thì chỉ có rất ít kinh nghiệm cầm quân . Bản thân Langeron là một người lớn lên từ một gia đình quý tộc Pháp , được rèn giũa trong môi trường giáo dục thì ông xem thường những phẩm chất của Blücher và cho rằng đó là di sản của thời kỳ cũ , Langeron cho rằng một nhà cầm quân giỏi là một người phải am hiểu về lý thuyết quân sự và đã trải qua môi trường tri thức. Cũng giống với Napoléon , Langeron gọi Blücher là ''Kiếm sĩ già'' và đối ngược lại với tính cách máu lửa của sỹ quan người Mecklenburg thì ông tiến quân rất cẩn trọng . Langeron thường chỉ làm theo các chỉ thị bí mật từ Barclay , tin rằng mình được Sa Hoàng bổ nhiệm để ngăn không cho Blücher làm những chuyện ''điên rồ'' .

Tiếp theo là tướng Osten-Sacken , một người có tính cách khá lười nhác , không tha thứ cho binh lính và thậm chí là chính bản thân mình ,ngoài ra thì ông rất thích phản bác và thường xuyên bất tuân thượng lệnh . Để có được sự hỗ trợ đắc lực bởi Sacken thì cần phải nói chuyện rất khéo léo .

Như vậy thì Blücher chỉ có thể trông cậy vào Quân đoàn I. của Phổ , không chỉ vì vị tướng già rất nổi tiếng trong quân ngũ mà còn bởi các binh sĩ tràn đầy khao khát giải phóng Tổ quốc . Tuy nhiên mọi chuyện không đơn giản như vậy , bởi vì chỉ huy quân đoàn - Trung tướng Ludwig von Yorck không có quan hệ cá nhân tốt với cả Blücher và Gneisenau . Trong mắt của Yorck thì  Blücher ngoài dũng cảm ra thì không có năng lực cầm quân . Thực ra thì Yorck đã đoán rằng thực tế một người như Blücher được bổ nhiệm chỉ vì được lòng dân và quân chứ ông không có khả năng cầm quân , như vậy thì quyền lực thực tế không phải nằm trong tay Blücher mà lại nằm trong tay Bộ Tổng Tham mưu . Trong mắt Yorck - một người bảo thủ thì Gneisenau - một người cấp tiến , dù rất nhiệt huyết trong việc đánh bại quân Pháp , nhưng đầu óc người này toàn chứa những thứ lý thuyết không thực tiễn nên xứng đáng để làm một nhà lý luận hơn là một sĩ quan quân ngũ . Yorck cho rằng bản thân mình mới xứng đáng để chỉ huy tập đoàn quân hơn bởi vì mình có nhiều kinh nghiệm chỉ huy thực tiễn và thậm chí còn được người Pháp tuyên dương trong chiến dịch 1812 . Là người kí kết hòa ước Tauroggen - mở đầu các phong trào giải phóng dọc khắp Đức thì lẽ ra Yorck mới phải là người cầm cờ chứ không phải là Blücher . Cũng có thể hiểu được vì sao Yorck lại không hài lòng khi chỉ được bổ nhiệm làm chỉ huy một quân đoàn thuộc một tập đoàn quân phụ .  Ngoài ra thì Yorck là một người rất nghiêm túc và khắt khe , được cấp dưới tôn trọng .

Theo kế hoạch Trachenberg , Tập đoàn quân Schlesien được giao nhiệm vụ bám sát các lực lượng Pháp đang đóng tại Schlesien và Lausitz nếu họ rút lui về sông Elbe. Lực luộng này phải vượt sông và hợp lực với tập đoàn quân của Vương thái tử Thụy Điển ở tả ngạn Elbe .

Nhiệm vụ chung này sau đó được bổ sung bằng một mệnh lệnh mật mà Barclay trao cho Blücher vào ngày 9 tháng 8. Theo đó, Blücher phải truy kích quân Pháp và gây tổn thất tối đa cho họ, nhưng phải tránh bất kỳ cuộc giao tranh trực diện nào với một lực lượng địch áp đảo, ngay cả khi điều đó buộc ông phải rút lui về phía sau sông Oder, thậm chí đến các pháo đài kiên cố tại sông Neiße. Đây là một trong những nhiệm vụ khó khăn và nặng nề nhất mà một tập đoàn quân có thể phải thực hiện. Ngay từ đầu, có thể thấy rằng việc vừa phải duy trì bám đuôi địch , lại vừa phải tránh giao chiến trực tiếp, sẽ dẫn đến một chuỗi dài những cuộc hành quân căng thẳng. Điều này đòi hỏi mức độ linh hoạt cao nhất trong công tác bảo đảm hành quân, thiết lập tiền đồn cũng như khả năng tự chủ và nhạy bén của các chỉ huy cấp dưới . Điều đáng lo ngại nhất là, do bộ chỉ huy hoàn toàn phụ thuộc vào động thái của đối phương và nhiệm vụ phải được giữ tuyệt mật, nên các mệnh lệnh đưa ra có thể dễ dàng bị hiểu lầm nếu chỉ huy thiếu quyết đoán và không rõ ràng về mục tiêu. Điều này có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng, nhất là khi lòng tin vào bộ chỉ huy vẫn chưa vững chắc và cấu trúc của các đơn vị quân đội còn khá lỏng lẻo . Do đó, có thể hiểu được tại sao ban đầu Blücher đã thẳng thừng từ chối nhận chức tư lệnh Tập đoàn quân Schlesien . Ông chỉ đồng ý sau khi Barclay cam đoan rằng mệnh lệnh không phải lúc nào cũng phải tuân thủ một cách cứng nhắc và rằng trong những điều kiện thuận lợi, ông vẫn có thể tiến hành tấn công và tìm cách đánh bại đối phương. 

Ở phía bên kia chiến tuyến thì các lực lượng của Pháp đồn trú tại tỉnh Schlesien được chỉ huy bởi Thống chế Ney , biên chế bao gồm : Quân đoàn III (Ney) , Quân đoàn V (Lauriston) , Quân đoàn VI (Marmont) và Quân đoàn kỵ binh II (Sebastinani) - tổng cộng 130 000 người . Kể từ ngày 15.8 thì tên gọi của lực lượng này là Tập đoàn quân sông Bober - Armée de Bober .

Trong khi Thượng Schlesien nằm trong tay của liên minh thì Hạ Schlesien và Lausitz đã bị quân Pháp khai thác cạn kiệt ngay trong thời kỳ đình chiến . Vùng trung lập nằm giữa hai khu vực này vẫn hoàn toàn không bị ảnh hưởng. Do tình hình tiếp tế khó khăn, điều quan trọng bậc nhất đối với cả hai bên là nhanh chóng chiếm được những kho lương thực và cỏ khô trong khu vực này.

Blücher, được Barclay đặc biệt khuyến nghị phải chiếm đóng vùng trung lập một cách nhanh chóng, đã quyết tâm sử dụng bất kỳ hành động vi phạm biên giới nào của đối phương làm cái cớ để tiến quân vào khu vực này. Ông càng quyết tâm hơn vì việc này sẽ ngăn cản Tập đoàn quân Böhmen rút lui dưới sự che chở của vùng trung lập mà không bị phát hiện, rồi bất ngờ đánh vào sườn Tập đoàn quân Böhmen .

Do đó, khi vào ngày 13, từ nhiều nguồn khác nhau báo cáo về việc các đội tuần tra, các toán tiếp tế và những đơn vị nhỏ khác của quân Pháp xuất hiện trong vùng trung lập, Blücher đã ra lệnh cho quân mình tiến công trên toàn mặt trận vào ngày hôm sau. Trên đường tiến quân, họ không gặp phải sự kháng cự nào đáng kể; ngược lại, có vẻ như Bộ chỉ huy Pháp hoàn toàn không có ý định tấn công, thậm chí còn có dấu hiệu cho thấy họ dự định rút lui về phía sau sông Katzbach.

Do đó, cuộc hành quân tiếp tục, và đến sáng ngày 17 — thời điểm mà lệnh đình chiến chính thức hết hiệu lực — lực lượng tiền quân của bốn quân đoàn đã áp sát biên giới phía tây của vùng trung lập. Bước tiến dữ dội của Blücher rõ ràng đã khiến quân Pháp bất ngờ; họ không kháng cự quyết liệt, mà cố gắng rút lui theo hướng Zobten, Löwenberg và Bunzlau để tới sông Bober. Những địa điểm này cũng mục tiêu hành quân cho các quân đoàn của Tập đoàn quân Schlesien vào các ngày 19 và 20, vì từ hành động của đối phương, tập đoàn quân cho rằng quân Pháp có ý định hoàn toàn rút khỏi Schlesien.

Tối ngày 20 , lực lượng của Blücher đã hành quân tới những vị trí quan trọng:

-Cụm quân đoàn Sacken trước Bunzlau,

-Quân đoàn Yorck với tiền quân tại Plagwitz và Braunau, chủ lực tại Ludwigsdorf,

-Cụm quân đoàn Langeron tại Zobten,

-Quân đoàn St. Priest (tạm thời do Pahlen chỉ huy) tại Hirschberg.


Theo các tin tức nhận được vào sáng sớm ngày 21, quân địch đã rút khỏi Bunzlau ở cánh trái của chúng, đồng thời cho nổ tung các công sự được xây dựng trong thời kỳ đình chiến, phá hủy một phần và rào chắn một phần các cây cầu tại Löwenberg. Quân Pháp cũng đã rút phần lớn lực lượng đóng tại Lähn và Berthelsdorf.

Bộ chỉ huy tối cao Tập đoàn quân Schlesien do đó tin rằng có thể vượt qua sông Bober mà không gặp phải sự kháng cự nghiêm trọng nào. Tuy nhiên, cũng có những báo cáo khác cho thấy điều ngược lại. Người dân địa phương đồn đại rằng Napoleon được chờ đợi sẽ tới Löwenberg. Người ta đã nhìn thấy quân phục của kỵ binh Cận vệ Hoàng gia Pháp, và Pahlen báo cáo rằng ông đã chạm trán với các đơn vị của Sư đoàn Vệ binh trẻ gần Greiffenberg.

Do thời tiết mưa lớn khiến việc quan sát bờ trái sông Bober trở nên bất khả thi, nên để làm rõ tình hình của địch, vào sáng sớm ngày 21, Blücher ra lệnh cho một đội quân nhỏ gồm hai kỵ đội Khinh kỵ và một số bộ binh vượt qua sông Bober bằng cây cầu vừa được khôi phục tại Sirgwitz, tiến về hướng Löwenberg .Tuy nhiên, ngay sau khi vượt qua sông, đơn vị này đã đụng phải lực lượng áp đảo thuộc Quân đoàn Marmont, đến mức họ chỉ có thể quay về bờ phải sông với rất nhiều khó khăn.

Khoảng 8 giờ sáng, thời tiết quang đãng hơn một chút, và từ đồi Weinburg đối diện Löwenberg, người ta có thể thấy rõ ràng một hoạt động náo nhiệt trong hàng ngũ quân Pháp ở bên kia sông Bober. Các lực lượng tăng viện mạnh đang tiến về phía con sông, và Tirailleurs đã được đẩy lên đến tận bờ sông. Điều này cho thấy quân Pháp đang chuẩn bị cho một cuộc giao tranh lớn.

Khoảng 9 giờ sáng, người ta nghe thấy rất rõ tiếng hô vang: Vive l'Empereur từ phía bên kia sông vọng lại. Tiếng hô dứt khoát và đầy khí thế ấy đã xóa tan mọi nghi ngờ — Hoàng đế Napoleon thực sự đã có mặt tại chiến trường. Điều đó báo hiệu rằng một trận đánh lớn sắp sửa nổ ra, và quân Pháp đã sẵn sàng cho cuộc đối đầu.

Không lâu sau, những cuộc đụng độ lẻ tẻ giữa lực lượng tiền quân của hai bên bắt đầu. Những loạt súng đầu tiên vang lên, báo hiệu một ngày dài khốc liệt đang chờ đợi phía trước. Thung lũng sông Bober tại Löwenberg có chiều rộng thay đổi từ 400 đến 700 mét. Con sông ở đây chia thành hai nhánh. Bắc qua nhánh phía tây, được gọi là Mühlgraben, có một cây cầu gỗ đã bị quân Pháp phá hủy; còn bắc qua nhánh chính của sông Bober là một cây cầu đá, nhưng đã bị rào chắn kiên cố. Con đường dẫn tới Goldberg chạy về phía đông của sông Bober, đi qua một eo hẹp rộng khoảng 300 đến 400 mét, được tạo thành bởi các sườn núi dốc đứng của Luftenberg và Steinberg. Ở lối vào của eo hẹp này là làng Plagwitz kéo dài hơn 2000 mét.Nếu các sườn dốc của Steinberg và Weinberg được bố quân hợp lý, thì chúng sẽ tạo thành một vị trí phòng thủ rất mạnh mẽ. Tuy nhiên, điều này đã không xảy ra. Trên đỉnh Steinberg chỉ có một cánh quân Nga yếu, gồm 2 tiểu đoàn, 4  kỵ đội và 4 khẩu pháo, với các tiền đồn đóng ở sườn phía tây của ngọn núi, trong khi lực lượng chủ lực của Cụm quân đoàn Langeron vẫn còn ở Siebeneichen và Zobten.

Về Quân đoàn Yorck, tiền quân của họ đóng sát phía bắc Plagwitz, Lữ đoàn Mecklenburg đóng ở phía đông của Weinberg, với cánh phải kéo dài đến Braunau, còn lực lượng chủ lực thì đóng tại Ludwigsdorf. Bộ chỉ huy tối cao  Tập đoàn quân Schlesien cho rằng, với một vị trí phòng thủ cực kỳ mạnh mẽ ở chính diện, nguy hiểm chỉ có thể xảy ra nếu đối phương hỗ trợ cuộc tấn công bằng một đợt đột phá mạnh mẽ với lực lượng áp đảo nhằm vào một trong hai cánh quân. Trong trường hợp đó, Blücher đã quyết định tuân theo chỉ thị của Barclay và ngay lập tức ra lệnh rút lui. Các tướng lĩnh chỉ huy cũng đã được thông báo theo tinh thần này.

Mặc dù hầu như không còn nghi ngờ gì về ý định của quân địch, nhưng tại khu vực các Cụm quân đoàn Langeron và Yorck, các biện pháp đối phó cho một cuộc tấn công của đối phương lại được chuẩn bị quá ít ỏi, đến mức khi vào khoảng giữa trưa, Sư đoàn Maison thuộc Quân đoàn Macdonald bắt đầu vượt sông Bober bằng các lối lội cạn và qua những cây cầu đã nhanh chóng được khôi phục, thì điều này không thể bị ngăn chặn kịp thời. Chỉ trong thời gian ngắn, quân Pháp đã chiếm giữ được ngọn đồi Steinberg, từ đó họ có thể đánh vu hồi quân Nga đang đóng trên cao điểm gần các ngôi nhà ở Sauborn và, sau một cuộc giao tranh ngắn ngủi, đẩy lùi họ về Plagwitz.Trung tá von Lobenthal, chỉ huy tiền quân của Quân đoàn Yorck, từ ngọn đồi Weinberg đã quan sát thấy rằng phía Nga không có hành động gì để giữ vững vị trí quan trọng trên Steinberg, nên ngay lập tức ra lệnh cho một trong các tiểu đoàn của mình tiến lên để chiếm lại cao điểm này từ tay địch. Nhưng đã quá muộn! Trước khi tiểu đoàn có thể vượt qua con đường dốc từ Weinberg đến vị trí được chỉ định, quân Pháp đã kịp tăng viện đủ mạnh, đến mức không những đẩy lùi được cuộc tấn công của quân Phổ mà còn chiếm được cả làng Plagwitz.

Điều này khiến liên lạc giữa  Langeron và Yorck bị cắt đứt, và chỉ có một cuộc rút lui tức thời mới có thể cứu Tập đoàn quân Schlesien khỏi một thất bại hoàn toàn.

Trung tá von Lobenthal, người mà vị trí trên ngọn đồi Weinberg cho đến lúc này vẫn chưa bị tấn công, đã nhận định rất đúng đắn rằng, để đảm bảo cuộc rút lui, việc giữ vững Plagwitz là điều hoàn toàn cần thiết. Do đó, ông dần dần rút các tiểu đoàn của mình từ Weinberg xuống Plagwitz. Cùng với ý định đó, Blücher, lúc này đã có mặt trên chiến trường, lập tức điều Lữ đoàn Mecklenburg đến con đường chính để ngăn cản quân Pháp từ Plagwitz tiến ra theo hướng Goldberg. Do đó, một trận chiến ác liệt đã nổ ra ở lối ra từ Plagwitz. Sau khi cuối cùng được tăng viện bởi Quân đoàn bộ binh Kapzewitsch từ Zobten, họ đã thành công trong việc chặn đứng cuộc tấn công của địch, nhờ vậy mà tạo điều kiện cho Langeron và Yorck có đủ thời gian rút lui về Pilgramsdorf và Grödigberg . Khoảng 5 giờ chiều, các đơn vị đang chiến đấu tại Plagwitz cũng đã có thể rời khỏi trận địa. Dù bị đối phương truy kích quyết liệt, họ đã tập hợp được với lực lượng chủ lực của mình vào khoảng nửa đêm. Quân Pháp không truy đuổi xa hơn Deutmannsdorf.

Đêm ngày 22, Tập đoàn quân Schlesien, sau khi chịu tổn thất 51 sĩ quan và 2095 binh sĩ trong các trận chiến của ngày hôm trước, đã tập hợp lại phía sau dòng sông Schnelle Deichsel, giữa đường Bunzlau và đường Löwenberg. Chỉ có Quân đoàn St. Priest là vẫn còn ở Hirschberg. Phần lớn Tập đoàn quân Bober đã tập trung giữa Deutmannsdorf và Hartmannsdorf; Quân đoàn Marmont và Vệ binh vẫn đóng quân trên tả ngạn sông Bober.

Sau khi buộc phải rút lui trước lực lượng vượt trội của quân Pháp tại Löwenberg, Blücher không hề có ý định tiếp tục rút lui xa hơn mức cần thiết. Ông chỉ sẵn sàng rút từng bước trước quân địch mạnh hơn, trong khi chờ đợi thời điểm thích hợp để phản công — thời điểm mà ông tin sẽ sớm đến khi Tập đoàn quân Böhmen tấn công Dresden, buộc Napoleon phải điều quân chủ lực về sông Elbe. Để duy trì bám đuôi với quân địch, Blücher chọn vị trí phòng ngự thuận lợi phía sau dòng Schnelle Deichsel, nơi ông vừa có thể theo dõi các hoạt động của đối phương vừa sẵn sàng rút lui nếu cần. Tuy nhiên, kế hoạch này đã bị phá hỏng bởi hành động thiếu thận trọng của Langeron, khi ông ấy ra lệnh rút quân khỏi Pilgramsdorf sau một cuộc giao tranh nhỏ, khiến cả vị trí phòng thủ bị hở sườn và buộc Sacken lẫn Yorck phải rút về phía sau sông Katzbach. Nhận thấy quân địch không quá mạnh, Blücher lập tức ra lệnh cho Langeron quay lại vị trí cũ và chỉ thị Sacken cùng Yorck dừng việc rút lui. Để bảo vệ điểm vượt sông quan trọng ở Goldberg, Blücher bố trí quân chặn tại đây, đủ để ngăn cản một cuộc tấn công nghiêm trọng của quân Pháp.

Đến tối ngày 22, Blücher nhận được tin rằng một phần quân Pháp đã rút về Bunzlau, củng cố niềm tin của ông rằng đợt tiến công của quân địch chỉ là đòn nghi binh để che giấu việc rút lui của lực lượng chính (để tiếp viện cho hướng Dresden) . Do đó, ông quyết định phát động cuộc tấn công vào Goldberg vào ngày 23, với mục tiêu đánh bại quân Pháp còn lại và mở màn cho cuộc truy kích mạnh mẽ.

Blücher tập trung bảo vệ điểm vượt sông quan trọng tại Goldberg. Theo mệnh lệnh, tiền quân của Langeron tiến về Wolfsdorf và Wolfsberg, Kapzewitsch chiếm giữ Flensberg, còn quân của Yorck, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ tư lệnh tối cao, vượt sông Katzbach để triển khai phòng thủ tại tuyến Niederau-Hohberg. Sacken được lệnh bảo vệ sườn phải của Yorck bằng cách tiến về Grödißberg, trong khi Yorck tấn công trực diện đối phương qua Ulbersdorf-Pilgramsdorf và Langeron đánh vào sườn phải của quân địch.


Sáng ngày 23, cả quân Pháp và liên quân cùng đồng loạt triển khai đội hình, dẫn đến ba trận giao tranh dữ dội tại Niederau, Goldberg và Wolfsberg. Dù chiến đấu anh dũng và giành được một số thành công lẻ tẻ, nhưng trước sức mạnh áp đảo của quân Pháp, liên quân buộc phải rút lui về Hennersdorf, Schlaupe và Mahlitsch, chịu tổn thất 4.000 người. Cuộc rút lui kéo dài đến tận đêm khuya, trở nên hỗn loạn do các đoàn quân và xe chở hàng chắn đường nhau trong bóng tối, khiến quân đoàn của Yorck bị tan tác, nhiều binh sĩ kiệt sức nằm lại dọc đường . Trước tình hình này, Bộ tư lệnh tối cao quyết định tránh một cuộc đụng độ tiếp theo với quân địch, ra lệnh rút quân ngày 24 về tuyến Kohlhöhe-Jauer-Groß Rosen để tái tổ chức và phòng thủ vững chắc hơn. 

Những khó khăn ngày càng chồng chất đã khiến sự bất mãn trong hàng ngũ Phổ bùng phát mạnh mẽ. Trong tám ngày ngắn ngủi, quân đội đã phải hành quân kiệt sức, liên tục chiến đấu hầu như mỗi ngày, bất chấp thời tiết xấu, đường lầy lội và thiếu thốn trầm trọng về lương thực cũng như trang bị. Nhiều tiểu đoàn Landwehr gần như tan rã, với số lượng binh sĩ giảm mạnh; ví dụ, Trung đoàn Landwehr Schlesien số 6 ban đầu từ 2000 người , giờ chỉ còn 700. Những cuộc hành quân kéo dài xuyên đêm, cộng với thất bại liên tiếp, đã làm tinh thần quân sĩ suy sụp — sau tất cả nỗ lực, họ vẫn giậm chân tại chỗ, không giành được thành quả nào rõ rệt.

Sự bất mãn không chỉ lan rộng trong binh lính mà cả trong hàng ngũ chỉ huy. Langeron tỏ rõ thái độ bất bình với việc "hành quân vô ích" và bắt đầu có ý định muốn chiến đấu độc lập. Tệ hơn, tướng Yorck, người ngày càng bất mãn với cách chỉ huy mà ông coi là “phá hoại quân đội”, đã công khai chỉ trích Blücher một cách gay gắt. Cuộc tranh cãi căng thẳng giữa hai người lên đến đỉnh điểm khi Yorck đệ đơn xin từ chức, với những lời buộc tội cay đắng nhằm vào btư lệnh tối cao, cho rằng ông không còn có thể phục vụ hữu ích trong tình hình như vậy.

Mặc dù Ban Tham mưu của Blücher vẫn kiên định với chiến lược rút lui từng bước, nhưng vào tối ngày 24, Blücher đã đưa ra một quyết định táo bạo, trái ngược hoàn toàn với quan điểm của các sĩ quan dưới quyền: chấm dứt việc liên tục tránh giao tranh và thay vào đó, chủ động tìm kiếm trận quyết chiến với quân Pháp, bất kể hậu quả như nào . Ông cho rằng thà đánh một trận dứt khoát, ngay cả khi thua trận, còn hơn tiếp tục tình trạng hành quân khốn khổ kéo dài vô vọng.

Vào sáng ngày 25, kỵ binh được lệnh vượt sông Katzbach để trinh sát. Các báo cáo ban đầu cho thấy quân Pháp dường như đang bắt đầu rút lui, với các khu vực như Schönau và Lähn đã bị bỏ trống. Điều này khiến Bộ tư lệnh tin rằng đây là cơ hội phản công và lệnh hành quân được ban ra: toàn các quân đoàn vượt sông Katzbach để giữ chân đối phương ở Goldberg, York đánh vào sườn trái, còn Sacken bảo vệ cánh phải của Yorck. Nếu quân Pháp rút lui, thì các đơn vị tiền quân sẽ lập tức truy kích .

Tuy nhiên, khi cuộc hành quân bắt đầu vào 10 giờ sáng, một tin báo bất ngờ khiến mọi thứ đảo lộn: không những quân Pháp vẫn giữ vững Goldberg, mà họ còn bắt đầu tiến công từ Hainau. Điều này buộc Blücher phải dừng cuộc tiến quân lúc 1 giờ chiều để đánh giá lại tình hình. Đến tối ngày 25, ba quân đoàn đã ở các vị trí mới: Sacken tại Mahlitsch, Yorck tại Jauer và Langeron tại Hennersdorf, sẵn sàng cho những quyết định tiếp theo vào ngày 26.

Ở phía bên kia chiến tuyến , việc Tập đoàn quân Schlesien vượt qua ranh giới khu vực trung tập đã khiến các quân đoàn Pháp đóng tại tuyến Katzbach hoàn toàn bất ngờ. Trong những ngày đầu tiên, do chưa nhận được chỉ thị rõ ràng từ Bộ chỉ huy tối cao, các hành động của quân Pháp tỏ ra rời rạc và thiếu kế hoạch. Theo lệnh của Hoàng đế Napoléon, Thống chế Ney được giao nhiệm vụ điều quân theo hướng tiến quân của đối phương: nếu quân đồng minh tiến về Liegnitz hoặc theo trục Jauer-Goldberg, thì ông phải đưa quân về một trong hai vị trí phòng thủ đã được chuẩn bị từ trước tại Bunzlau hoặc Löwenberg. Tuy nhiên, do sức ép mạnh mẽ từ cuộc tấn công của Blücher, quân Pháp buộc phải vượt sông Bober trong hai nhóm, tập trung tại Löwenberg và Bunzlau.

Đến ngày 20 tháng 8, các quân đoàn Pháp đã chiếm lĩnh bờ trái sông Bober, bao gồm các quân đoàn của Ney và Sebastiani tại Bunzlau và Tillendorf, Marmont tại Ottendorf, Lauriston tại Löwenberg, còn Macdonald tại Schmottseiffen và Greiffenberg. Ngày 21, dưới sự giám sát trực tiếp của Hoàng Đế, quân Pháp bắt đầu tấn công từ Löwenberg, buộc Tập đoàn quân Schlesien phải rút lui. Các quân đoàn Macdonald, Lauriston, Ney và Sebastiani liên tục truy kích hậu quân của liên minh và đến ngày 22 thì tiến tới sông Schnelle Deichsel. Tuy nhiên, tình hình thay đổi nhanh chóng: vào ngày 23, theo lệnh của Napoleon, Vệ binh Đế chế và quân đoàn Marmont bắt đầu hành quân về Dresden, còn Ney cũng nhận được lệnh rút khỏi chiến tuyến để theo sau Hoàng Đế. Thay thế Ney trong vai trò chỉ huy toàn bộ quân đội tại mặt trận này là Thống chế Macdonald.

Macdonald, Công tước xứ Tarent, là một trong những vị tướng xuất sắc nhất của Đệ nhất Đế chế Pháp. Xuất thân từ một gia đình quý tộc Scotland nhập cư, ông gia nhập quân đội Pháp từ năm 1784 và thăng tiến nhanh chóng trong các cuộc chiến tranh của nền Cộng hòa đầu tiên. Ông lập công lớn ở Ý (1798-1799) và Thụy Sĩ (1800), nhưng đỉnh cao sự nghiệp của ông là trận đánh tại Wagram (1809), nơi ông được Napolén trao cho cây baton Thống chế và phong thành Công tước. Tuy vậy, chiến dịch tại Catalonia năm 1810 lại không thành công như mong đợi. Đến năm 1812, ông được giao chỉ huy Quân đoàn X trong chiến dịch xâm lược Nga, trong đó có cả các đơn vị của Phổ dưới quyền tướng Yorck. Macdonald nổi tiếng là một vị tướng chính trực, có lòng nhân ái và thái độ điềm đạm, khiến ngay cả binh lính Phổ dưới quyền cũng kính trọng ông. Một sĩ quan Phổ từng viết: “Toàn bộ con người ông thể hiện phẩm giá, sự thông tuệ và lòng nhân từ, phong thái của ông đầy vẻ cao quý và khiến người ta tin tưởng.” Mặc dù không phải một thiên tài quân sự, nhưng với kinh nghiệm dày dặn và sự trung thành tuyệt đối với Napoléon, việc ông được giao trọng trách này hoàn toàn hợp lý. Tuy nhiên, Hoàng Đế lại từng nhận xét một cách chua chát: “Ông ấy giỏi, dũng cảm, nhưng không gặp may.”

Sự thay đổi trong chỉ huy cấp cao này kéo theo việc tái tổ chức các quân đoàn Pháp tại mặt trận. Quân đoàn XI của Macdonald được giao lại cho tướng Gérard, còn tướng Souham tiếp quản Quân đoàn III của Ney. Cả hai đều là những chỉ huy dày dạn kinh nghiệm chiến trường, và nhìn chung, việc bố trí này giúp bộ chỉ huy Tập đoàn quân Bober có một cơ cấu chỉ huy vững chắc, với các tướng lĩnh đều là những người từng được thử lửa qua các trận đánh khốc liệt.

Sau khi Quân đoàn Marmont rời đi, Tập đoàn quân sông Bober chỉ còn lại bốn quân đoàn và Quân đoàn Kỵ binh 2. Thành phần của các sư đoàn bao gồm các đơn vị từ Pháp, Ý và Liên bang sông Rhine, hầu hết là tân binh với thời gian phục vụ ngắn, khiến tinh thần và khả năng chiến đấu của họ chưa thực sự vững chắc. Đặc biệt, Quân đoàn Kỵ binh Sebastiani chủ yếu gồm những kỵ binh trẻ, chưa được huấn luyện đầy đủ, hoàn toàn không phải là đối thủ xứng tầm của lực lượng kỵ binh Phổ và Nga, dù có ưu thế về số lượng.

Các chỉ thị mà Thống chế Macdonald nhận được chủ yếu nhằm bảo vệ sườn phía sau cho cánh chủ lực của Napoléon . Để thực hiện nhiệm vụ này, trước tiên Macdonald cần đánh bật quân đồng minh về phía Jauer, sau đó rút về giữ tuyến phòng thủ dọc theo sông Bober. Thực hiện kế hoạch này, ngày 23 tháng 8, Quân đoàn Lauriston chiếm giữ Goldberg, trong khi Quân đoàn Gérard giao chiến tại Niederau rồi đóng trại giữa Niederau và Neudorf. Quân đoàn Souham tiến đến Liegnitz và Rothkirch, còn Quân đoàn Kỵ binh Sebastiani chiếm giữ Rothbrünnig và Liegnitz, thiết lập thế trận tấn công.

Tuy nhiên, một sự cố đã xảy ra: mệnh lệnh triệu tập Thống chế Ney về hội quân với Hoàng đế lại được hiểu nhầm là lệnh rút cả quân đoàn của ông. Vì vậy, cả Ney cùng với Quân đoàn III bị rút khỏi mặt trận vào ngày 24 và chỉ đến sáng ngày 25 mới được lệnh tiếp tục hành quân về Liegnitz. Sự gián đoạn này khiến Macdonald mất hai ngày quý báu, làm trì hoãn cuộc tiến công dự kiến về Jauer, buộc ông phải lùi kế hoạch sang ngày 26 tháng 8.

Trong chiến dịch này, Macdonald dự định điều Quân đoàn Lauriston và Gérard tiến quân qua Seichau, trong khi Quân đoàn Souham hành quân dọc theo con đường lớn từ Liegnitz. Quân đoàn Kỵ binh Sebastiani được giao nhiệm vụ giữ liên lạc giữa hai cánh quân bằng cách tiến về phía Kroitsch. Đồng thời, Sư đoàn Puthod được lệnh chiếm đóng Schönau vào ngày 26, sau đó vào ngày 27 chia làm hai cánh: một cánh tiến đánh Jauer qua ngả Jägendorf, cánh còn lại hợp quân với Sư đoàn Ledru để cùng đối phó với Quân đoàn St. Priest của Nga, lúc bấy giờ được cho là đang tập trung tại Hirschberg.

Các nước triển khai của Tập đoàn quân sông Bober vào ngày 26 tháng 8 đã dẫn tới trận đánh quyết định tại Katzbach — một cuộc đụng độ khốc liệt mà cả hai bên đều phải đặt cược toàn bộ lực lượng của mình để giành thế thượng phong.



Vào rạng sáng ngày 26 tháng 8 năm 1813, Quân đoàn Yorck rời doanh trại tại Jauer theo lệnh của Blücher, nhằm phối hợp với các Cụm quân đoàn Sacken và Langeron để chiếm lĩnh vị trí chiến lược. Mưa lớn liên tục đổ xuống khiến cuộc hành quân vô cùng vất vả, mãi đến 10 giờ sáng, Quân đoàn Yorck mới đến được vị trí được chỉ định giữa Brechtelshof và Bellwighof. Trong khi đó, Blücher đã cưỡi ngựa đến Brechtelshof, nơi ông nhận được các báo cáo cho biết quân Pháp đang chia thành hai cụm lớn, một ở Liegnitz và một ở Goldberg, với lực lượng kỵ binh mạnh tập trung quanh Rothbrünnig. Vì đối phương đã án binh bất động trong hai ngày qua, Blücher nhận định rằng họ sẽ tiếp tục giữ thế phòng thủ. Do đó, vào lúc 11 giờ, ông ra lệnh cho Sacken tấn công quân địch ở Liegnitz, trong khi Yorck sẽ vượt sông Katzbach tại Dohnau và Kroitsch, sau đó tiến về Steudnitz để chặn đường rút lui của quân Pháp và tấn công từ phía sau. Cùng lúc đó, Quân đoàn Langeron được lệnh vượt sông Katzbach tại Riemberg và chiếm lĩnh các cao điểm tại Hohberg và Kosendau để yểm trợ cuộc tấn công chính.

Tuy nhiên, ngay trước khi mệnh lệnh này được thực hiện, tình hình chiến trường đã thay đổi. Khoảng 12 giờ trưa, tiền quân của Langeron đụng độ với Quân đoàn Lauriston của Pháp tại Seichau. Sau một cuộc giao tranh ngắn, quân Nga phải rút lui về vị trí phòng thủ mới giữa Hermannsdorf và rừng Mönchswald. Khi tình hình ngày càng trở nên nguy cấp, Langeron quyết định không thực hiện lệnh tấn công vào lúc 3 giờ chiều như đã định, mà thay vào đó chuẩn bị cho một cuộc phòng thủ kiên cố. Ông cho rút 48 khẩu pháo hạng nặng về phía Striegau và bố trí Quân đoàn Kapzewitsch làm lực lượng dự bị tại Peterwitz để bảo vệ sườn trái trước một đòn bọc sườn của quân Pháp.

Cùng lúc đó, Quân đoàn Yorck cũng bước vào trận chiến. Tiền quân của Yorck, bao gồm 5¾ tiểu đoàn, 12 kỵ đội và 12 khẩu pháo do Đại tá von Kazeler chỉ huy, đã đóng trại trên cao điểm phía đông Weinberg trong đêm. Vào buổi sáng, bộ binh của Kazeler tiến lên chiếm giữ các vị trí ở phía đông Crayn, trong khi kỵ binh và pháo binh cơ động chiếm lĩnh khu vực phía nam Kroitsch. Tuy nhiên, khoảng 10 giờ sáng, Quân đoàn Kỵ binh Sebastiani của Pháp tiến đến từ Brockendorf và đụng độ với các tiền đội của Yorck. Do mưa lớn nên súng trường của Jäger không sử dụng được, khiến họ bị pháo binh Pháp ép phải rút về bờ phải sông Katzbach, nơi họ được kỵ binh của Kazeler che chở.

Khi cuộc giao tranh tại Kroitsch diễn ra, Quân đoàn Gérard của Pháp, đang hành quân về Seichau, được lệnh rẽ sang Crayn để hỗ trợ Sebastiani. Quân Pháp nhanh chóng chiếm được Crayn, buộc tiền quân của Yorck phải rút chậm rãi về Bellwitzhof, trong khi lực lượng chính của Gérard tiến lên cao điểm phía nam Crayn và triển khai đội hình chiến đấu. Trong khi đó, kỵ binh Sebastiani gặp khó khăn lớn trong việc di chuyển do đường sá lầy lội, và quá trình triển khai đội hình của họ kéo dài đến tận 2 giờ chiều.


Đến thời điểm này, Blücher đã rời Brechtelshof để trực tiếp chỉ huy Quân đoàn Yorck. Khi nhận được tin báo từ Gneisenau rằng quân Pháp đang phát triển lực lượng lớn gần Klein-Tinz và Nieder-Weinberg, ông quyết định phát động một cuộc tấn công ngay lập tức nhằm đẩy quân Pháp trở lại các thung lũng của sông Neisse và Katzbach. Các chỉ huy Quân đoàn Sacken và Yorck ngay lập tức nhận lệnh tiến công. Khi Sacken nhận lệnh, ông chỉ đáp gọn với sĩ quan liên lạc: “Trả lời Blücher rằng: Ura!” .

Quân đoàn Yorck nhanh chóng triển khai đội hình chiến đấu dọc theo tuyến Christianshöhe – Bellwitzhof. Hai lữ đoàn Horn và Hünerbein giữ tuyến đầu, lữ đoàn Mecklenburg ở phía sau làm lực lượng dự bị, còn lữ đoàn Steinmetz ở tuyến sau cùng, sẵn sàng ứng cứu. Kỵ binh được bố trí để bảo vệ pháo binh và duy trì liên lạc với Quân đoàn Sacken ở bên phải. Trong khi quân Phổ hoàn tất việc triển khai, Blücher đích thân cưỡi ngựa dọc theo hàng ngũ, cổ vũ binh lính và ra lệnh không được phí đạn trong mưa mà phải xông thẳng vào quân địch bằng lưỡi lê. Với quyết tâm cao độ và đội hình chặt chẽ, quân Phổ chuẩn bị cho một cuộc giao tranh đẫm máu tại Katzbach.


Những thay đổi đội hình không cần thiết của Yorck đã làm chậm bước tiến đồng bộ của quân đoàn, khiến Lữ đoàn Hünerbein phải tiến lên đơn độc. Khi cánh trái của họ tiến dọc theo rìa thung lũng sông Neiße, họ nhanh chóng hứng chịu hỏa lực từ một nửa khẩu đội pháo Pháp đóng trên Kreuzberg. Đồng thời, một đội hình khối gồm ba tiểu đoàn của Pháp xuất hiện ở lối ra từ Ober-Weinberg. Hai tiểu đoàn rút lui xuống sườn đồi khi thấy quân Phổ, nhưng tiểu đoàn thứ ba cố gắng kháng cự. Thiếu tá von Othegraven dẫn Tiểu đoàn II của Trung đoàn Bộ binh Brandenburg vào trận, nơi diễn ra cuộc giao chiến khốc liệt bằng lưỡi lê và báng súng. Chẳng mấy chốc địa điểm giao tranh dựng thành một núi xác chết.

Cùng lúc đó, hai tiểu đoàn khác tấn công khẩu đội pháo trên Kreuzberg và đánh bại cuộc phản công của một trung đoàn Chasseur đến tiếp viện. Sau trận chiến khốc liệt, Lữ đoàn Hünerbein bị tan tác và buộc phải tái tổ chức trên cao điểm phía sau.Trong khi đó, Sư đoàn Kỵ binh Exelmans đã lên tới cao nguyên, và Sư đoàn Brayer của Quân đoàn Souham bắt đầu tiến lên nhưng gặp khó khăn vì dòng xe tiếp tế của kỵ binh làm tắc nghẽn cây cầu tại Kroitsch. Điều này khiến Sư đoàn Thiết kỵ St. Germain không thể vượt sông Katzbach và phải dừng lại tại Kroitsch, không kịp tham gia trận đánh.

Các lữ đoàn còn lại của Yorck bắt đầu cuộc tiến quân. Khi Kỵ binh Dự bị của Phổ vẫn chưa tới được trận địa pháo binh thì Đại tá Graf Brandenburg báo rằng quân Pháp đang rút lui. Tin này khiến Đại tá von Jürgaß, chỉ huy Kỵ binh Dự bị, tin rằng thời khắc quyết định của trận đánh đã đến và ra lệnh tấn công. Ông dẫn bảy kỵ đội xông lên, với 3 kỵ đội khác triển khai bên cánh trái.

Ba kỵ đội phía sau chuyển hướng khi nhận được tin từ một sĩ quan tham mưu rằng quân Pháp đang tiến từ Nieder-Crayn và Weinberg. Họ vượt qua Lữ đoàn Hünerbein, tấn công một khẩu đội pháo Pháp đang rời khỏi một con đường hẻm. Khẩu đội pháo bị chiếm, kỵ đội Pháp bị đánh tan, nhưng sau đó, những tiểu đoàn Pháp bất ngờ xuất hiện từ Kuhberge đã buộc quân kỵ binh Phổ phải rút lui sau hàng bộ binh của mình.

Gần như đồng thời, bảy kỵ đội của Jürgaß cũng quay về sau khi đụng độ với lực lượng kỵ binh đông đảo của Pháp trong cơn mưa dày đặc. Với những con ngựa đã mệt mỏi, họ không thể tiếp tục tấn công và buộc phải rút lui về sau hàng bộ binh, trong khi Sư đoàn Kỵ binh Exelmans truy kích dữ dội. Ba khẩu đội pháo của Phổ rơi vào tay quân Pháp.



Khủng hoảng của trận đánh đã tới. Kỵ binh Pháp lao vào cánh trái của pháo binh và tuyến đầu của bộ binh Phổ. Nhưng đúng lúc đó, bốn tiểu đoàn mới của Yorck từ lớp thứ hai xuất hiện, hành quân với trống đánh rền vang. Quân kỵ binh Pháp không dám tấn công vào những khối bộ binh dày đặc này. Đồng thời, Đại tá von Kazeler với sáu kỵ đội Phổ và bốn kỵ đội Nga xông vào chính diện và cánh trái của quân Pháp, đẩy lùi họ và khiến một phần ngã xuống rìa thung lũng.

Quân đoàn Sacken từ Mahlitsch tiến đến Eichholtz, triển khai bộ binh phía nam ngôi làng, kỵ binh ở hai bên và pháo binh trên đồi Taubenberg. Khi kỵ binh Pháp bắt đầu hình thành đội hình phía sau trận địa pháo binh của mình, chuẩn bị tấn công giữa Klein-Tinz và rìa thung lũng, thì mười kỵ đội của Kazeler đã xông vào đội hình của Exelmans. Đồng thời, Blücher ra lệnh tổng tấn công. Kỵ binh dự bị Phổ, sau khi tái tổ chức, lại tiến lên, hướng về Groß-Jänowitz để hợp lực với kỵ binh Nga. Yorck đích thân dẫn đầu bộ binh của mình, tiến lên giữa một đội hình khối.


Trên cao nguyên, cuộc giao tranh dữ dội giữa kỵ binh Nga, Phổ và Pháp diễn ra khốc liệt. Sư đoàn Brayer của Pháp dù đã lên tới cao nguyên nhưng không thể cứu viện kỵ binh của mình. Bị quân liên minh đánh tan, kỵ binh Pháp bị đẩy xuống khỏi cao nguyên trong tình trạng hỗn loạn. Bộ binh Pháp cũng không thể đứng vững trước đợt tấn công mạnh mẽ của quân liên minh và buộc phải rút lui có trật tự qua Nieder-Crayn và Kroitsch, mất toàn bộ pháo binh và xe tiếp tế. Những gì còn lại của quân Pháp bị mắc kẹt trong những thung lũng sâu dẫn xuống sông Neiße, và phần lớn bị rơi vào tay quân Phổ.




Cuộc truy kích chỉ diễn ra yếu ớt. Ba khẩu đội pháo của quân liên minh tiếp tục bắn phá, gây thêm hỗn loạn cho quân Pháp đang rút lui, nhưng chỉ có hai tiểu đoàn và Trung đoàn Khinh kỵ Vệ sĩ số 2 tiến đến Nieder-Crayn trước khi màn đêm buông xuống. Đến chiều muộn, ba sư đoàn còn lại của Quân đoàn Souham mới đến được chiến trường, quá muộn để thay đổi cục diện. Sư đoàn Delmas, sau khi vượt sông Katzbach tại Dohnau, chỉ kịp đặt sáu khẩu đội pháo lên cao điểm thì bị quân liên minh áp đảo. Thấy không có quân Pháp nào xung quanh, Delmas quyết định rút lui. Sư đoàn Albert và Ricard, sau khi vượt sông Katzbach tại Schmochwitz, cũng phải rút lui khi nhận được tin cánh trung tâm quân Pháp đã thua trận. Họ không bị quân Nga truy kích.

Trận chiến trên cao nguyên đã kết thúc với thắng lợi toàn diện của quân liên minh. Tuy nhiên, ở cánh trái, Quân đoàn Langeron của Nga gặp khó khăn hơn khi bị Quân đoàn Lauriston và Gérard của Pháp tấn công mạnh mẽ. Dù kháng cự kiên cường, quân Nga phải từ bỏ Hennersdorf và Weinberg vào khoảng 4 giờ chiều. Nhưng sự phối hợp giữa hai quân đoàn Pháp không chặt chẽ, và đợt tấn công của họ không được đẩy mạnh thêm . Blücher, quan sát thấy tình hình không thuận lợi cho Quân đoàn Langeron, đã điều Lữ đoàn Steinmetz vượt sông Neiße để đánh vào sườn và lưng quân Pháp, tạo điều kiện cho thắng lợi cuối cùng của quân liên minh trong trận Katzbach.

Langeron, sau khi được Müffling báo tin về thắng lợi trên cao nguyên, đã ra lệnh phản công. Một đợt tấn công quyết liệt và bất ngờ được tung ra, trước hết chiếm lại được Weinberg, rồi với sự hỗ trợ của Lữ đoàn Steinmetz, cũng tái chiếm Steinberg và phần đông nam của Hennersdorf. Tuy nhiên, màn đêm buông xuống đã chấm dứt trận chiến, chỉ còn tiếng súng lẻ tẻ quanh Hennersdorf kéo dài đến tận nửa đêm. Lệnh quay trở lại được gửi đến Tướng Kapzewitsch và pháo binh dự bị đã rút về Striegau, yêu cầu họ quay lại ngay lập tức. Quân lính kiệt sức dừng chân tại những vị trí đã đạt được trước khi trời tối, chỉ riêng kỵ binh dự bị được rút về phía sau cao điểm tại Brechtelshof. Cơn mưa vẫn xối xả, khiến họ không thể đốt lửa trại . Các binh sĩ Landwehr của Yorck, ướt sũng, không có áo khoác hay rơm lót, nằm trên mặt đất nhão nhoét, chịu cảnh thiếu thốn lương thực nghiêm trọng. Dù điều kiện khắc nghiệt, tinh thần của họ sau trận thắng vẫn cao ngất ngưởng.

Thiệt hại của cả hai bên không thể xác định chính xác, nhưng tổn thất của liên minh là rất nhỏ so với thành công họ đạt được. Báo cáo gửi về Quốc Vương cho biết trên chiến trường có 36 khẩu pháo, 110 xe đạn, 2 xe y tế, 4 xe thợ rèn, cùng khoảng 1.200–1.400 tù binh và nhiều sĩ quan của Pháp rơi vào tay quân liên minh.

Trận Katzbach ngày 26 tháng 8 là kết quả của những hiểu lầm từ cả hai phía về ý định của đối phương. Tuy nhiên, quyết định nhanh chóng và hành động quyết đoán của Blücher đã mang lại thắng lợi đáng kể, dù không hoàn toàn áp đảo như những báo cáo ban đầu phấn khích mô tả. Bên cánh phải của quân Pháp, Lauriston và Gérard đã đạt được thành công rõ rệt trong đợt tấn công ban đầu. Chỉ do sự thiếu quyết đoán của Macdonald, những thắng lợi này mới không dẫn đến chiến thắng hoàn toàn trước Langeron. Dù quân Nga tái chiếm được một phần các vị trí đã mất, hai quân đoàn Pháp không hề bị đánh bại hoàn toàn, đặc biệt khi các sư đoàn Ledru và Puthod vẫn chưa tham chiến. Bên cánh trái, thất bại của quân Pháp nặng nề hơn, nhưng cũng cần lưu ý rằng chỉ có 2 sư đoàn kỵ binh và 1,5 sư đoàn bộ binh của Souham đối đầu với sức mạnh vượt trội của Yorck và Sacken, trong khi phần còn lại của quân đoàn Souham và kỵ binh St. Germain không chịu tổn thất gì. Cuộc chiến trên cao nguyên chủ yếu do kỵ binh quyết định, ít có giao tranh bằng súng, nên tổn thất của Sư đoàn Brayer và Lữ đoàn Meunier rất nhỏ.

Những lời đồn về việc hàng ngàn lính Pháp chết chìm trong sông Neiße và Katzbach là tuyên truyền phóng đại. Trên thực tế, thiệt hại lớn nhất của Macdonald là pháo binh và xe tiếp tế, mắc kẹt trong địa hình bùn lầy và các con đường dốc dẫn đến cầu vượt sông Neiße.

Blücher hiểu rõ rằng chỉ có một cuộc truy kích không ngừng nghỉ mới biến thắng lợi của quân đội Silesia thành chiến thắng quyết định. Vì thế, tối ngày 26, từ HQ tại Brechtelshof, ông ra lệnh cho Sacken tiến về Bunzlau,  Langeron tiến về Goldberg, trong khi Lữ đoàn Horn và kỵ binh dự bị của Yorck hành quân về Kroitsch và Ulbersdorf. Nhưng bóng đêm, mưa lớn và đường sá lầy lội khiến các mệnh lệnh này khó thực hiện.

Mãi đến 2 giờ chiều ngày hôm sau, kỵ binh của Sacken mới tới Liegnitz, lúc này quân Pháp đã rút đi. Quân tiên phong tiến đến đó trong ngày 27, còn đại quân ở lại phía sau. Yorck, nhận được lệnh tiến công toàn diện từ Blücher vào buổi chiều, lâm vào tình thế khó xử. Ông hiểu sự cần thiết của việc truy kích nhanh chóng, nhưng cũng biết rằng việc hành quân trong đêm tối, trên con đường bùn lầy, giữa mưa lớn và quân đội kiệt sức sẽ dẫn đến sự tan rã của lực lượng, đặc biệt là bộ binh Landwehr. Do đó, Yorck quyết định không thực hiện lệnh này, giữ quân đoàn của mình ở lại bên bờ phải sông Neiße. Điều này khiến ngày đầu tiên sau trận chiến gần như bị lãng phí trong việc truy kích, và Blücher có lý khi trách móc vào sáng hôm sau: 

“Nếu chúng ta không bám sát quân địch, họ sẽ lại tập hợp và ta sẽ phải chiến đấu thêm một trận nữa để giành lại những gì lẽ ra đã có thể đạt được từ trận chiến này.”

Bên cánh trái, tình hình thuận lợi hơn cho liên minh . Lauriston đã bắt đầu rút quân về Goldberg từ đêm hôm trước, và tiền quân của Langeron dưới quyền Rudzewitsch đã đuổi theo, bắt được 1.200 tù binh, 6 khẩu pháo tại Pilgramsdorf, và thêm 1.000 tù binh nữa gần Goldberg.Trong khi đó, Tập đoàn quân Bober hành quân theo hai đội hình hướng về Bunzlau và Löwenberg.

Ngày 28 tháng 8, cuộc truy đuổi của Tập đoàn quân Schlesien diễn ra chậm chạp. Tiền quân của Yorck đến được Hainau, trong khi chủ lực vượt qua sông Katzbach tại Goldberg và Röchlitz, một số đơn vị nhỏ tiến xa tới Leifersdorf và Ulbersdorf. Quân của Sacken vẫn mắc kẹt tại Liegnitz, còn Langeron thì đứng yên ở Goldberg để nhường đường cho Yorck. Điều này khiến Blücher rất bất bình. Ông liên tục gửi mệnh lệnh thúc giục các chỉ huy dưới quyền tiến nhanh hơn, đặc biệt nhấn mạnh vai trò của kỵ binh.

May mắn thay, trong đêm 28 rạng ngày 29, mưa lớn kéo dài cuối cùng đã ngớt, tạo điều kiện thuận lợi cho Tập đoàn quân Schlesien vốn đã kiệt quệ vì thời tiết khắc nghiệt. Những trận mưa dai dẳng không chỉ làm chậm bước truy kích mà còn đẩy tình trạng quân đội tới mức khốn cùng. Nhiều lính Landwehr  kiệt sức, đói khát, thậm chí phải đi chân trần, hàng trăm người đổ gục trên đường hành quân. Không ít người trốn khỏi đơnv ị để tìm kiếm thực phẩm và quần áo, rồi vài ngày sau mới quay lại với trang bị tạm đủ. Đàn ngựa cũng chịu chung số phận, thiếu thức ăn đến mức gần như chỉ còn các đơn vị Cossack của Nga là còn khả năng trinh sát hiệu quả.

Ngày 29.8, quân của Langeron chạm trán sư đoàn Puthod của Pháp gần Löwenberg. Sau kháng cự quyết liệt, Puthod buộc phải đầu hàng, mất 4000 quân, 16 khẩu pháo và 2 trượng đại bàng. Tuy nhiên, cùng ngày đó, Yorck từ chối tấn công do quân quá mệt mỏi, khiến quân liên minh lỡ cơ hội lớn .

Sáng ngày 29, Kazeler tiếp tục cuộc truy kích về hướng Bunzlau nhưng vấp phải kháng cự mạnh tại tuyến Looswitz–Gnadenberg–Nieder-Schönfeld. Quân Pháp gặp khó khăn trong việc vượt sông Bober với mực nước đang dâng cao. Dù Horn và Wassiltshikow kéo thêm quân tới hỗ trợ, lực lượng liên quân vẫn quá yếu để giành thắng lợi quyết định. Yorck, do tình trạng quân mệt mỏi và thiếu đạn dược, từ chối tiến quân ngay trong ngày, khiến liên minh lại bỏ lỡ một cơ hội lớn.Tuy nhiên, Langeron đã có một ngày thành công rực rỡ. Tiền quân của ông chạm trán sư đoàn Puthod của Pháp tại Plagwitz, khi lực lượng này đang cố vượt sông Bober tại Löwenberg. Sau một cuộc chiến anh dũng nhưng tuyệt vọng, quân Pháp bị đánh bại hoàn toàn: 120 sĩ quan, 4.000 binh sĩ, 16 khẩu pháo và 2 trượng đại bàng rơi vào tay quân Nga. Tới chiều hôm ấy, toàn bộ quân Pháp đã vượt qua sông Bober và dừng lại để tổ chức phòng ngự, trong khi chủ lực Tập đoàn quân Schlesien chỉ mới tiến đến bờ đông con sông. Cuộc giao tranh nghiêm trọng diễn ra tại Bunzlau khi quân tiên phong của Yorck và Sacken đối đầu với lực lượng Pháp đang cố giữ thị trấn và phá hủy các cây cầu bắc qua Bober. Sau một cuộc chiến khốc liệt, các lực lượng liên quân chiếm được Bunzlau nhưng không ngăn được người Pháp đốt cháy các cây cầu. Nhờ nỗ lực cuối cùng, họ sửa chữa được cầu và chiếm giữ các cao điểm phía tây sông Bober, chặn đứng ý đồ phản công của quân Pháp.

Blücher nhận tin thất bại của Tập đoàn quân Böhmen tại Dresden vào ngày 31 tháng 8. Ông nhận định rằng Napoléon có thể đang quay về Schlesien để khôi phục thế cân bằng chiến lược, nên ra lệnh các đơn vị hành động thận trọng hơn: chỉ dùng kỵ binh nhẹ và tiền quân để truy kích, còn chủ lực thì không được vượt sông Queis. Trong đêm 31 tháng 8, quân Pháp rút về phía tây sông Queis, quân liên minh theo sát nhưng không có giao tranh lớn.

Ngày 1 tháng 9, Tập đoàn quân Schlesien dành trọn một ngày nghỉ ngơi, tổ chức lễ cầu nguyện ngoài trời long trọng. Blücher ra nhật lệnh cảm ơn toàn quân vì đã giải phóng hoàn toàn tỉnh Schlesien – một lời cảm ơn xứng đáng, khi mà lực lượng của ông đã vượt qua thời tiết tồi tệ, đường sá lầy lội, và những con sông dâng cao để đạt được chiến công lẫy lừng này.

Tính đến ngày 1/9, liên minh thu được 103 khẩu pháo, 18.000 tù binh và gây tổn thất nặng nề cho quân Pháp (mất 30.000 quân). Tuy nhiên, Tập đoàn quân Schlesien cũng chịu tổn thất 22.366 người. Dù vậy, tinh thần của các binh sĩ được tăng cao, đặc biệt giữa người Nga và Phổ, nhờ cách xử lý khéo léo của Blücher .

8.Großbeeren-Hagelberg

Lực lượng liên minh bảo vệ Bắc Đức trong chiến dịch năm 1813 được chia thành hai nhóm chính. Nhóm đầu tiên là tập đoàn quân của Vương thái tử Thụy Điển (Tập đoàn quân Bắc), bao gồm các quân đoàn của Bülow, Winzingerode, Stedingk và Wallmoden, với tổng cộng 118.000 quân. Nhóm thứ hai là Quân đoàn IV của Phổ do Tauentzien chỉ huy, cùng với các lực lượng bao vây pháo đài Küstrin và Stettin, với tổng cộng 51.000 quân. Tuy nhiên, khi trừ đi quân số đang vây hãm các pháo đài, Tauentzien chỉ còn lại 33.000 quân thực sự có thể tham chiến trên chiến trường. Để đảm bảo phối hợp, có mệnh lệnh từ Quốc Vương Phổ rằng Tauentzien sẽ tác chiến độc lập nhưng phải luôn giữ liên lạc chặt chẽ với Thái tử Thụy Điển, sẵn sàng hỗ trợ trong những trận đánh quyết định. Tổng cộng, Thái tử có khoảng 152.000 quân và 290 khẩu pháo trong tay để thực hiện các nhiệm vụ quân sự của mình.

Thái tử Karl Johann của Thụy Điển, vốn là cựu Thống chế Pháp Bernadotte, đã đặt chân lên đất Đức với tham vọng giành được đất Na Uy, điều chỉ có thể đạt được nếu Napoleon bị đánh bại hoàn toàn. Đây là một canh bạc nguy hiểm, bởi lẽ ông đã đi ngược lại lợi ích của một bộ phận lớn trong chính đất nước Thụy Điển của mình. Thay vì liên minh với Napoleon để lấy lại Phần Lan từ tay Nga, ông đã chọn cách ngả về phe liên minh, hòa giải với kẻ thù truyền kiếp và từ bỏ mọi tuyên bố đối với Phần Lan, đặt hy vọng vào việc chiếm giữ Na Uy như một phần thưởng thay thế. Để thực hiện điều đó, ông phải đảm bảo chiến thắng của phe liên minh, bởi thất bại đồng nghĩa với việc mất cả ơng miện Thụy Điển lẫn giấc mơ về một liên bang hùng mạnh ở bán đảo Scandinavia.

Tuy nhiên, mặc dù những toan tính chính trị của ông đòi hỏi một sự tham gia tích cực vào cuộc chiến, Bernadotte lại tỏ ra quá thận trọng, đến mức gần như bị động. Điều này không hẳn do thiếu ý chí mà bắt nguồn từ những điểm yếu cố hữu trong tính cách và năng lực quân sự của ông. Sinh năm 1763, Bernadotte khởi đầu sự nghiệp quân ngũ từ một người lính thường, nhờ Cách mạng Pháp mà được thăng tiến nhanh chóng, trở thành một vị tướng sáng giá với phong thái đường bệ, thông minh và đầy tham vọng. Dù vậy, ông không bao giờ có đủ quyết đoán để thực hiện một cuộc đảo chính chống lại Napoléon, dù có nhiều cơ hội thuận lợi. 


Trong các chiến dịch của Đế chế Pháp từ 1805 đến 1809, Bernadotte cho thấy khả năng chỉ huy điêu luyện ở cấp chiến thuật , nhưng lại thiếu táo bạo và sự quyết đoán cần thiết của một Thống chế cấp cao. Khi không có sự chỉ đạo trực tiếp từ Napoléon, ông thường do dự, quá thận trọng và dễ rơi vào tình trạng bị động, điều mà chính Hoàng Đế Pháp từng châm biếm vào năm 1813: “Il ne fera que piaffer” (Hắn sẽ chỉ nhảy nhót quanh quẩn mà thôi). Điều này giải thích tại sao trong chiến dịch Leipzig, thay vì tận dụng cơ hội để đánh bại quân Pháp một cách dứt điểm, Bernadotte lại áp dụng chiến lược Fabian — tránh đối đầu trực diện, giữ đường rút lui về Stralsund luôn rộng mở, và làm kiệt sức quân Pháp bằng những trận đánh nhỏ lẻ, dai dẳng, kéo dài.

Sự thận trọng này không phải hoàn toàn không có lý do. Quân đội Thụy Điển bao gồm nhiều tân binh, lực lượng dân quân thiếu kinh nghiệm, vũ khí kém cỏi, khó lòng đương đầu với các cựu binh thiện chiến của Napoléon. Thêm vào đó, địa thế chiến trường Bắc Đức năm 1813 đặt ông vào vị trí nguy hiểm hơn hẳn các đồng minh như Schwarzenberg hay Blücher khi ông bị kẹp giữa sông Elbe và sông Oder, xung quanh là các pháo đài địch, hậu phương thì chỉ có biển và con đường duy nhất về Stralsund lại bị đe dọa bởi quân đoàn của Davout.

Nhìn chung, thái độ do dự của Bernadotte trong chiến dịch 1813 không phải vì ông thiếu quyết tâm đánh bại Napoléon, mà là kết quả của việc quá cẩn trọng, một phần do tình hình quân sự khó khăn, phần khác do nỗi sợ hãi rất thực tế về việc mất tất cả nếu ông thất bại. Thái tử Thụy Điển năm 1813 là một hình ảnh phức tạp: một nhà chiến lược khôn ngoan nhưng thiếu quyết đoán, một chiến binh dũng cảm nhưng lại có phần nhút nhát đến mức gần như nực cười, một nhân vật lịch sử vừa xuất chúng vừa bí ẩn, khiến các nhà sử học đến nay vẫn tranh luận không ngừng về đóng góp thực sự của ông trên chiến trường Leipzig.

Bối cảnh quân sự của Tập đoàn quân Bắc trong chiến dịch một bức tranh phức tạp và đầy kịch tính, nơi các mưu lược và cá tính quân sự đóng vai trò quyết định. Nổi bật trong bức tranh này là Tướng von Bülow, chỉ huy Quân đoàn III của Phổ, một trong những viên tướng tài năng nhất của quân đội Phổ thời bấy giờ. Sinh năm 1755 trong một gia đình quý tộc vừa xuất chúng vừa lập dị, Bülow đã có một sự nghiệp binh nghiệp lẫy lừng từ Chiến tranh Kế vị Bayern, các cuộc chiến chống cách mạng Pháp cho tới chiến dịch thảm khốc năm 1806-1807. Ông là một người thẳng thắn, cương quyết và có trí tuệ sắc sảo, nhưng chính những phẩm chất này cũng khiến ông trở thành một cấp dưới “khó chịu” khi liên tục mâu thuẫn với các chỉ huy cấp trên, bao gồm cả mối quan hệ căng thẳng với Thái tử Thụy Điển, Bernadotte.

Về mặt quân sự, Bülow đại diện cho trường phái quân sự cổ điển, nhấn mạnh vào sự thận trọng trong tiếp tế và tổ chức, khác biệt hoàn toàn với cách thức chiến tranh linh hoạt, bất chấp khó khăn của người Pháp. Sự bảo thủ này khiến ông từng là đối thủ quyết liệt của Scharnhorst và là nguyên nhân khiến ông trì hoãn, làm ảnh hưởng xấu đến kết quả trận Bautzen. Tuy nhiên, trong cuộc đối đầu với Napoléon vào mùa thu 1813, Bülow lại đóng vai trò người ủng hộ chiến lược “tiêu diệt nhanh,” có lẽ một phần do mâu thuẫn cá nhân với Bernadotte, người mà ông cho là quá thận trọng.

Bước vào tháng 8 năm 1813, trước sức ép của quân Pháp, tình hình chiến lược trở nên vô cùng căng thẳng. Thái tử Bernadotte, nắm quyền chỉ huy Tập đoàn quân Bắc, đã quyết định áp dụng chiến thuật Fabian nhằm tránh giao tranh trực diện với Napoléon, thay vào đó kéo dài chiến dịch, đánh tiêu hao vào sườn và hậu tuyến của đối phương. Tuy nhiên, địa hình Bắc Đức bằng phẳng không thuận lợi cho kiểu chiến tranh phòng thủ dài hạn này, trừ vùng đầm lầy phía bắc Berlin, nơi địa hình chia cắt, nhiều sông hồ và rừng rậm, có thể cản trở cuộc tiến công của quân Pháp.

Mặc dù Bernadotte ban đầu muốn rút lui phía sau sông Havel để lợi dụng địa hình phòng thủ, nhưng ông đã phải từ bỏ kế hoạch này do sức ép từ dư luận, quân đội và cả các tướng lĩnh Phổ như Bülow và Tauentzien . Bởi Berlin là thủ đô, biểu tượng tinh thần, và việc từ bỏ Berlin mà không đánh một trận ra hồn là điều không thể chấp nhận được. Vì vậy, Tập đoàn quân Bắc đã triển khai một tuyến phòng thủ ở phía nam Berlin, dọc theo vành đai sông Nuthe và Notte, với các pháo đài nhỏ và vùng đầm lầy dày đặc.

Ở phía bên kia chiến tuyến, quân Pháp dưới quyền chỉ huy của Thống chế Oudinot được giao nhiệm vụ đánh chiếm Berlin. Dù là một vị tướng dày dạn kinh nghiệm, từng lập công lớn tại Wagram và trong cuộc rút lui qua sông Berezina, Oudinot không phải là một nhà chỉ huy độc lập xuất sắc. Ông chỉ thực sự hiệu quả khi chiến đấu dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Napoléon. Đội quân mà Oudinot nắm giữ gồm khoảng 70.000 quân, nhưng phần lớn là tân binh người Ý và quân từ Liên bang sông Rhine, kém kinh nghiệm và thường hay đào ngũ. Điều này, cộng với sự đánh giá quá thấp về sức mạnh của các đơn vị Landwehr từ phía Napoléon, đã đặt nền móng cho thất bại của quân Pháp tại mặt trận này .

Đến ngày 17 tháng 8 năm 1813, Tập đoàn quân Bắc đã xác định rõ vị trí của đối phương: Tập đoàn quân Berlin của Pháp đang tập trung tại khu vực Baruth, chuẩn bị cho một cuộc tấn công lớn. Dù vẫn còn nhiều thông tin mâu thuẫn về ý đồ chiến lược của Napoléon, nhưng Bernadotte đã đúng khi tin rằng đối thủ của ông sẽ là Oudinot, chứ không phải chính Hoàng Đế Pháp. Điều này đã củng cố thêm quyết tâm của Bernadotte trong việc giữ vững phòng tuyến Berlin, sẵn sàng đẩy lui cuộc tấn công bằng chiến thuật phòng thủ chủ động, khai thác tối đa địa hình rừng rậm và đầm lầy.

 


Ngày 18 và 19 tháng 8 trôi qua với những cuộc đụng độ không đáng kể tại các tiền đồn. Trước các báo cáo về hoạt động tiến quân của đối phương, Thái tử Thụy Điển đã ra lệnh tập trung tập đoàn quân về cánh phải để đối phó với một cuộc tấn công từ hướng Luckenwalde. Quân đoàn Wingingerode tiến về Beelitz, các sư đoàn Krafft và Hessen-Homburg của Quân đoàn Bülow đóng ở Saarmund, quân Thụy Điển tại Potsdam, còn Quân đoàn Tauentzien được đẩy lên Tempelhof. Chỉ có các sư đoàn Thümen và Borstell tạm thời giữ nguyên vị trí tại Mittenwalde, Zossen và Trebbin.

Trong khi đó, ngày 19 tháng 8, Oudinot điều chỉnh cánh trái, đưa Quân đoàn XII và kỵ binh Arrighi tới Luckenwalde, trong khi Reynier đóng ở Schönefeld và Bertrand ở Baruth. Đội hình này giúp Oudinot tiếp cận quân tiếp viện của Girard từ Magdeburg và sử dụng con đường Luckenwalde để tiến quân. Ngày 20 tháng 8, một mệnh lệnh dứt khoát từ Napoléon yêu cầu tiến công trực diện, không được lãng phí thời gian vào các động thái vòng vo. Kết quả là quân Pháp chia thành ba đội hình tiến về Trebbin-Saalow, dẫn đến ba trận giao tranh dữ dội tại Trebbin, Nunsdorf và Mellen, buộc quân Phổ rút lui.

Thái tử Thụy Điển, dù chưa biết kết quả trận chiến vào ngày 21, đã quyết định tận dụng sự chần chừ của Oudinot và chuẩn bị cho một trận quyết chiến. Ông ra lệnh tập trung toàn quân vào ngày 22 tại Saarmund để đánh vào sườn quân Pháp khi họ tiến ra khỏi rừng, đồng thời tấn công trực diện bằng các sư đoàn Thümen, Borstell và Quân đoàn Tauentzien ở Kleinbeeren. Các mệnh lệnh triển khai này tỏ ra phù hợp khi giúp củng cố mặt trận và tập trung khối quân chủ lực tại Saarmund, tạo nên thành thế áp đảo với 98.000 quân liên minh chống lại khoảng 80.000 quân Pháp.

Dù vậy, một giai thoại phổ biến khẳng định rằng vào sáng ngày 22 tháng 8, Thái tử từng có ý định rút quân qua sông Spree vì không tin tưởng vào khả năng chiến đấu của lực lượng mới thành lập, và chỉ khi bị tướng Bülow phản đối kịch liệt, ông mới từ bỏ ý định này. Tuy nhiên, nhiều sử gia bác bỏ câu chuyện này, coi đó là một truyền thuyết không có cơ sở. Hoàn cảnh chiến lược và tính cách của Thái tử đều cho thấy ông không có lựa chọn nào khác ngoài việc quyết chiến để giữ vững vị thế của mình trước liên quân và quân đội dưới quyền.

Tối ngày 22 tháng 8, Oudinot tin rằng quân Phổ đã bị đẩy lùi và ông có thể tiến vào Berlin mà không gặp bất kì trở ngại nào. Do phía nam Berlin là các khu rừng rậm rạp nên Oudinot không thể nào đánh thẳng tới Berlin với toàn bộ lực lượng di chuyển tập trung mà ông phải chia nhỏ thành nhiều phần để tiến quân dọc nhiều ngã đường .Ông lên kế hoạch chia quân thành 3 cánh tiến  qua các ngã Blankenfelde, Großbeeren và Ahrensdorf trong ngày 23 tháng 8, cho rằng chỉ cần vượt qua rừng là có thể thẳng tiến tới Berlin. 


Sáng ngày 23 tháng 8 năm 1813, quân  Pháp dưới quyền Thống chế Oudinot bắt đầu tiến công về phía Berlin với ba cánh quân, trong đó trung tâm do Reynier chỉ huy hướng thẳng tới Großbeeren.  Ban đầu, Großbeeren chỉ được bảo vệ bởi một lực lượng nhỏ của Phổ gồm ba tiểu đoàn và bốn khẩu pháo. Khi các đơn vị Sachsen của Reynier tràn lên, họ nhanh chóng đẩy lui quân đồn trú Phổ và chiếm được Großbeeren sau một trận đấu pháo ngắn. Reynier cho rằng nhiệm vụ trong ngày đã hoàn thành, nên ra lệnh cho quân lính hạ trại nghỉ ngơi, mà không ngờ rằng đây là một sai lầm chí mạng.

Ngay chiều hôm đó, quân Phổ dưới quyền chỉ huy của tướng Bülow bất ngờ mở cuộc phản công mạnh mẽ từ hướng Heinersdorf. Pháo binh Phổ khai hỏa chính xác, bắn thẳng vào các đơn vị Sachsen đang đóng quân lỏng lẻo quanh Großbeeren. Dưới cơn mưa xối xả, quân Pháp nhanh chóng rơi vào hỗn loạn. Các đợt phản công của Reynier nhằm giữ vững Großbeeren đều thất bại trước sự phối hợp chặt chẽ giữa pháo binh và bộ binh Phổ. Sau vài giờ chiến đấu căng thẳng, quân Pháp bị đánh bật khỏi Großbeeren, buộc phải tháo chạy về phía nam, bỏ lại nhiều thương vong và khí tài.

Trước đó, theo lệnh của Thái tử Thụy Điển, Bülow đã dẫn quân từ Heinersdorf tiến về Ruhlsdorf để hội quân với lực lượng Thụy Điển. Tuy nhiên, khi nghe tiếng pháo nổ dữ dội từ hướng Blankenfelde, ông quyết định tiến xa hơn về phía Lichtenrade, dù điều này làm trái thượng lệnh. Đến trưa, khi trời đổ mưa tầm tã, quân Bülow mệt mỏi hạ trại tại Heinersdorf, và ngay lúc ấy, tin báo quân Pháp đang tiến chiếm Großbeeren đã đến. Nhận định đây là thời cơ thuận lợi để phản công, Bülow ra lệnh chuẩn bị lực lượng, đồng thời phái người đến báo với Thái tử về ý định chiếm lại Großbeeren. Thái tử ủng hộ quyết định của Bülow nhưng từ chối gửi viện binh, với lý do:

“Mỗi người tự sẽ bảo vệ chiến tuyến của mình.”

Chiều hôm đó, bất chấp cơn mưa xối xả và tình trạng lầy lội, quân Phổ bắt đầu hành quân về phía Großbeeren. Trận chiến mở màn bằng một đợt pháo kích dữ dội từ pháo binh Phổ, đánh vào cao điểm Windmühlenberg, nơi ba khẩu đội pháo của quân Pháp đang án ngữ, được bảo vệ bởi sư đoàn Sachsen của tướng Sahr. Do mưa lớn, quân Pháp đang bận dựng trại nên không kịp phản ứng cho đến khi pháo Phổ đã phủ kín trận địa. Bülow tổ chức quân thành hai tuyến, với các sư đoàn Hessen-Homburg và Krafft ở tiền tuyến, còn sư đoàn Thümen và kỵ binh, pháo binh dự bị ở tuyến sau. Sự phối hợp giữa pháo binh và bộ binh Phổ nhanh chóng tạo ra ưu thế vượt trội, khi họ đưa tới 80 khẩu pháo vào trận địa, trong khi quân Pháp chỉ có tối đa 68 khẩu.


Tới khoảng 5 giờ chiều, khi đợt pháo kích Phổ đã làm suy yếu hỏa lực Pháp, Bülow ra lệnh tấn công tổng lực. Sư đoàn Krafft, dưới tiếng trống thúc quân, xung phong qua trận địa pháo, tấn công trực diện Großbeeren. Quân Sachsen tại đây, bị kẹp giữa Lữ đoàn Krafft ở phía bắc và Lữ đoàn Borstell từ Kleinbeeren đánh tới từ phía đông, nhanh chóng bị đánh bật khỏi làng. Quân Pháp nỗ lực tập hợp lại ở phía nam Großbeeren, nhưng bị truy kích quyết liệt. Sư đoàn Hessen-Homburg tiến công vào cao điểm Windmühlenberg, tạo thành thế gọng kìm, khiến quân Pháp và Sachsen hoảng loạn tháo chạy về phía rừng. Cuộc giao tranh ác liệt bằng lưỡi lê và báng súng diễn ra trong rừng, kết thúc bằng việc quân Phổ đẩy lùi hoàn toàn quân địch, chiếm trọn Großbeeren và kiểm soát hoàn toàn cao điểm chiến lược này.



Buổi tối, trong lúc quân Phổ đang chuẩn bị rút về đóng trại thì bất ngờ, cánh quân thứ ba của Pháp (Quân đoàn XII) dưới quyền Oudinot, hành quân sau cùng và trước đó khi nghe tiếng pháo, đã đổi hướng tiến về Ruhlsdorf. Khoảng 8 giờ tối, trong màn đêm đen kịt, kỵ binh Pháp do Fournier chỉ huy bất ngờ chạm trán quân Phổ tại Neubeeren. Trận đánh đêm hỗn loạn nổ ra khi Khinh kỵ Phổ bất ngờ đánh vào sườn quân Pháp, gây ra cảnh hỗn loạn . Kỵ binh Pháp hoảng loạn bỏ chạy, kéo theo cả đội hình bộ binh của họ tan tác. Những gì còn lại của Quân đoàn XII cũng phải rút lui về Ahrensdorf trong tình trạng rối loạn.

Oudinot, nhận ra tình thế không thể cứu vãn, triệu tập Reynier vào đêm đó tại Wietstock. Trước thực tế là quân Reynier không còn khả năng chiến đấu, họ quyết định ra lệnh rút lui trong đêm, rời bỏ Großbeeren và quay lại các vị trí xuất phát ban đầu, qua đó từ bỏ hoàn toàn ý đồ đánh chiếm Berlin. Sáng ngày 24 tháng 8, quân Pháp đã ở phía sau tuyến phòng thủ ngày hôm trước, chấm dứt mối đe dọa đối với Berlin.

Tổn thất của quân Pháp trong trận Großbeeren là khoảng 3.000 người, 13 khẩu pháo và 60 xe đạn dược, trong khi quân Bülow chỉ mất khoảng 1.000 người.

 


Nhiệm vụ của Oudinot trong bối cảnh bị áp đảo cả về quân số lẫn vị trí thuận lợi của Vương Thái Tử Thụy Điển là gần như không thể đạt được . Nếu Oudinot tiến quân thành một đội hình duy nhất xuyên qua địa hình rừng rậm, đầm lầy và sông ngòi, ông có nguy cơ bị đánh bại thành từng phần trước khi toàn quân tập hợp đầy đủ. Nhưng nếu chia quân làm hai hoặc ba cánh, rất có thể các cánh quân sẽ bị tấn công riêng lẻ và tiêu diệt từng phần trước khi hội quân ở bìa rừng. Dù chọn cách nào, Oudinot vẫn phải đối mặt với 90.000 quân địch chiếm giữ vị trí phòng ngự mạnh ở Gütergoß-Ruhlsdorf-Heinersdorf, trong khi quân ông chỉ có 60.000 người và phải tổ chức đội hình tấn công trong điều kiện vô cùng bất lợi.

Những sai lầm của Reynier, dẫn đến thất bại của hai sư đoàn, thực ra đã giúp Oudinot tránh khỏi sự hủy diệt hoàn toàn, cho phép ông rút lui an toàn phần lớn quân đội của mình. Tuy nhiên, bản thân Oudinot không thể có cái nhìn tổng quan về tình hình này. Màn sương mù dày đặc của rừng rậm và việc kỵ binh trinh sát kém hiệu quả đã khiến ông hoàn toàn mù mịt về động thái của đối phương. Kết quả là cuộc hành quân ngày 23 diễn ra trong tình trạng chủ quan, không có kế hoạch ứng phó cụ thể nếu đụng độ quân thù.

Bên cánh phải, cánh quân của Bertrand đã không dám đánh quyết liệt để mở đường tiến ra vùng đất trống, mà thay vào đó, chờ đợi sự xuất hiện của cánh quân bên cạnh. Trong khi đó, cánh trái khởi hành muộn, không thể ra khỏi bìa rừng trong ngày 23. Điều này khiến trung quân phải đơn độc tiến ra khỏi rừng, gặp ngay đối thủ biết cách khai thác triệt để tình thế bị chia cắt của họ. Kết quả là cánh trung tâm phải rút lui, kéo theo cả hai cánh quân hai bên. Chỉ một phần ba lực lượng Oudinot thực sự tham gia giao chiến, nhưng sai lầm trong đánh giá tình hình và sự chủ quan đã buộc cả đội quân phải rút lui trong hỗn loạn.

Ngược lại, tình thế của Thái Tử Thụy Điển thuận lợi hơn nhiều. Ông dự đoán đúng về trận chiến ngày 23, lên kế hoạch chủ động tấn công và tự tin vào chiến thắng. Khi nhận tin Bülow yêu cầu tiếp viện để tái chiếm Großbeeren, Kronprinz từ chối, vì Bülow có lợi thế áp đảo trước cánh quân Reynier cô lập. Trận đánh mang tính chất một cuộc phục kích được thực hiện kịp thời và quyết đoán, dẫn đến thắng lợi của Tập đoàn quân Bắc. Dù vậy, thắng lợi này không mang tính quyết định, do phần lớn quân Pháp vẫn còn nguyên vẹn và tổn thất của họ không quá lớn. Điều có thể làm nên bước ngoặt là một cuộc truy kích mạnh mẽ, nhưng điều đó đã không xảy ra.

Đến đêm 23 tháng 8, các đơn vị của Bülow quá kiệt sức để tiếp tục truy đuổi, trong khi mưa lớn và địa hình khó khăn càng làm chậm bước tiến của họ. Ngày 24 cũng trôi qua mà không có hành động quyết đoán nào, do Thái Tử Thụy Điển lo sợ mối đe dọa từ Quân đoàn Davout (thực ra là Girard) đang tiến đến từ Magdeburg. Ông liền chia quân để bảo vệ sườn phải, chỉ để lại ba đơn vị đuổi theo Dudinot, nhưng lại chỉ tiến hành các cuộc thăm dò yếu ớt, thay vì đánh bại hoàn toàn quân địch đang trên đà tan rã.

Ngày 25, Oudinot tập hợp quân của mình ở phía nam Luckenwalde-Baruth, sau đó tiếp tục rút lui trong trật tự, trong khi các lực lượng Phổ chỉ vừa chạm được tới hậu quân của Bertrand nên không thể chặn đứng cuộc rút lui này. Sự chậm chạp của Bülow và việc bộ chỉ huy Tập đoàn quân Bắc tụt lại phía sau đã làm mất cơ hội để tiêu diệt đạo quân của Oudinot .

Chỉ đến ngày 26, khi Thái Tử Thụy Điển  nhận ra rằng lực lượng đe dọa từ Magdeburg là Girard chứ không phải Davout thì ông mới tiếp tục truy kích Oudinot một cách nghiêm túc . Nhưng lúc này thì quân Pháp đã rút lui quá xa để có thể bị tiêu diệt hoàn toàn.

Vào nga 28 tháng 8, quân Phổ tiến vào Ludau, bắt sống hơn 1.000 tù binh và chiếm 8 khẩu pháo sau vài giờ pháo kích . Những ngày tiếp theo, hai bên chỉ thực hiện các cuộc giao tranh nhỏ, cho đến khi quân Pháp rút về Wittenberg ngày 2 tháng 9, còn quân Bắc chiếm lĩnh các vị trí đối diện. Trận đánh ngày 3 tháng 9 tại Dobien và Euper không mang lại kết quả do hệ thống phòng thủ vững chắc của quân Pháp.

Trong khi đó, từ ngày 24 tháng 8, quân Phổ đã triển khai Sư đoàn Hirschfeld đi đối phó với cánh quân của Girard. Ngày 26 tháng 8, Hirschfeld hành quân về phía Belzig, nơi quân Girard đóng trại một cách chủ quan. Nhận ra cơ hội đánh úp, Hirschfeld tổ chức một cuộc tấn công táo bạo, nhưng thiếu sự phối hợp nhịp nhàng, khiến cuộc tấn công bị ngưng trệ bởi hỏa lực pháo binh Pháp.


Buổi sáng hôm đó, quân Phổ tiến về phía trại địch với ba tiểu đoàn tiền quân, pháo binh và lực lượng chính, triển khai từ rừng Steindorf. Cánh trái của quân Phổ tiến về phía rừng Belziger và Hüttenberg, trong khi cánh phải đánh chiếm ngôi làng Lübniß đang bốc cháy, đẩy quân Pháp về phía Hagelberg. Tiền quân của Reuß vượt qua rừng bạch dương, hợp lực với tiền quân và tiếp tục cuộc tiến công. Khi quân của Putlik tiến ra khỏi rừng Steindorf, họ bị chặn bởi lực lượng Pháp cố thủ trong rừng Belziger, dẫn đến một cuộc giao tranh ác liệt. Một loạt đạn bất ngờ của quân Pháp khiến các tiểu đoàn Phổ rối loạn, nhưng họ nhanh chóng tập trung  lại ở rìa rừng và tiếp tục tiến quân.

Đến khoảng 4 giờ chiều, lực lượng Phổ đã tiếp cận Triftberg, nhưng pháo binh Pháp triển khai trên cao điểm đã chặn bước tiến của họ. Major von Bornstedt, chỉ huy một trong những tiểu đoàn tiên phong, quyết định mở cuộc xung phong bằng lưỡi lê nhằm chiếm trận địa pháo của quân Pháp. Tuy nhiên, khi chỉ còn cách trận địa 200 bước, quân Phổ bị hỏa lực dữ dội của tiền binh và bộ binh Pháp chặn lại, khiến cuộc tấn công rơi vào hỗn loạn và dẫn đến sự rút lui toàn diện. Nhận thấy sự bối rối của đối phương, tướng Girard nhanh chóng tổ chức phản công, tái chiếm các vị trí chiến lược như Klein-Glien, Hagelberg và đồi Cối Xay Gió. Quân Phổ tan tác giữa rừng Belziger và rừng bạch dương, và một thất bại thảm khốc tưởng như không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, vào thời điểm nguy cấp, Trung tá Marwig xuất hiện với ba tiểu đoàn tiếp viện từ cánh trái, thiết lập một phòng tuyến vững chắc giữa hai khu rừng, đồng thời ông cho triển khai pháo binh trên đồi Spitzberg và đưa thêm pháo từ Lübniß tới, tạo thành một trận địa pháo mạnh . Điều này đã giúp chặn đứng đà phản công của quân Pháp, đồng thời tạo điều kiện cho các tiểu đoàn Phổ bị tan rã trước đó tái tổ chức.

Trong khi cuộc giao tranh tại hướng chính tạm thời ổn định, bên cánh trái, các đơn vị Landwehr đã bí mật vượt qua rừng Belziger, chiếm được Kiehnberg và tiến đến tấn công phía đông Hagelberg. Ngôi làng được phòng thủ yếu ớt nhanh chóng thất thủ, đe dọa sườn phải và hậu phương của quân Pháp. Girard, nhận thấy nguy cơ bị bao vây, buộc phải quyết định rút lui, nhưng trước hết ông phải đẩy lùi cánh trái quân Phổ. Girard gửi bốn tiểu đoàn tấn công vào Hagelberg, đẩy lui các đơn vị Landwehr về lại rừng Belziger, thậm chí lấy lại cả Kiehnberg. Tuy nhiên, đúng vào lúc kỵ binh Pháp sắp đánh tan đội hình rút lui của quân Phổ, hai trung đoàn kỵ binh Cossack của Shernichev bất ngờ xuất hiện từ phía đông nam Grüßdorf, đột kích và làm tan rã hoàn toàn kỵ binh Pháp. Trước cảnh tượng này, quân Phổ nhanh chóng lấy lại tinh thần, quay lại phản công, phối hợp với một trung đoàn Cossack khác, bao vây và đánh bại hai tiểu đoàn Pháp đang phòng thủ phía bắc Petersberg, buộc họ phải đầu hàng và gần như không kháng cự. Trong lúc này, Trung tá Marwig đã thành công trong việc tái tổ chức các tiểu đoàn ở trung tâm, phát động cuộc tấn công mới, chiếm lại đồi Cối Xay Gió, đánh bại quân Pháp tại đây và thu giữ hai khẩu pháo. Cuộc tấn công sau đó chuyển sang phía bắc Hagelberg, khiến hai tiểu đoàn Pháp bị bao vây hoàn toàn. Một tiểu đoàn bị đẩy lùi về phía bức tường bao quanh nghĩa trang, trong khi tiểu đoàn còn lại bị kẹt ở lối vào làng. Cả hai đơn vị này đều bị quân Phổ tấn công dữ dội, dẫn đến một vụ thảm sát kinh hoàng khi các binh sĩ Landwehr, trong cơn cuồng nộ chiến thắng, không cho quân Pháp cơ hội đầu hàng. Tướng Girard bị thương nặng trong cuộc giao tranh và được đưa khỏi chiến trường.



 Trong khi cánh phải của quân Pháp bị đánh tan, cánh trái của họ, với khoảng sáu tiểu đoàn còn lại, bắt đầu rút lui về phía Trifthöhe. Bốn tiểu đoàn Phổ nhanh chóng truy đuổi, trong khi pháo binh được triển khai trên đồi Cối Xay Gió để bắn yểm trợ, ngăn chặn pháo binh Pháp đang cố gắng bảo vệ cuộc rút lui về Schlammau và Wiesenburg. Tuy nhiên, bóng tối buông xuống và tình trạng kiệt sức của cả hai phe đã khiến cuộc giao tranh không thể kéo dài thêm, và quân Phổ cũng không đủ sức tổ chức một cuộc truy kích hiệu quả.

Kết thúc trận chiến, sư đoàn của Girard gần như bị xóa sổ: chỉ khoảng 3.000 binh sĩ sống sót trở về Magdeburg, phần lớn không còn vũ khí hay trang bị. Khoảng 3.000 lính Pháp bị bắt, 3.000 người khác tử trận. Quân Phổ thu được tám khẩu pháo, 20 xe ngựa và 6.000 khẩu súng trường từ chiến trường. Đây là chiến thắng vang dội nhất của lực lượng Landwehr trong chiến tranh giải phóng , vì thế mà trong lịch sử Đức thì trận Hagelberg còn được gọi là trận Landwehr (Landwehrschlacht) .

Quyết định này đã mở ra cơ hội cho quân đồng minh. Khi đoàn quân của Girard bắt đầu rút lui, sự xuất hiện đột ngột của kỵ binh Cossack khiến hai tiểu đoàn Pháp hoảng loạn, chịu tổn thất nặng nề, và bản thân Girard bị thương nặng — một đòn giáng chí mạng vào tinh thần và sự chỉ huy của quân Pháp trong ngày hôm đó. Không còn sự điều hành thống nhất, chỉ nhờ sự thiếu quyết đoán của đối phương mà sư đoàn của Girard thoát khỏi nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn.

Tướng Hirschfeld, sau khi giao việc truy kích cho Cossack, chuyển quân về Ziefar, còn Marwitz, theo lệnh của Thái tử Thụy Điển, đưa phần lớn lữ đoàn của mình tới Dömitz để hợp lực với Wallmoden. Đến ngày 31 tháng 8, sư đoàn Hirschfeld trở về với Tập đoàn quân Bắc, đóng vai trò bảo vệ cánh phải từ ngày 4 tháng 9.

Mặt khác, thất bại của Oudinot tại Großbeeren, dù không quá nặng nề về nhân lực, đã làm lung lay hoàn toàn lòng tin vốn đã ít ỏi của viên thống chế này vào bản thân và binh lính mình chỉ huy, dẫn đến cuộc rút lui vội vã về Wittenberg, làm suy yếu trầm trọng kỷ luật và tinh thần của toàn quân. Đến ngày 3 tháng 9, quân đội Pháp đóng thành hình bán nguyệt quanh pháo đài Wittenberg, chờ đợi người chỉ huy mới — Thống chế Ney, người mà Napoléon kỳ vọng sẽ đảo ngược tình thế.

Ney, với biệt danh “người dũng cảm nhất trong những người dũng cảm”, là một chiến binh kiên cường nhưng thiếu tầm nhìn chiến lược của một thống soái thực thụ. Nhiệm vụ mà ông nhận được là tiến về Baruth trong hai ngày, để phối hợp với quân của Napoleon cho một cuộc tấn công quyết định vào Berlin. Tuy nhiên, bởi tình báo thiếu chính xác và yêu cầu di chuyển quá nguy hiểm đã đặt Ney vào thế khó.

Thái tử Thụy Điển, với sự thận trọng quen thuộc, đã nhận định đúng rằng Napoleon không thể bỏ qua thất bại ở Großbeeren mà sẽ tìm cách báo thù. Ông tập trung quân ở vị trí phòng thủ thuận lợi, chặn các ngả đường từ Wittenberg tới Berlin, sẵn sàng đối phó với mọi đòn tấn công. Trong khi đó, Bülow sốt sắng muốn tấn công pháo đài Wittenberg và vượt sông Elbe, nhưng Thái tử từ chối mọi hành động mạo hiểm, quyết định chờ diễn biến tiếp theo.

Đến ngày 5 tháng 9, Thống chế Ney lên kế hoạch hành quân cho lực lượng của mình vào lúc 10 giờ sáng. Tuy nhiên, do Sư đoàn Dobschütz thuộc Quân đoàn Tauetnzien đang án ngữ tại Zahna và Seyda theo lệnh của Thái tử Thụy Điển nhằm cầm cự, tạo điều kiện cho các lực lượng khác của Tập đoàn quân Bắc đến chi viện, nên giao tranh đã nổ ra tại Zahna.

Khoảng 10 giờ sáng, Quân đoàn Oudinot bắt đầu triển khai từ Euper hướng tới Zahna, Absdorf và Woltersdorf. Mặc dù Dobschütz đã bố trí quân chiếm giữ các bụi rậm phía tây Zahna, nhưng quân Phổ nhanh chóng bị đe dọa ở hai bên sườn và buộc phải rút lui qua Zahna với tổn thất đáng kể.

Trong lúc Tướng Tauentzien vắng mặt do phải tới HQ của Bernadotte để họp, Tham mưu trưởng Rottenburg đã chỉ huy lực lượng chính của Sư đoàn tiến về Zalmsdorf và triển khai phòng ngự tại phía nam thị trấn. Quân của Dobschütz hợp nhất bên cánh phải, tạo thành lực lượng khoảng 11.500 người — quá ít để chống lại sức mạnh áp đảo của quân Pháp. Vì vậy, quân Phổ nhanh chóng phải rút lui dưới làn pháo kích dữ dội của đối phương, chịu thêm tổn thất khi một số đơn vị bị cắt rời khỏi đội hình chính, phải mất vài ngày mới hội quân lại được.

Phần lớn quân Phổ rút về Seyda qua Gadegast, trong khi một phần nhỏ tiến về Möllniz. May mắn là quân Pháp truy kích không mấy quyết liệt nên đã không có một thảm họa tại Seyda, nơi cửa ngõ rút lui bị tắc nghẽn và các lực lượng Landwehr non nớt có nguy cơ vỡ trận.

Đến khoảng 5 giờ chiều, giao tranh đã kết thúc tại Seyda. Quân đoàn Tauentzien hội quân tại Möllniz rồi tiếp tục rút về Jüterbog, dựng trại nghỉ ngơi tại các cối xay gió vào khoảng 10 giờ tối.

Kết thúc trận chiến , quân Phổ có 3.000 thương vong, trong khi quân Pháp chỉ tổn thất khoảng 300 người.

Thái tử Thụy Điển, người nắm quyền chỉ huy chiến lược, không hề bất ngờ trước cuộc tiến công của quân Pháp vào Quân đoàn Tauentzien. Ông đã lường trước tình huống này và tin rằng Tauentzien sẽ rút về Dennewitz hoặc Jüterbog nếu đối mặt với một cuộc tấn công vượt trội. Do đó, ông chỉ đơn giản nhắc lại mệnh lệnh cho Bülow hỗ trợ Tauentzien và chuẩn bị lực lượng của Wintzingerode để phản ứng nhanh.

Địa hình nơi diễn ra một trong những trận chiến quyết định nhất của chiến dịch là một phần của vùng cao Fläming, một dãy đất cao dạng cao nguyên nằm giữa các phụ lưu của sông Elbe và Havel. Trong số các dòng suối chảy qua khu vực này, suối Ahebach, bắt nguồn từ Nieder-Görsdorf và đổ vào sông Nuthe gần Jüterbog, là quan trọng nhất. Do bờ suối lầy lội, nó chỉ có thể vượt qua tại các điểm giao cắt ở Dennewitz và Rohrbeck. Địa hình lượn sóng nhẹ tạo ra những vị trí pháo binh tốt, các điểm phòng thủ vững chắc cho bộ binh, cũng như những cánh đồng thích hợp cho kỵ binh tấn công. Tuy nhiên, việc chỉ huy và quan sát trận địa lại vô cùng khó khăn do bụi mù dày đặc.

Khi các lực lượng của hai bên tiến đến gần nhau, một cuộc đụng độ là không thể tránh khỏi. Bertrand lập tức cho pháo binh triển khai, điều Sư đoàn Fontanelli tiến về phía rừng thông và đưa Sư đoàn Morand lên vị trí cao của cối xay gió ở tây bắc Dennewitz. Sư đoàn Württemberg của Franquemont tạm thời giữ vị trí ở phía nam suối Ahebach. Đồng thời, Tauenzien cũng triển khai pháo binh ở phía bắc rừng thông Dennewitz, bố trí bộ binh thành đội hình hướng nam để đối mặt với cuộc tấn công của quân địch.

Do không muốn lực lượng Landwehr của mình phải hứng chịu đòn tấn công trực diện, Tauentzien ra lệnh tiến quân vào khoảng 11 giờ, đúng lúc Sư đoàn Fontanelli bắt đầu cuộc tấn công. Tuy nhiên, các tiểu đoàn Phổ vừa mới vào tầm bắn của quân Pháp thì đã rơi vào một cuộc đấu súng hỗn loạn, kéo dài cho đến khi họ hết đạn. Sau đó, quân Phổ kiệt sức, rối loạn và phải rút lui về phía khu rừng gần Maltershausen. Một đợt tấn công của trung đoàn kỵ binh thương Ba Lan càng làm tình hình thêm hỗn loạn, nhất là khi pháo binh Phổ một phần bị tiêu diệt, một phần hết đạn.

Trận chiến chỉ kéo dài chưa đầy một giờ nhưng đã đủ để đẩy lui quân Tauentzien trong sự hỗn loạn đẫm máu. Lúc này, trong hàng ngũ Landwehr Phổ đã lan truyền tin đồn phải rút lui về Beelitz, khi họ thấy các đợt quân địch mới đang chuẩn bị tiến đến . Tuy nhiên, Tauentzien nhận thức rõ tình thế, quyết định trụ lại cho đến khi quân đoàn Bülow đến ứng cứu. Ông tung lực lượng dự bị cuối cùng của mình — kỵ binh — vào trận. Đội hình gồm có tám 8 kỵ đội , trong đó có 4 kỵ đội Landwehr, xung phong tấn công. Đòn tấn công đã diễn ra thành công vang dội khi khiến bộ binh cùng kỵ binh địch bị đánh tan , và có nhiều tù binh bị bắt giữ.


Khi họ chạm trán với bộ binh Württemberg ở phía bắc Dennewitz thì kỵ binh Phổ đã bị đẩy quay trở về vị trí xuất phát . Nhưng ý đồ của Tauentzien đã đạt được: đà tiến quân của địch bị chặn đứng, và quân đoàn Bülow đã tiếp cận chiến trường để tham gia trận chiến. Đây là thời khắc quyết định, vì lực lượng của Thümen — sư đoàn tiên phong của Bülow — vừa hành quân tới nơi, không kịp tổ chức lại đội hình mà lao thẳng lên cao điểm Denkmalshöhe và  Nieder-Görsdorf.


Tuy nhiên, Morand đã nhanh chóng triển khai lực lượng từ vị trí cối xay gió về cao điểm Denkmalshöhe, nã một trận mưa pháo và súng trường dày đặc đến mức hàng quân đầu tiên của Thümen phải quay đầu rút lui, và hàng quân thứ hai, dù trụ vững hơn, cũng buộc phải rút lui do không thể tiến lên được. Khi rút lui vội vã, pháo binh của Thümen đã để mất hai khẩu pháo vào tay quân địch.

Thümen không còn cách nào khác ngoài việc rút quân khỏi tầm bắn của địch để tổ chức lại đội hình. Chứng kiến diễn biến bất lợi này, Bülow lập tức ra lệnh cho Sư đoàn Hessen-Homburg tiến lên hỗ trợ Thümen. Với sự hỗ trợ này, cùng hỏa lực từ pháo binh tăng cường, quân Phổ cuối cùng đã chiếm được cao điểm sau một trận giằng co dữ dội, buộc Sư đoàn Morand phải rút lui. Morand tập hợp lại đội hình của mình, với cánh trái ở vị trí cối xay gió và cánh phải bám rừng thông dọc đường từ Nieder-Görsdorf đến Jüterbog. Tuy nhiên, Thümen nhận ra rằng một cuộc tấn công trực diện vào vị trí vững chắc này sẽ vô vọng, nên ông quyết định duy trì hỏa lực pháo binh ở phía trước đồng thời tập trung đánh chiếm khu rừng thông, rồi từ đó đánh vào sườn phải của quân Pháp, phối hợp với lực lượng của Tauentzien.

Quân Phổ đã tiến vào rừng, đánh bật các lực lượng của Fontanelli và Franquemont, đẩy lùi sườn phải của Morand, buộc ông ta phải rút về Rohrbeck. Nỗ lực tuyệt vọng của Bertrand nhằm phục hồi thế trận bằng lực lượng dự bị cuối cùng đã thất bại trước hỏa lực pháo binh dữ dội của quân Phổ. Như vậy, đến thời điểm này, khu vực phía bắc sông Ahebach cho đến Rohrbeck đã hoàn toàn nằm trong tay Sư đoàn Thümen.

Trong khi đó, vào khoảng 2 giờ chiều, quân đoàn Reynier đã có mặt trên chiến trường, với Sư đoàn Durutte chiếm giữ Dennewitz, còn hai sư đoàn Sachsen kiểm soát khu vực giữa Dennewitz và Göhlsdorf. Đối diện với họ, quân Phổ do Sư đoàn Krafft chỉ huy cùng phần chưa sử dụng của Sư đoàn Hessen-Homburg đã triển khai đội hình phòng thủ, bao gồm 14 tiểu đoàn, 24 kỵ đội và 32 khẩu pháo.

Theo lệnh Reynier, Lữ đoàn Mellenthin tấn công Göhlsdorf, nơi một tiểu đoàn của Sư đoàn Hessen-Homburg đang phòng thủ. Sau một cuộc kháng cự anh dũng, quân Phổ buộc phải rút khỏi ngôi làng, nhường lại quyền kiểm soát cho quân Sachsen. Lữ đoàn Mellenthin chiếm giữ ngôi làng, lữ đoàn Brause triển khai bên phải, và sư đoàn Sachsen thứ hai đóng ở tuyến sau. Trên cao điểm cối xay gió phía bắc ngôi làng, một trận tuyến pháo binh mạnh mẽ được thiết lập, nhanh chóng chiếm ưu thế trong cuộc đấu pháo ác liệt với lực lượng Krafft.

Như vậy, đối với người Pháp ở cánh này, thế cân bằng lực lượng đã được thiết lập. Tuy nhiên, Reynier nhận ra rằng một mình quân đoàn của ông không đủ để giành được thắng lợi quyết định trước kẻ thù. Do đó, ông chờ đợi quân đoàn Oudinot đang trên đường tới để tiếp tục tấn công. Ngược lại, Bülow, khi thấy rõ Lữ đoàn Borstell cùng quân Thụy Điển và quân Nga đang xuất hiện từ xa, quyết định phải tranh thủ cơ hội để giành chiến thắng trước khi đối phương trước khi viện binh kịp kéo đến (để một mình quân Phổ giành chiến thắng trận này) . Vì vậy, một cuộc tổng tấn công đã được thực hiện dọc toàn bộ chiến tuyến giữa Dennewitz và Göhlsdorf. Bên cánh trái, giao tranh diễn ra ác liệt, còn ở cánh phải thì  sau một trận đánh đẫm máu, kéo dài và bất phân thắng bại, đã buộc Lữ đoàn Mellenthin phải rút khỏi Göhlsdorf. Một khẩu đội Thụy Điển, đơn vị đầu tiên của quân Thái tử tới chiến trường, đã hỗ trợ mạnh mẽ cho cuộc tấn công này.

Đúng vào lúc Göhlsdorf thất thủ, Lữ đoàn Borstell đã tới nơi. Họ hành quân qua Kurz-Lipsdorf và Dalichow, sau đó chuyển hướng sang phía nam Göhlsdorf để tấn công từ cửa ngõ phía nam ngôi làng. Borstell kéo dài chiến tuyến của quân Phổ về phía nam, triển khai pháo binh và tìm cách tiến xa hơn ra khỏi làng, nhưng bị quân Sachsen đánh bật trở lại. Tình thế này vẫn kéo dài cho đến khoảng 3 giờ chiều khi quân đoàn Oudinot tới và, theo yêu cầu của Reynier, tham gia trận chiến từ bên cánh trái của Quân đoàn VII.


Trước sức tấn công mãnh liệt của lực lượng mới hợp nhất với Lữ đoàn Mellenthin, các tiểu đoàn Phổ hoàn toàn kiệt sức, tan rã vì cái nóng và bụi bặm, không thể chống cự lâu hơn. Göhlsdorf lại rơi vào tay quân Pháp lần thứ hai, buộc Borstell, giờ đây bị đe dọa từ cánh trái, phải tham gia rút lui. Tình thế của Bülow, trước đó vẫn còn rất thuận lợi, giờ đây đã trở nên cực kỳ nguy cấp. Bộ binh của ông bị thiệt hại nặng nề và kiệt sức, pháo binh không thể giành được ưu thế hỏa lực, trong khi quân Thụy Điển-Nga vẫn còn cách chiến trường khoảng nửa dặm.


Chính lúc này, Ney mắc một sai lầm nghiêm trọng, không chỉ khiến ông để tuột mất chiến thắng ở cánh trái mà còn quyết định cả trận chiến theo hướng bất lợi cho mình. Từ vị trí phía đông nam Dennewitz, không nhận ra rằng quyết định của trận đánh không còn ở Rohrbeck mà đã chuyển sang cánh trái, ông ra lệnh cho quân đoàn Oudinot hành quân về Rohrbeck để tái lập thế cân bằng của trận chiến. Reynier, nhận thấy mối nguy,đã cố gắng thuyết phục Oudinot giữ lại ít nhất một sư đoàn ở cánh trái, nhưng Oudinot đã quyết định tuân thủ mọi mệnh lệnh từ cấp trên một cách máy móc mà không dám làm trái lệnh .

Thế là Quân đoàn XII hành quân sang cánh phải, băng qua phía sau quân Sachsen, điều này tất yếu gây tác động tiêu cực đến tinh thần của họ, đúng vào thời điểm Bülow ra lệnh phản công trên toàn chiến tuyến. Bộ binh Borstell, dù đã bị đánh tan tác, vẫn mở cuộc tấn công lần thứ ba, chiếm lại ngôi làng sau một trận đánh giằng co quyết liệt. Cùng lúc đó, Sư đoàn Krafft chiếm được vị trí cao điểm cối xay gió, nơi đặt trận địa pháo binh Pháp .

Quân Pháp phải rút lui trong hỗn loạn, pháo binh vội vã kéo đi, khiến cả sư đoàn Sachsen thứ hai ở tuyến sau cũng bị cuốn vào cuộc rút lui chung. Chỉ nhờ đòn phản công quyết liệt của Sư đoàn Defrance mới giúp quân đoàn Reynier rút lui một cách có trật tự hơn. Tuy vậy, đến khoảng 5 giờ chiều, quân Bertrand ở Rohrbeck cũng buộc phải rút lui trước sức ép ngày càng lớn của quân Phổ.

Lúc này, Ney đã cố gắng lần cuối để tổ chức một cuộc phản công bằng Quân đoàn Bertrand, nhưng chỉ tạo được một mũi tiến công yếu ớt và nhanh chóng bị chặn đứng . Thiếu đạn dược, quân Pháp không thể cầm cự lâu hơn khi pháo binh Nga bắt đầu bắn đạn chùm vào họ từ Rohrbeck. Cả quân Pháp và quân Ý đều hoảng loạn tháo chạy qua ngôi làng đang cháy, để lại phần phía bắc của chiến trường cho quân Phổ chiếm giữ.

Trong khi đó, giao tranh tại Göhlsdorf cũng lắng xuống, do quân Phổ đã hoàn toàn vỡ trận và cần thời gian để tái tổ chức. Pháo binh Pháp và Sachsen ở phía đông làng đã quyết liệt ngăn chặn mọi bước tiến tiếp theo của quân Phổ. Phải đến khi các đơn vị tiếp viện của quân đội Nga-Thụy Điển, đặc biệt là pháo binh, kéo tới ngày càng đông, mới buộc được phòng tuyến pháo binh đối phương phải rút lui, tạo điều kiện cho bộ binh tiếp tục truy kích quân đoàn Reynier đang rút về Dehna.

Quân đoàn Oudinot, trên đường hành quân từ cánh trái quân đoàn Reynier về Rohrbeck, chưa kịp đến nơi thì đã bị đợt tấn công dữ dội của quân Phổ đánh bật. Cuối cùng, quân Pháp hoàn toàn tan rã, bị truy đuổi gắt gao bởi kỵ binh Nga và Thụy Điển, trên đường truy kích họ thu được nhiều tù binh và chiến lợi phẩm.

Trận thắng oanh liệt này đã phải trả giá đắt: quân Phổ tổn thất 10.510 người, chưa kể thương vong của quân Nga và Thụy Điển. Tuy nhiên, thiệt hại của quân Pháp còn lớn hơn nhiều, với khoảng 22.000 người chết, bị thương hoặc bị bắt, 53 khẩu pháo, 412 xe vận tải và 4 lá quân kỳ rơi vào tay liên minh.

Quan  trọng hơn cả là trận chiến này đã tác động tới tinh thần của quân Pháp. Báo cáo của Ney gửi về cho Napoleon đã thừa nhận:

“Tôi đã hoàn toàn bị đánh bại, và tôi không biết liệu quân của mình có còn có thể tập hợp lại được hay không." 

Trong trận chiến này các tướng lĩnh Phổ đã thể hiện tinh thần quyết chiến đáng khâm phục. Bất chấp tổn thất nặng nề của trận đánh hôm trước, tướng Tauentzien không hề do dự khi tiếp tục giao chiến với lực lượng vượt trội. Ông nhận được sự hỗ trợ tận tâm của Bülow, cùng sự dũng cảm của các tướng Borstell, Thümen, Krafft và Hessen-Homburg. Nhờ vào sự chỉ huy xuất sắc của Bülow, các nước đi chiến thuật hợp lý và lòng quả cảm của binh sĩ gồm phần lớn là Landwehr , quân Phổ đã giành được một trong những chiến thắng rực rỡ nhất của cuộc chiến . Tuy nhiên, không thể bỏ qua đóng góp quan trọng của pháo binh Thụy Điển-Nga và kỵ binh Nga, khi họ đã bắn vỡ chiến tuyến cuối cùng của Pháp , biến cuộc rút lui có trật tự thành một cuộc tháo chạy hỗn loạn. 

Ngược lại, thái độ thận trọng của Thái tử Thụy Điển lại bị lịch sử Đức chỉ trích gay gắt. Trước đó vào ngày 5 tháng 9, Bernadotte nhận được nhiều báo cáo mâu thuẫn về ý định của quân Pháp, nhưng ông vẫn ra lệnh tập trung các lực lượng của Tập đoàn quân Bắc tại Lobbesse để ngăn chặn mọi đòn tiến công về hướng Treuenbrießen hoặc Jüterbog. Các quân đoàn Phổ đã nhanh chóng hành quân trong đêm để hội quân đúng giờ, trong khi quân Nga và Thụy Điển xuất phát lúc 11 giờ sáng ngày 6 tháng 9, dù thời tiết khắc nghiệt nhưng đã hoàn thành chặng đường chỉ trong ba tiếng rưỡi. Họ nghỉ chân một lúc tại Edmannsdorf để lấy nước , sau đó tiếp tục hành quân tốc lực để hỗ trợ Bülow và Borstell. Khi nhận được tin báo từ Bülow về trận chiến, Thái tử Thụy Điển lập tức điều tiền quân hành quân tới chiến trường. Chủ lực hành quân hết tốc lực theo sau và chỉ giảm tốc độ khi biết rằng quân địch đã bắt đầu rút lui và lực lượng của họ đã kiệt sức sau một ngày hành quân liên tục. Điều này đã bác bỏ những cáo buộc cho rằng Thái tử cố tình chậm trễ hoặc ngăn cản chiến thắng của Bülow. Những lời chỉ trích này bắt nguồn từ những tài liệu tuyên truyền và không chính xác, nhưng vẫn được lặp đi lặp lại trong các tác phẩm lịch sử về chiến tranh giải phóng viết bằng tiếng Đức (nhất là các tài liệu cũ vào thế kỷ 19).

9. Chiến dịch tại hạ nguồn Elbe

Cùng lúc đó, ở hạ nguồn sông Elbe, Cụm quân đoàn Wallmoden đã thực hiện nhiệm vụ ngăn chặn quân Pháp tại Hamburg không can thiệp vào chiến dịch chính. Theo chỉ thị ngày 9 tháng 8 của Thái tử Thụy Điển, Wallmoden phải bảo vệ sườn phải của Tập đoàn quân Bắc, tránh giao chiến với lực lượng vượt trội và sẵn sàng rút lui khi cần thiết, trừ khi nhận được lệnh vượt sông Elbe để cắt đứt đường tiếp tế của quân địch trong trường hợp chiến dịch ở hướng chính diễn ra thành công.

Tập đoàn quân Bắc đã phân một lực lượng khoảng 27.000 quân dưới sự chỉ huy của tướng Wallmoden, bao gồm đơn vị từ nhiều biên chế khác nhau : Binh đoàn Nga-Đức, Binh Đức Anh-Đức, cùng các đơn vị Freikorps của Lützow và Reiche. Tuy nhiên, các lực lượng này còn thiếu kinh nghiệm và trang bị, điểm chung duy nhất gắn kết họ là lòng căm thù đối với Napoléon.

Wallmoden, xuất thân từ một gia đình Hannover nhưng đã có kinh nghiệm phục vụ trong biên chế của các nước Châu Âu nên là một chỉ huy thích hợp cho một đội quân đa quốc gia . Khi lệnh ngừng bắn kết thúc, Wallmoden triển khai lực lượng của mình phòng thủ từ biển Baltic đến sông Elbe, nhưng lực lượng của ông phải đối mặt với Quân đoàn XIII của Pháp dưới quyền Thống chế Davout - Thống chế số một của Napoléon. Dù Quân đoàn XIII có tới 33.000 người nhưng lực lượng này chủ yếu là các tân binh thiếu kinh nghiệm và kém nhiệt huyết, nhưng nhờ sự nghiêm khắc của Davout, họ vẫn có năng lực chiến đấu nhất định . Davout nhận chỉ thị phải phối hợp với Oudinot nhằm kéo quân đối phương khỏi Baruth và chuẩn bị tiến công thẳng tới Berlin khi thời cơ đến.

Vào ngày 16 tháng 8, thì quân Pháp bắt đầu các cuộc tấn công, ép lực lượng của Wallmoden rút lui về phía sau sông Schaale. Tới ngày 23 tháng 8, Davout tiến vào Schwerin, trong khi Wallmoden lùi về vị trí thuận lợi tại Ludwigslust. Tuy nhiên, sau khi chiếm Schwerin, Davout bất ngờ ngừng tiến công và rơi vào thế bị động khó hiểu, cho phép Wallmoden tổ chức các cuộc đột kích liên tục bằng kỵ binh và Freikorps , quấy rối các tiền đồn của quân Pháp, đẩy họ lùi sát về Schwerin.

Ngày 25 tháng 8, Wallmoden nhận lệnh từ Thái tử Thụy Điển quay về vùng Mark để đối phó với mối đe dọa từ Girard, dù ông biết rõ lệnh này xuất phát từ thông tin sai lệch. Tuy nhiên, chỉ hai ngày sau, khi tin chiến thắng tại Großbeeren đến, Wallmoden nhận được lệnh quay trở lại vị trí ban đầu, và ngày 28 tháng 8, ông đã về vị trí cũ mà Davout không hề hay biết.

Để thực hiện ý đồ của Thái tử là cô lập Davout khỏi Hamburg, Wallmoden hành quân về phía bắc, hy vọng tấn công các lực lượng Pháp tại Wismar, nhưng khi đến Friedrichsruh ngày 3 tháng 9, ông phát hiện quân Pháp đã rút lui nhanh chóng về Ratzeburg. Kỵ binh của Tettenborn lập tức chiếm lại Schwerin và Wittenburg, trong khi Vegesack tiến quân từ cánh phải, nhưng họ không thể ngăn cản cuộc rút lui của Davout. Cuộc truy kích chỉ dừng lại ngày 5 tháng 9, khi Wallmoden chạm trán với vị trí phòng ngự mới của quân Pháp.

Davout sau đó đã thiết lập một tuyến phòng thủ vững chắc kéo dài từ Lauenburg tới biển Baltic, dựa vào các chướng ngại tự nhiên như hồ Razeburg, sông Trave và các vùng đầm lầy. Các điểm vượt sông hạn chế được bảo vệ kỹ lưỡng bằng công sự, với các vị trí quan trọng như Lübeck, Travemünde và Lauenburg do những đơn vị mạnh chiếm giữ. Trọng tâm của phòng tuyến là cao nguyên Ziethen, nơi Davout tập trung khoảng 16.000 quân trong một vị trí có thể chống cự thành công ngay cả trước lực lượng đông đảo hơn. Sự phòng thủ kiên cố này đã khiến Wallmoden phải tạm dừng mọi nỗ lực tấn công trực diện.

Tuy nhiên, chiến dịch tháng 8 của Davout lại không tuân thủ chặt chẽ chỉ thị từ Hoàng đế. Việc tiến quân chậm chạp về phía Lauenburg và thời gian dài án binh bất động tại Schwerin cho thấy một sự thiếu quyết đoán lạ thường ở vị thống soái từng nổi tiếng vì tinh thần táo bạo và quyết liệt. Sau thất bại của Oudinot tại trận Großbeeren, Davout lại càng thận trọng, lo sợ bị cắt đứt liên lạc với Hamburg — vị trí chiến lược mà ông coi là quan trọng hơn cả việc chiếm Berlin hay Stralsund. Chính nỗi lo này đã khiến ông vào đầu tháng 9 rút lui về phía sau phòng tuyến Stecknitz, nhường thế chủ động cho Tập đoàn quân Bắc của Thái tử Thụy Điển.

Dù có thể biện hộ rằng quân đoàn trong tay Davout gồm phần lớn là lính tân binh thiếu kinh nghiệm, không đủ sức mở một cuộc tấn công lớn, nhưng rõ ràng ông đã đánh giá quá cao tầm quan trọng của thất bại tại Großbeeren và không thực hiện những biện pháp cơ bản như trinh sát để xác minh sức mạnh thực tế của đối phương. Kết quả là thay vì tạo áp lực lên sườn phải của liên minh thì Davout chọn cách phòng thủ thụ động, cuối cùng khiến quân Pháp để mất thế trận chủ động tại khu vực.

Nhìn lại toàn bộ chiến dịch tại mặt trận này,ta có thể thấy rõ sự tương phản trong phong cách chỉ huy của các sĩ quan liên minh . Nếu so sánh với sự quyết đoán và táo bạo của Blücher tại vùng Schlesien thì chiến lược của Thái tử Thụy Điển có vẻ thận trọng và có hệ thống hơn, đôi khi đến mức bảo thủ. Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng chính chiến thuật chậm rãi, có hệ thống ấy đã đem lại những thắng lợi quan trọng tại Großbeeren, Dennewitz và Hagelberg, đồng thời bảo toàn lực lượng của Tập đoàn quân Bắc, ngăn chặn những tổn thất vô ích có thể làm nghiêng cán cân lực lượng về phía Napoléon. Mặc dù một chút táo bạo theo kiểu Blücher hay Gneisenau có lẽ sẽ mang lại những kết quả mang tính quyết định hơn, nhưng sự cẩn trọng của Thái tử Thụy Điển đã đảm bảo sự ổn định và tiến trình thuận lợi cho chiến dịch chung của liên minh.

10.Yorck ''từ trận Wartenburg''

Như vậy kết thúc 3 tuần đầu tiên kể từ khi thỏa thuận ngừng bắn kết thúc , Napoléon thắng 1 trận và liên minh thắng 5 trận . Khi vị Hoàng Đế Pháp chỉ vừa mới yên tâm nghỉ ngơi sau chiến thắng tại Dresden vào ngày 28.8 thì liền nhận được tin về thất bại của Macdonald tại Katzbach . Trong vòng 24 tiếng sau đó thì ông tiếp tục nhận được tin về thất bại của Girard tại Hagelberg .

Dù chưa biết rõ tình hình cụ thể ở các hướng khác như nào nhưng Napoléon đã buộc phải lệnh cho Vệ Binh Đế Chế quay trở về Dresden để chuẩn bị hành quân tiếp viện cho các hướng ấy thay vì tiếp tục truy đuổi theo Tập đoàn quân Böhmen . Điều này đã vô tình dẫn đến việc quân đoàn Vandamme bị tiêu diệt trong trận Kulm vào ngày 30 tháng 8 .

Napoléon đã buộc phải quyết định giữa việc truy kích Tập đoàn quân Böhmenvào lãnh thổ Böhmen hay quay mũi nhọn về phía Tập đoàn quân Bắc của Thái tử Thụy Điển để chiếm Berlin và giành lại quyền kiểm soát Bắc Đức. Cả hai phương án đều có những mặt lợi và hại riêng. Việc tiến vào Böhmen nghe có vẻ hấp dẫn: nếu đánh bại được Tập đoàn quân Böhmen và buộc họ phải giao chiến một lần nữa thì có thể kết thúc chiến dịch tại đây ngay lập tức. Nhưng thực tế chiến trường lại không ủng hộ một cuộc tấn công như vậy. Lực lượng liên minh tại Böhmen vẫn vượt trội hơn quân Pháp, và ngay cả khi Napoleon đánh bại họ, việc tiến sâu vào một vùng đất trong lãnh thổ của địch khi không có hậu cần ổn định và bị đe dọa từ mọi phía là một canh bạc nguy hiểm.

Ngược lại, một đòn tấn công về  Berlin có vẻ hứa hẹn hơn. Trong khi hành quân về hướng này thì Napoléon luôn ở trung tâm của tuyến hậu cần kéo dài từ Hamburg đến Dresden, gần với các kho hậu cần và trong tình thế thuận lợi để đánh bại Thái tử Thụy Điển mà ông cho là một đối thủ thiếu quyết đoán. Việc chiếm được Berlin không chỉ là một chiến thắng quân sự, mà còn là một cú sốc tinh thần lớn, xóa nhòa những thất bại gần đây tại Großbeeren và Katzbach, đồng thời thể hiện uy thế với các bang quốc thuộc Liên bang sông Rhein. Chiến thắng này sẽ giải vây cho các pháo đài ở sông Oder và mở đường cho Davout tiến về Danzig.

Bị giằng xé giữa hai lựa chọn, Napoleon cuối cùng nghiêng về phương án đánh Berlin. Vào ngày 30 tháng 8, ông bắt đầu triển khai kế hoạch: một phần Vệ binh Đế chế sẽ vượt sông Elbe và hành quân về hướng Großenhain . Nhưng không lâu sau, những tin tức ảm đạm lại làm thay đổi cục diện. Tối ngày 30, báo cáo của Macdonald về tình trạng thảm hại của Tập đoàn quân sông Bober đã khiến Napoleon do dự. Đến rạng sáng ngày 31 tháng 8, khi nhận tin Vandamme bị đánh bại hoàn toàn tại Kulm, toàn bộ kế hoạch tiến công Berlin bị hủy bỏ.

Sự kiện bất ngờ này buộc Napoléon phải chuyển hướng sự chú ý về biên giới Böhmen. Nhận thấy không còn khả năng đích thân chỉ huy mặt trận phía Bắc, ngày 1 tháng 9, ông trao quyền chỉ huy Tập đoàn quân Berlin cho Thống chế Ney, với mệnh lệnh hành quân về Baruth để hợp lực với lực lượng dự bị của Hoàng đế tại Hoyerswerda, nhằm chuẩn bị cho một đợt tấn công mới vào Berlin. Nhưng mọi thứ tiếp tục xoay chuyển chóng mặt: chỉ một ngày sau, khi Napoléon đang trên đường tới Königsbrück để giám sát cuộc tấn công, một báo cáo khác từ Macdonald khiến ông buộc phải từ bỏ kế hoạch Hoyerswerda để quay sang đối phó trực tiếp với Blücher.

Vào ngày 2 tháng 9, Napoleon lệnh cho Vệ binh Đế chế và Quân đoàn Kỵ binh Latour-Maubourg nhanh chóng hành quân tới Bautzen, trong khi Quân đoàn Marmont cũng vượt sông Elbe để tiếp ứng. Ông dự định đến Bautzen vào rạng sáng ngày 4 tháng 9 và ngay lập tức mở cuộc tấn công nhằm đánh bại Blücher, đồng thời ra lệnh cho Poniatowski chuẩn bị đánh vào cánh trái của Tập đoàn quân Schlesien.

Mặc dù vậy, những lo ngại chiến lược vẫn đeo bám Napoleon. Ông nhận thức rõ rằng cuộc tấn công về phía Böhmen không chỉ khó thành công về mặt chiến thuật mà còn là một rủi ro lớn về mặt hậu cần và chiến lược: việc kéo dài thêm 150 km cho tuyến hậu cần vốn đã mỏng manh giữa Hamburg và Dresden sẽ tạo điều kiện cho các đơn vị du kích của liên minh cắt đứt bất cứ lúc nào. Ngược lại, tấn công Berlin vẫn là nước đi tối ưu, miễn là liên minh không ngay lập tức tái chiếm Dresden và Macdonald giữ vững phòng tuyến sông Neisse trước Blücher.

Tuy nhiên, thất bại của Vandamme đã phá vỡ kế hoạch này, buộc Napoleon phải chọn thế phòng thủ chiến lược thay vì tiếp tục mạo hiểm. Ông quyết định đóng quân ở vị trí trung tâm tại Hoyerswerda, từ đó có thể uy hiếp Blücher, hỗ trợ Ney tiến quân về Berlin, hoặc quay lại Dresden nếu Tập đoàn quân Böhmen tiến công. Nhưng điều này cũng đồng nghĩa với việc để mất thế chủ động chiến lược, nhường lại cơ hội cho liên minh tập hợp lực lượng và chuẩn bị đòn tấn công mạnh mẽ hơn trong những ngày tới. Có thể thấy kế hoạch Trachenberg đã xoay Napoléon như một cái chong chóng .

Vào tối ngày 3 tháng 9, Hoàng Đế rời Dresden, nghỉ đêm tại Groß-Harthau và sáng sớm hôm sau lên đường tới Bautzen. Dù đã biết trước tình trạng thảm hại của Tập đoàn quân sông Bober và đưa ra một vài biện pháp nhằm khôi phục lại trật tự kỷ luật và cải thiện tình hình, nhưng những gì ông tận mắt chứng kiến còn vượt xa những lo ngại tồi tệ nhất. Trên đường đi, ông liên tục chạm trán những toán lính chạy trốn trong hỗn loạn, điều này khiến cơn phẫn nộ của ông bùng lên dữ dội. Khi tới gần Welke, Napoléon lại bắt gặp tàn tích của một đoàn vận chuyển đạn dược lớn bị quân đội Thái tử Thụy Điển tấn công, nên đã bị phá hủy hoàn toàn bằng thuốc nổ, càng làm tăng thêm sự giận dữ của ông.

Khoảng 11 giờ sáng ngày 4 tháng 9, Napoléon đến Bautzen, nghỉ ngơi chốc lát rồi cùng Thống chế Macdonald cưỡi ngựa dọc theo con đường dẫn tới Löbau. Đắm chìm trong những suy nghĩ căng thẳng, cuối cùng ông quyết định ra lệnh tấn công ngay khi trông thấy tiền quân của Tập đoàn quân Schlesien đang đóng tại Hochkirch.

Trước đó vào ngày 2 tháng 9, sau khi vừa có được một ngày nghỉ hiếm hoi, tập đoàn quân của Blücher lại tiếp tục hành quân về phía Görlitz. Sáng sớm hôm đó, Blücher nhận được một công văn khẩn từ Công tước Schwarzenberg, chỉ huy Tập đoàn quân Böhmen, yêu cầu Blücher lập tức đưa 50.000 quân tới tiếp viện . Tuy nhiên, sau khi cân nhắc kỹ lưỡng, Blücher quyết định từ chối mệnh lệnh này. Ông (đúng hơn là Bộ Tổng Tham mưu Phổ) lập luận rằng, nếu quân Pháp thực sự tiến vào Böhmen, thì việc cả Tập đoàn quân Schlesien tiến đánh dọc theo sông Elbe, uy hiếp sườn trái của Napoleon, sẽ mang lại hiệu quả lớn hơn là điều một lực lượng lớn sang hỗ trợ đạo quân chủ lực. Ngược lại, nếu Napoleon quyết định quay lại đánh Tập đoàn quân Schlesien nhằm chiếm giữ các ngả đường từ Schlesien vào Böhmen, thì rõ ràng cần giữ lại một lực lượng mạnh mẽ tại Schlesien để chặn đứng kế hoạch ấy.

Mặc dù quyết định của Blücher có vẻ trái với tinh thần của Kế hoạch Trachenberg, vốn yêu cầu các lực lượng liên minh phải phối hợp chặt chẽ để buộc Napoléon phải từ bỏ đòn tiến quân của mình, nhưng xét trong bối cảnh khủng hoảng của Tập đoàn quân Böhmen lúc bấy giờ, ta có thể hiểu được lý do chính đáng của ông. Nếu Blücher chấp nhận điều quân sang Böhmen, sức chiến đấu của Tập đoàn quân Schlesien sẽ biến mất trong khối quân đông đảo của Schwarzenberg, làm mất đi tính cơ động và sức tấn công mà họ đã duy trì suốt chiến dịch.

Gần như cùng lúc đó, Blücher nhận thêm một tin tức quan trọng: Tập đoàn quân Ba Lan (quân đội Nga) của Bennigsen đã hành quân tới sông Oder gần Breslau và sẽ đóng quân tại đây, chờ lệnh hành động tiếp theo. Ngay lập tức, Blücher gửi công văn thông báo tình hình cho cả Bennigsen và Thái tử Thụy Điển, đề nghị họ cùng phối hợp mở một cuộc tấn công về phía sông Elbe, nhằm đánh bọc sườn quân Pháp.

Đến ngày 3 tháng 9, tiền quân của ba quân đoàn thuộc Tập đoàn quân Schlesien đã tiến vào Görlitz, trong khi chủ lực lần lượt tới Hochkirch, Kieslingswalde và Pfaffendorf. Cùng lúc đó thì các lực lượng của St. Priest tiến tới Radmeritz, còn Sư đoàn Bubna đã kiểm soát Zittau, đẩy quân Ba Lan của Poniatowski phải rút lui. Trước tình hình này, Blücher (Bộ Tổng Tham mưu) nhận ra rằng Napoléon đã từ bỏ ý định tiến công vào Böhmen. Nhưng điều đó cũng đồng nghĩa với việc quân Pháp có thể chuyển hướng sang Schlesien, biến Tập đoàn quân của ông thành mục tiêu tấn công trực tiếp.

Để chuẩn bị cho khả năng đó, Blücher tổ chức lại tiền quân của mình, đặt dưới quyền chỉ huy của Thượng tướng Vasilchilkov , với hy vọng tăng cường tính linh hoạt và giảm bớt sự mệt mỏi cho cánh chủ lực . Tuy nhiên, hy vọng này đã không thành hiện thực. Bởi  Vasilchilkov đã phát hiện lực lượng Pháp đang cố thủ tại Hochkirch và dự định hoãn cuộc tấn công lại đến ngày hôm sau, trong khi chủ lực của Blücher đóng tại tuyến Ebersbach-Landskrone, giữ vị trí chiến lược,đã sẵn sàng tấn công.

Điều mà Blücher không biết, đó là vào ngày 3 tháng 9, Napoléon ra lệnh cho Vệ binh Đế chế và Quân đoàn kỵ binh của Latour-Maubourg hành quân gấp từ Dresden tới Hochkirch, đồng thời chỉ thị cho quân đoàn của Marmont theo sau, chuẩn bị cho một đòn tấn công quy mô lớn nhằm vào Tập đoàn quân Schlesien.

Sáng ngày 4 tháng 8 , vào lúc 11 giờ trưa, Napoleon cưỡi ngựa đến Baußen . Ông ngay lập tức nắm bắt tình hình và ra lệnh tấn công. Murat dẫn quân đoàn Souham và kỵ binh Latour-Maubourg tiến về Görlitz, trong khi Macdonald chỉ huy các quân đoàn Lauriston, Gérard, Sebastiani và Vệ binh Đế chế tiến theo hướng Hochkirch. Poniatowski cùng quân đoàn kỵ binh Kellermann từ Zittau hành quân về Löbau để đánh vào sườn đối phương. Đến trưa, toàn bộ lực lượng đã vào vị trí xuất phát.

Sáng cùng ngày hôm đó , tiền quân của Vasilchikov cũng đã xuất phát hướng về Bautzen. St. Priest tiến về Schirgiswalde, Bubna (dưới quyền Blücher) hành quân qua Neustadt và Stolpen để đánh bọc sườn phải quân Pháp. Tuy nhiên, trước Hochkirch, tiền quân của Kazeler đã chạm trán lực lượng địch áp đảo, bị đẩy lùi qua Hochkirch và phải co cụm về Pitschenberg gần Löbau. Một trận chiến khốc liệt nổ ra, Kazeler chỉ giữ được trận địa đủ lâu để bảo vệ cuộc rút lui của toàn bộ tiêfn quân , chịu tổn thất 400 người trước khi lui về phía sau sông Löbauer vào tối cùng ngày.

Blücher, sau khi nhận được tin về sự xuất hiện của Napoléon và các lực lượng hùng hậu của ông ta, đã quyết định rút quân trong đêm về phía sau sông Neisse. Sau một cuộc hành quân kiệt sức, đến đêm 6 tháng 9, quân đội Phổ đã trở lại tuyến phòng thủ cũ giữa Hochkirch và Pfaffenberg. Cuộc rút lui này diễn ra không hề dễ dàng, với nhiều trận đánh ác liệt của quân chặn hậu tại Reichenbach và Landskrone, nơi kỵ binh liên minh đã chiến đấu xuất sắc để cản bước tiến truy kích của quân Pháp.

Quân Pháp tiến sát sông Neisse: tiền quân chiếm Görlitz, lực lượng chính ở Landskrone, Poniatowski đóng quân tại Löbau và Ebersdorf. Napoléon nghỉ ngơi trong đêm ngày 5 tại Hochkirch. Tuy nhiên vào sáng hôm sau, khi nhận thấy Blücher lại đang rút lui và không thể ép ông ta giao chiến thì Napoléon buộc phải từ bỏ hy vọng đánh tan quân Phổ. Tối đó, ông trở về Bautzen, tin rằng các biện pháp của mình sẽ giúp Tập đoàn quân sông Bober  sẽ giữ chân Blücher ở sông Spree trong một khoảng thời gian đủ lâu để thực hiện các kế hoạch ở mặt trận khác.

Tuy nhiên vào sáng ngày 6, khi quân Pháp bắt đầu hành quân về phía Hoyerswerda thì Napoléon nhận được tin báo của St. Cyr về việc Dresden lại đang bị đe dọa buộc Hoàng Đế phải thay đổi kế hoạch ngay lập tức. Ông ra lệnh cho Vệ binh Đế chế và Quân đoàn kỵ binh Latour quay lại Dresden, trong khi Marmont giữ Kamenz nhưng phải luôn sẵn sàng hành quân nhanh chóng về Dresden nếu cần.

Tối ngày 6, Napoléon đã có mặt tại Dresden, nơi ông nhận thêm các báo cáo về việc liên minh tiếp tục tiến công. Vào ngày 8 tháng 9, ông thân chinh dẫn quân đến Mügeln, nơi St. Cyr đã chiến đấu ác liệt với Tập đoàn quân Böhmen .

 


Ở phía bên kia chiến tuyến  sau chiến thắng tại Kulm vào ngày 30 tháng 8, Tập đoàn quân Böhmen  đã hồi phục lại tinh thần và tái tổ chức, để chuẩn bị cho đòn đánh tiếp theo. Lực lượng này với 192.800 quân tới đầu tháng 9, đã hoàn toàn hồi phục sức chiến đấu. Metternich, cảm nhận được cơ hội chiến thắng, từ bỏ mọi nỗ lực đàm phán hòa bình với Napoléon và chính thức củng cố liên minh giữa Áo, Nga, Phổ và Anh thông qua hiệp ước Reichenbach ngày 9 tháng 9, vạch ra kế hoạch phân chia lại Châu Âu sau chiến tranh.

Vào ngày 4 tháng 9, Tập đoàn quân Böhmen  gần Teplitz, với Tập đoàn quân Nga-Phổ dọc theo trục Nollendorf-Kulm, quân Áo trải dài từ Teplitz đến Komotau. Một hội đồng chiến tranh lớn được tổ chức tại Teplitz, nơi các tướng lĩnh quyết định tiếp tục chiến lược phòng thủ chủ động, tránh giao chiến trực diện với Napoléon mà tập trung đánh vào sườn và hậu tuyến của ông ta.

Trong các ngày 5 và 6 tháng 9, họ tiến hành các cuộc tấn công nghi binh mạnh mẽ về phía Dresden, khiến quân Pháp phải rút về Berggießhübel và Borna. Tuy nhiên, đến ngày 6, khi nhận tin chắc chắn rằng Napoléon không tiến về Berlin mà hướng về chỗ của Blücher, Schwarzenberg lập tức lệnh cho 60.000 quân Áo hành quân về Lausitz, để đe dọa sườn phải của Napoléon.

Ngày 8, trận chiến ác liệt nổ ra xung quanh Dohna và Heidenau. Quân Pháp, dù ban đầu bị đẩy lùi về phía sông Müglitz nhưng đã tổ chức kháng cự mạnh mẽ. Đến chiều thì đã rõ khi Napoléon với Vệ binh Đế chế xuất hiện trên chiến trường . Biết rằng không thể thắng nổi Hoàng Đế Pháp , Schwazenberg chậm rãi rút lui có trật tự nhằm bảo toàn lực lượng đúng như kế hoạch Trachenberg.

Sáng ngày 9, quân Pháp tiếp tục truy kích nhưng thất bại trong việc bao vây liên minh , khi lực lượng này đã khôn ngoan rút về Nollendorf, bỏ Peterswalde cho lực lượng chặn hậu.

Sáng ngày 10, khi Quân đoàn Wittgenstein và Kleist tiếp tục rút lui từ Nollendorf về Kulm, quân Pháp từ Fürstenwalde đã tiến qua Ebersdorf tới Geiersberg, sau đó truy kích theo hướng Mariaschein và Theresienfeld. Tuy nhiên, quân Nga dưới quyền của Rayevsky đã kịp thời tới nơi, đẩy lui đối phương bằng một trận chiến dữ dội với lưỡi lê, buộc quân Pháp phải rút lại vào khe núi. Gần như cùng lúc đó, Quân đoàn Wittgenstein và Kleist cũng đến nơi, triển khai vị trí giữa Rosenthal và Senseln, với lực lượng Vệ binh phía sau và chủ lực của Pahlen đóng tại Kulm và Arbesau. Chỉ có Sư đoàn Schachowskoi ở lại tại Vorder-Tellnitz, do quân địch ở hướng này không tiến quá Peterswalde.

Chiều ngày 10 tháng 8, quân Áo quay trở lại từ cuộc hành quân về Lausitz, chiếm lĩnh các cao điểm ở Striesowitz và Neudorf, tạo nên một tuyến phòng thủ vững chắc. Schwarzenberg quyết tâm chấp nhận trận chiến được dự đoán sẽ diễn ra vào ngày hôm sau, nhưng quân địch đã khiến ông thất vọng. Cả ngày 11, đối phương án binh bất động ở Geiersberg, chỉ tới chiều muộn mới tấn công vào vị trí của Schachowskoi tại Vorder-Tellnitz. Sau một cuộc giao tranh ác liệt, quân Nga đẩy lùi được cuộc tấn công, buộc đối phương phải rút về Nollendorf. Vào các ngày 12 và 13, không còn cuộc tấn công nào khác, quân đội liên minh giữ nguyên vị trí phòng ngự, trong khi quân Pháp (ngoại trừ tại Nollendorf) đã rút lui.

Napoleon, sau khi nhận được tin về thất bại của Ney tại Dennewitz vào ngày 9, đã từ bỏ ý định tiến vào Böhmen. Tin tức này, cùng với việc đường tiếp vận duy nhất vào thung lũng Teplitz là con đường lớn qua Nollendorf, khiến ông thêm thận trọng. Đêm ngày 10 tháng 8, ông ra lệnh cho St. Cyr giữ vững đỉnh núi trước mọi cuộc tấn công, trong khi Quân đoàn Victor được giao nhiệm vụ bảo vệ các tuyến đường về Freiberg và Dippoldiswalde. Vào Ngày 12 tháng 8, Napoléon trở về Dresden, điều Murat với Quân đoàn kỵ binh 1  tới Großenhain để hợp lực với Marmont, đồng thời củng cố tuyến đường hậu cần. Quân đoàn Augereau được gọi từ Würzburg tới sông Saale để bảo vệ sườn phải khỏi các cuộc tập kích của quân đồng minh.

Vào ngày 14 , Tập đoàn quân Böhmen mở cuộc tấn công mới tại Nollendorf, đẩy Sư đoàn Dumonceau của Pháp về Berggießhübel. Liên minh chia thành nhiều mũi tiến công và chỉ rút lui khi Napoléon tự mình dẫn viện binh đến vào ngày hôm sau. Tin báo về chiến thắng tại Dennewitz sau đó đã làm phấn chấn tinh thần liên minh.

Vào bgày 13, sau một cuộc họp tại Teplitz, họ quyết định tung đòn đánh chính tiến về Chemnitz, để lại việc phòng thủ vùng Böhmen cho Quân đoàn Wittgenstein và Kleist.

Tuy nhiên, Blücher (Bộ Tham mưu) lại không đồng ý với kế hoạch này. Trong thư gửi Knesebeck, ông khẳng định rằng việc đưa các đơn vị của Tập đoàn quân Schlesien vào Böhmen sẽ chỉ khiến quân đội Thụy Điển do Thái tử Bernadotte chỉ huy rơi vào thế phòng thủ thụ động. Thay vào đó, Blücher muốn vượt sông Elbe để áp sát Leipzig, buộc Napoleon phải rút khỏi Böhmen. Rühle, sĩ quan báo tin của Blücher, đã trình bày rõ ràng điều này tại đại bản doanh liên minh, khiến kế hoạch đưa các đơn vị từ Schlesien vào Böhmen đã bị hủy bỏ, thay vào đó họ giao nhiệm vụ bảo vệ vùng này cho quân của Bennigsen.

Vào ngày 15 tháng 8, khi Tập đoàn quân Böhmen đang chuẩn bị thực hiện một cuộc hành quân về phía tây thì một cuộc đột kích bất ngờ của Napoléon đã đảo lộn mọi kế hoạch. Quân Pháp đẩy lùi quân của Pahlen tại Markersbach, buộc ông phải rút về Peterswalde, nơi được quân Phổ hỗ trợ. Ngày hôm sau, bất chấp các mệnh lệnh tránh giao chiến lớn, Pahlen lại phải rút về Nollendorf, đối diện với một cuộc tấn công mạnh mẽ. Quân đoàn Kleist liền đến tiếp viện, thiết lập tuyến phòng thủ vững chắc khiến quân Pháp phải tạm ngừng tiến công.

Sáng ngày 17, trong sương mù dày đặc, quân Pháp mở cuộc tấn công vào Vorder-Tellnitz . Cuộc chiến khốc liệt nhất diễn ra trên cánh trái của liên minh, nơi lữ đoàn Zieten và sáu tiểu đoàn Nga phải chống lại các đợt tấn công dồn dập của Pháp. Đến chiều, giao tranh lan tới gần Kulm, báo hiệu một trận chiến lớn sắp nổ ra, khi cả hai bên đều dồn các đơn vị chủ lực vào chiến trường.

Khi Colloredo nhìn thấy các khối tiểu đoàn của Pháp đang di chuyển về phía cao nguyên Kulm và nhanh chóng chiếm giữ những ngôi làng phía trước vị trí của mình, ông đã phối hợp cùng Merveldt tổ chức phản công. Đòn tấn công mạnh mẽ này, bất chấp sự kháng cự kiên cường của quân Pháp, đã buộc họ phải rút lui.

Ở cánh trái, tướng Zieten gặp khó khăn lớn do quân địch liên tục tìm cách bao vây sườn trái của ông bằng các đợt vòng tránh sâu hơn. Chỉ đến khi một cuộc tấn công bằng lưỡi lê quyết liệt với bốn tiểu đoàn được tiến hành, tình hình mới được giải tỏa phần nào. Cuối cùng, quân địch, dù chiến đấu dũng cảm, đã bị đẩy lùi về Vorder-Tellnitz.

Quân đoàn St. Cyr suốt cả ngày vẫn án binh bất động trước Fürstenwalde. Mãi đến tối, mệnh lệnh tiến công về phía Geiersberg mới đến, nhưng lúc này đã quá muộn để can thiệp vào trận đánh. Kết thúc trận đánh, quân Pháp chịu tổn thất 7 khẩu pháo, 1 lá cờ đại bàng và 2.000 binh sĩ; tổn thất của liên minh thì không rõ.

Tại HQ ở Teplitz, người ta dự đoán rằng vào ngày 18, đợt tấn công của quân Pháp sẽ lặp lại, vì tất cả tù binh đều khẳng định sự hiện diện của Hoàng đế Napoléon. Do đó, Schwarzenberg điều thêm Cụm Quân đoàn Gyulai từ Dur đến Arbesau và đẩy lực lượng dự bị tới Karbiss. Nhưng cuộc tấn công được mong đợi đã không xảy ra, và cuối cùng, họ tin chắc rằng Napoléon đã bắt đầu rút lui.


Để xác minh điều này, vào khoảng 11 giờ sáng, Cụm Quân đoàn Merveldt tiến đánh làng Kniniss và chiếm được nó mà không gặp nhiều kháng cự. Tuy nhiên, ngay sau đó, họ phát hiện lực lượng địch mạnh đang dàn trận và tiến công từ phía sau làng. Để tránh một trận giao chiến nghiêm trọng, Merveldt rút lui về vị trí của mình ở Johnsdorf mà không bị truy kích nhiều.

Trong khi đó, Quân đoàn St. Cyr cũng tiến hành một cuộc đột kích vào Geiersberg và Graupen, nhưng không đạt được kết quả đáng kể nào và rút về vào buổi chiều cùng ngày. Như vậy, đợt tấn công cuối cùng của Napoléon vào Bohemia đã thất bại. Quân Pháp rút lui dưới sự yểm trợ của Quân đoàn Lobau mà không bị liên minh phát hiện. Liên minh vẫn duy trì tư thế sẵn sàng chiến đấu trong ngày hôm sau, cho đến sáng 19 tháng 9, thì họ mới biết việc rút quân của đối phương.

Napoléon dự định tiếp tục tấn công vào ngày 18, nhưng sau khi quan sát chiến trường th ông đi đến kết luận rằng việc tiến sâu vào Böhmen là không khả thi bởi từ ngã Kulm chỉ có đúng 1 con đường dẫn vào Áo . Thêm vào đó, ông không thể rời quá xa Dresden, bởi Blücher chỉ còn cách thành phố này khoảng hai ngày hành quân, trong khi Thái tử Thụy Điển gần như không bị ngăn chặn ở trước mặt. Những lo ngại này đã khiến Napoleon một lần nữa từ bỏ ý định xâm nhập Böhmen.

Do vậy, Vệ binh Đế chế và kỵ binh được lệnh rút về Pirna, còn Quân đoàn Lobau và St. Cyr quay trở lại vị trí cũ của họ. Tối cùng ngày hôm đó , Hoàng đế cũng quay về Pirna. Trong những ngày tiếp theo, thời tiết xấu khiến việc di chuyển của các đơn vị lớn trở nên bất khả thi. Từ mọi hướng, tin tức bất lợi đổ về HQ của Napoleon: Freiberg bị tấn công, Merseburg đầu hàng, Sư đoàn Pécheur thất bại tại Göhrde, và Ney báo rằng Tập đoàn quân Bắc đã vượt bắt đầu sông Elbe.

Thay vì tiếp tục áp đặt thế chủ động lên đối phương, giờ đây Napoléon lại bị phụ thuộc vào hành động của kẻ thù. Điều tồi tệ nhất là ông hoàn toàn không biết rõ ý định của đối phương. Dù vậy, Hoàng Đế vẫn không thể quyết định rời Dresden để rút lui về phía sau sông Elbe hay tiếp tục ở lại . Trong khi đó, quân của ông bắt đầu kiệt sức vì các cuộc hành quân và đóng trại liên miên.

Napoléon quyết định tung đòn tấn công thứ ba nhằm vào Tập đoàn quân Schlesien từ ngày 22 đến ngày 25 tháng 9. Macdonald đã báo cáo về việc hai quân đoàn của đối phương dường như đang hành quân sang cánh phải, làm tăng khả năng họ sẽ vượt qua sông Elbe, đặc biệt khi Ney cũng báo cáo về việc có dấu hiệu địch đang dựng một cầu tại Wartenburg. Có vẻ như Napoléon chỉ muốn xác minh xem Blücher có thực sự hành quân sang cánh phải hay không.

Vào tối ngày 21 tháng 9, Napoléon rời Pirna để trở về Dresden. Sáng hôm sau, ông lệnh cho Tập đoàn quân Bober ,  lúc này đang tập trung tại Fischbach và Stolpen, tung một đòn tấn công tổng lực . Khi Napoléon vừa đến chiến trường thì lực lượng này đã giao chiến với tiền quân của Quân đoàn Yorck.

Tập đoàn quân Schlesien  kể từ ngày 6 tháng 9, đã tiếp tục rút lui và lùi về tuyến Parik-Naumburg-Lauban, trong khi quân chặn hậu vẫn giữ vị trí tại Hochkirch và Gruna, với các tiền đồn xa nhất đặt tại Görlitz. Vào ngày hôm đó, quân Pháp chỉ vượt sông Neisse với một vài đơn vị , trong khi chủ lực vẫn đóng tại Landskrone. Bộ tư lệnh tập đoàn quân đã đúng khi xác định những hành động này chỉ là động thái nghi binh.

Khi nhận được tin Napoléon đã hành quân đến chiến trường cùng Vệ binh Đế chế thì Blücher quyết định vào ngày 8 tháng 9 sẽ chuyển sang tấn công, đánh bật quân địch về hướng Bautzen. Nếu địch cố thủ bên bờ sông Neisse thì Blücher sẽ sẵn sàng giao chiến quyết liệt.

Để che giấu ý đồ này , cuộc hành quân chỉ bắt đầu vào chiều ngày 8 tháng 9. Với các đội hình của Sacken tiến về Hochkirch, Yorck tới Kieslingswalde và Langeron tới Ostritz, trong khi St. Priest vượt sông Neisse để tiến công Bernstadt. Theo kế hoạch vào ngày 9 thì  Sacken sẽ giữ chân địch trước Görlitz còn St. Priest tiến qua Löbau để đánh bọc hậu Tập đoàn quân Bober đóng tại Görlitz, trong khi Yorck được lệnh theo sau Langeron và tấn công quân Pháp tại Landskrone.

Ý định ban đầu của Blücher đã không thành công. Một mặt, là bởi những con đường tồi tệ đã làm chậm đáng kể bước tiến của quân Nga. Mặt khác, đối phương đã kịp thời nhận ra mối nguy hiểm cho cánh phải của mình và rút lui qua Reichenbach về Baußen. Tại Löbau, St. Priest đã vấp phải sự kháng cự quyết liệt. Quân đoàn Poniatowski đã trấn giữ nơi đây để yểm trợ cho cuộc rút lui của Tập đoàn quân Bober và chỉ rời khỏi vị trí khi cho rằng nhiệm vụ đã hoàn thành.

Vào buổi tối, St. Priest và Quân đoàn bộ binh Kapzewitsch ( được phái đến từ Cụm Quân đoàn Langeron để tăng viện) đóng quân tại Löbau. Bản thân Langeron đã đến Bernstadt, Yorck tới Grunau, Sacken đóng quân gần Görlitz, còn sư đoàn Bubna thì ở Rumburg và Röhrsdorf.

Ngày 10, Tập đoàn quân sông Bober tiếp tục rút lui về hướng Bautzen. Poniatowski và Kellermann trong khi đó đã tiến quân từ Bautzen tới Pugkau. Blücher cho quân của mình nghỉ ngơi trong ngày hôm đó và chỉ cho các đội tiền quân bám theo đối phương. Ban đầu, ông dự định chỉ cho tiền quân hoạt động trong ngày 11, nhưng khi nhận được tin Napoléon đã phản công vào Tập đoàn quân Böhmen , ông đã thay đổi quyết định của mình. Mục tiêu của ông lúc này là đẩy Macdonald, người vẫn đang đóng quân tại Bautzen, khỏi Dresden. Để làm được điều này, trước tiên cần phải đánh bật Poniatowski, người đã di chuyển đến Neustadt để bảo vệ sườn phải của quân Pháp, khỏi vị trí của mình. Tuy nhiên, các mệnh lệnh liên quan đến việc này chỉ đến được các đơn vị vào buổi chiều muộn, khiến cho mục tiêu hành quân bị chậm trễ và không thể tiến hành tấn công trong ngày hôm đó. Đêm đó, quân Pháp bắt đầu rút lui về Bischofswerda và Pukkau, trong khi Poniatowski rút về Stolpen.

Ngày 12 tháng 9 , Kazeler (người được đặt dưới quyền chỉ huy của Sacken cho chiến dịch này) bám theo hậu quân của địch, vốn chỉ bắt đầu rút lui vào buổi sáng, đến Spittwiß. Tuy nhiên, Sacken không vượt quá Bautzen vì có tin đồn về một đòm tấn công mới của Napoléon. St. Priest vào lúc này đã đến Neukirch và đối mặt với đối phương tại Pußkau. Kapzewitsch vẫn ở Ringenhain, Langeron đến Neusalz, còn Yorcl sau một cuộc hành quân vất vả đã tới Rumburg. Bubna cũng nhận được tin Napoleon đã vượt qua sông Elbe với các đội hình mạnh, do đó chỉ tiến đến Schluckenau.

Sáng sớm ngày 13, quân Pháp bắt đầu mở cuộc tấn công. Một trận giao tranh ác liệt nổ ra tại Puzkau, nhưng St. Priest không thể đánh bật được đối phương. Yorck cũng đã tiến đến Schluckenau sau khi nghe thấy tiếng pháo. Ngược lại, Sacken và Langeron vẫn ở Bautzen và Neusalz, có vẻ như Blücher đã lệnh cho phần lớn tập đoàn quân không được di chuyển do những tin đồn ngày hôm trước về một cuộc phản công mới của Napoléon.

Những thông tin trái chiều nhận được trong ngày 13 và 14 khiến cho việc xác định rõ ý định của đối phương trở nên khó khăn. Do đó, Blücher vẫn giữ các quân đoàn ở vị trí hiện tại trong ngày 14. Mãi đến sáng sớm ngày 15, khi có tin báo từ Teplitz rằng các đội hình mạnh của Pháp, vốn trước đó đóng quân trên sườn núi Böhmen, đã vội vã rút về Dresden (có lẽ để đối phó với Tập đoàn quân Schlesien), và khi tin tức về việc quân Pháp đang tập trung  gần Großenhain được xác nhận thì Blücher mới quyết định cho tập đoàn quân tập trung sang cánh phải .

Thực hiện mệnh lệnh này, Sacken rút quân về Marialstern, Langeron và Yorck hành quân về Bautzen, nơi họ đóng quân cạnh nhau ở hai bên con đường dẫn đến Görlitz. Tiền quân vẫn bám sát đối phương và đã tham gia vào một số cuộc giao tranh khá nghiêm trọng, vì Macdonald đã phát động một cuộc tấn công trên toàn chiến tuyến theo lệnh của Napoléon trong ngày hôm đó.

Vào ngày 15 tháng 9 , các tin tức quan trọng đã được gửi đến: việc tập trung một lực lượng lớn dưới quyền chỉ huy của Thái tử Napoli gần Großenhain đã được xác nhận thêm một lần nữa. Tauentzien thông báo vị trí quân đoàn của mình và yêu cầu Blücher thiết lập liên lạc với Tập đoàn quân Bắc bằng một đòn tấn công qua Kamenz nhằm vào Großenhain. Từ Bennigsen có tin báo rằng tiền quân của Tập đoàn quân Ba Lan sẽ đến Görlitz vào ngày 16.

Trong ngày 16, tiền quân tiếp tục có những cuộc chạm trán nhỏ lẻ trong cả ngày, nhưng phần lớn lực lượng của cả hai bên vẫn giữ nguyên vị trí. Tình hình vẫn không thay đổi trong những ngày tiếp theo. Blücher cho rằng một cuộc tấn công vào vị trí phòng thủ vững chắc của Tập đoàn quân sông Bober sẽ ít có khả năng thành công. Việc vượt sông Elbe ở hạ lưu Dresden cũng bị loại trừ, khi mà lực lượng Pháp đáng kể đang đóng quân gần Großenhain và lực lượng dự bị của Napoléon ở ngay gần đó. Do đó, việc cần làm lúc này là chờ Bennigsen ập đến chiến trường . Sau đó, Tập đoàn quân Schlesien có thể hành quân tốc lực dọc theo sông Elbe và cố gắng vượt sông ở đoạn giữa Torgau và Wittenberg.

Khoảng thời gian nghỉ này là rất cần thiết để tái lập kỷ luật trong hàng ngũ. Việc cung cấp lương thực thực phẩm không hiệu quả và vô tổ chức đã tác động tiêu cực đến tinh thần và kỷ luật của quân đội, bất chấp các hình phạt nghiêm khắc. Do thiếu giày dép, một số lượng lớn binh  bị bệnh chân đã bị bỏ lại trên đường hành quân, và bất chấp mọi nỗ lực duy trì trật tự, tình hình chỉ được cải thiện chút ít. Lính Cossack cướp bóc và tàn phá ở hậu phương đã trở thành một tai họa không thể nào chấp nhận được . Phần lớn các binh sĩ Landwehr bỏ lại phía sau cũng tham gia vào các hành động cướp phá này, và ngay cả một số trung đoàn kỵ binh tốt nhất cũng lòi ra những kẻ cướp bóc, ăn trộm .

Các tin tức nhận được trong những ngày tiếp theo và một cuộc trinh sát do Sacken thực hiện theo lệnh của Blücher chủ yếu cung cấp thông tin chi tiết hơn về đối phương gần Großenhain, với quy mô khoảng 40.000 bộ binh với kỵ binh đông đảo và 32 khẩu pháo. Sau khi thiết lập liên lạc với Quân đoàn Tauentzien qua Ortrand và đảm bảo sự phối hợp của quân đoàn này trong một cuộc tấn công vào Großenhain, Blücher đã quyết định vào ngày 22 sẽ giao cho Cụm quân đoàn Langeron và Yorck thu hút sự chú ý của Tập đoàn quân sông Bober (vốn đã rút về tuyến Groß-Hartha-Schmiedefeld-Arnsdorf-Fischbach), trong khi quân đoàn Sacken và Tauentzien sẽ tấn công đối phương gần Großenhain. Tuy nhiên, trước khi mệnh lệnh này được gửi đi, Sacken đã báo cáo vào buổi sáng ngày 22 rằng đối phương đang rút lui từ Großenhain về Meißen. Do đó, Sacken được chỉ thị, hoặc một mình hoặc cùng với Tauentzien, tấn công cánh trái của đối phương gần Radeberg trong ngày hôm đó. Nhưng trước khi Tập đoàn quân Schlesien có thể thực hiện ý định của mình, các tiền đồn của Yorck đã bất ngờ bị đẩy lùi về Goldbach bởi lực lượng mạnh của đối phương tấn công từ Hartha vào khoảng 2 giờ chiều. Đòn tấn công mạnh mẽ này được thực hiện với một lực lượng ước tính khoảng 30.000 quân, cùng với dấu hiệu từ sự hiện diện của Napoléon.  Hoàng Đế đã đến chiến trường  lệnh cho toàn quân lập tức tiến công về Bischofswerda và Neustadt.

Blücher ngay lập tức quyết định rút lui; ông dự định sẽ kháng cự chỉ khi đã rút về sau Bischofswerda. Mặc dù đối phương truy kích dữ dội, nhưng liên quân vẫn rút lui thành công về Roth-Nauslitz và Drebnitz mà không chịu tổn thất đáng kể. Napoléon quay trở lại Groß-Harthau vào buổi tối hôm đó. Tập đoàn quân sông Bober đóng quân qua đêm tại Bischofswerda, Lauterbach và Schmiedefeld.

Blücher, dự đoán một đòn tấn công nghiêm trọng vào ngày hôm sau , đã ra lệnh tiếp tục rút lui . Bautzen sẽ là địa điểm tập trung tiếp theo .Tập đoàn quân sông Bober lại tiến hành tấn công vào buổi sáng ngày 23.  Đại tá Kazeler, bị đối phương truy kích dữ dội, tiếp tục rút lui qua Roth-Nausliß về Klein-Praga, nơi tiền quân của Langeron đã kịp thời thiết lập vị trí phòng ngự . Tiền quân của Pháp bám  sát theo sau với các đơn vị khinh binh dẫn đầu , nhưng quân chủ lực của họ dường như vẫn còn ở phía sau. Kazeler đã khéo léo tận dụng cơ hội này để thực hiện một đợt tấn công kỵ binh, đánh tan hoàn toàn đội hình khinh binh của địch và các đơn vị hỗ trợ theo sau, đồng thời buộc một số trung đoàn kỵ binh vội vã đến ứng cứu phải thoái lui. Chỉ đến khi bộ binh đối phương tiến đến, kỵ binh liên minh mới buộc phải rút lui. Sau đó thì quân Pháp chỉ bám theo một cách chậm rãi; khi đến Gödau thì mới có một trận giao tranh ác liệt khác. Màn đêm ập xuống khiến cho việc phân biệt địch -ta trở nên khó khăn, buộc Kazeler phải rút lui xa hơn và bỏ lại Gödau và Bürkau cho quân Pháp.

Quân đoàn Yorck và Langeron tiến hành đóng quân tại Bautzen. Còn St. Priest  rút về Wilthau,  Bubna và Kapzewitsch, sau khi đẩy lùi thành công một cuộc tấn công của Lauriston, đã rút về Hainspach.

Từ hành động thiếu quyết đoán của quân Pháp trong ngày hôm nay, Blücher suy đoán rằng Napoléon không còn hiện diện. Nếu đến trưa ngày hôm sau mà vẫn không có cuộc tấn công nào nữa thì ông quyết định chuyển sang phản công. Tuy nhiên, một số sự cố đã khiến mệnh lệnh không thể gửi tới cho Sacken và trong đêm đó thì quân Pháp đã quay đầu rút lui.

Tiền quân của Kazeler đã kịp thời phát hiện ra cuộc rút lui của địch nên lập tức bám theo và duy trì quan sát đường đi nước bước với đối phương trong cả ngày hôm đó , cho đến khi vào buổi tối cả hai bên chiếm lại các vị trí cũ gần Harthau và Bischofswerda. St. Priest cũng đã tiến quân trở lại Pußkau, còn Bubna và Kapzewitsch đã chiếm đóng Lang-Burkersdorf và Neustadt.

Vào cuối buổi chiều ngày 22 tháng 9 , Napoléon quan sát từ trên đồi Kapellenberg, rồi tối đó về lại Groß-Harthau. Ông chờ đợi diễn biến ngày 24 và nhận thấy Tập đoàn quân Schlesien đã phòng thủ vững chắc sau sông Spree, gần Bautzen và đã sẵn sàng nghênh chiến.  Hoàng đế cho rằng với lực lượng hiện có việc tấn công trực diện là vô vọng. Thêm vào đó, Ney báo tin Tập đoàn quân Bắc đã bắc cầu tại Wartenburg, đe dọa cắt đứt liên lạc giữa Torgau và Dresden.

Trước tình hình đó, ngày 24, Napoléon quyết định rút toàn bộ Tập đoàn quân sông Bober về Fischbach, rồi tính đến việc bỏ toàn bộ hữu ngạn sông Elbe. Trong những ngày tiếp theo, quân Pháp bắt đầu triệt thoái theo kế hoạch. Hoàng đế về lại Dresden, để ra sức đối phó với các toán quân du kích của đối phương đang quấy nhiễu , lúc này đã lan đến sông Saale, thậm chí sông Rhein ở tận biên giới Pháp .

Dù vậy, Napoléon vẫn chưa muốn từ bỏ vị trí dọc sông Elbe. Ông nuôi hy vọng sẽ đánh bại một trong hai đạo quân chính của liên minh để tập trung lực lượng đối phó với bên còn lại. Nhưng mọi tin tức về đối phương đều cho thấy họ án binh bất động. Mãi đến ngày 1 tháng 10, ông mới biết Tập đoàn quân Böhmen đã chuyển hướng sang trái. Các quân đoàn Victor, Lauriston, Poniatowski, cùng với Sư đoàn Berkheim (thuộc Quân đoàn kỵ binh 1) được đặt dưới quyền chỉ huy thống nhất của Thái tử Napoli vào ngày 2 tháng 10, để đề phòng hướng Böhmen .

Về hướng ngược lại thì Napoléon vẫn mù mờ về hành động của Blücher. Phải đến đêm ngày 4 tháng 10, ông mới nhận được tin báo rằng đối phương có vẻ đang chuẩn bị vượt sông Elbe tại Mühlberg. Ngay lập tức, tướng Lebrun được phái đến Strehla để cùng với quân đồn trú tại đó cùng Riesa để ngăn chặn cuộc vượt sông. Macdonald được lệnh điều trinh sát mạnh mẽ về hướng Großenhain để xác định vị trí của Tập đoàn quân Schlesien.

Nhưng mọi chuyện đã quá muộn. Phần lớn quân của Blücher đã vượt sang tả ngạn sông Elbe. Blücher đã đánh lừa được Napoléon về vị trí vượt sông thực sự . Cuộc vượt sông tại Wartenburg đã diễn ra thành công mỹ mãn, và cục diện của toàn bộ chiến dịch sắp sửa được quyết định.

 


Ở phía bên kia chiến tuyến, tại HQ của Blücher vào ngày 24 tháng 9, tin tức tình báo khẳng định Napoléon đã từ bỏ ý định tấn công Tập đoàn quân Schlesien  và có lẽ ông ta còn tính đến việc rút hoàn toàn khỏi hữu ngạn sông Elbe. Thêm vào đó, những đơn vị cuối cùng của Tập đoàn quân Bennigsen đã qua Zittau và tiến vào Bohemia. Blücher nhận thấy thời cơ vượt sông Elbe đã đến. Nhiệm vụ phòng thủ Silesia được giao cho tướng Schtscherbatow (với quân đoàn bộ binh được tăng cường kỵ binh lên 9500 người) và sư đoàn Bubna.

Kế hoạch vượt sông Elbe được giữ bí mật tuyệt đối, đến nỗi khi bắt đầu thực hiện, thì nhiều đơn vị còn ngạc nhiên và lo ngại . Nhiều người bất đầu lo lắng cho số phận của tỉnh Schlesien và các pháo đài tại đây. Tướng Rauch, người đặc trách việc bảo vệ các pháo đài, đã trình lên một bản báo cáo, mô tả tình trạng tồi tệ của chúng và liệt kê mọi nguy cơ từ việc chuyển quân sang cánh phải . Ủy viên chiến tranh người Nga, Bá tước Thuyl, kiên quyết phản đối kế hoạch này và đòi hỏi phải trình bày kế hoạch trước hội đồng tướng lĩnh để xem xét. Blücher đã bác bỏ cả hai một cách dứt khoát, tuyên bố:

"Tôi không cần hội đồng chiến tranh!"

Trong thời khắc này, bản lĩnh kiệt xuất của Blücher đã được thể hiện trọn vẹn. Ông hoàn toàn tin tưởng vào Bộ Tổng Tham mưu và nhận ra rằng cần phải chấm dứt đường lối tiến hành chiến tranh chậm chạp, và cách tốt nhất là chuyển chiến trường sang tả ngạn sông Elbe, dùng lực lượng mạnh mẽ tấn công sườn và lưng của địch, không chỉ đe dọa suông mà phải đánh thực tế. Ông cảm thấy đã đến lúc phải tập hợp sức mạnh vượt trội mà họ đã có được trong tháng trước để giáng đòn quyết định vào Napoléon. Với sự do dự của Schwarzenberg, thì khó có thể trông đợi một cuộc tấn công mạnh mẽ từ tập đoàn quân chủ lực của liên minh . Tương tự như vậy thì Thái tử Thụy Điển cũng chỉ chịu tiến lên khi ông chắc chắn là sẽ thắng. Blücher nhận thấy mình cần phải liều lĩnh . Ý tưởng vượt sông Elbe, ngay cả khi Tập đoàn quân Bắc không theo kịp, đã thôi thúc ông. Những nguy cơ và khó khăn khi cắt đứt mọi đường liên lạc đều hiển hiện, nhưng chúng không đủ lớn để ngăn cản ông thực hiện điều mà ông tin là đúng đắn. Bernhardi đã nhận xét rất chính xác về vị tướng già :

"Blücher đã thể hiện những tố chất lãnh đạo vĩ đại, nhãn quan đúng đắn về tình hình chung, bản lĩnh kiên định, và sự ung dung tuyệt vời trước mọi trách nhiệm cá nhân và những vấn đề riêng của mình."

Vào ngày 26 tháng 9, cuộc hành quân bắt đầu. Ngày 27, Sacken đến Großenhain sau khi đánh đuổi lực lượng yếu ớt còn lại của đối phương tại đây. Yorck đến Krakau, Langeron đến Königsbrück và St. Priest đến Schwosdorf. Điểm vượt sông thích hợp nhất có vẻ là Mühlberg, nhưng chỉ khi cây cầu tại Meißen (vẫn còn trong tay quân Pháp) chưa bị phá hủy. Sacken đã thành công trong việc đẩy lùi đối phương đến tận bờ sông Elbe vào ngày 28 . Các quân đoàn còn lại, đến Elsterwerda và Gröben vào ngày 29. Vào ngày 30 tháng 9, tập đoàn quân nghỉ ngơi để chuẩn bị cho cuộc vượt sông dự kiến tại Mühlberg. Trong ngày hôm đó chỉ có Sacken giao chiến ác liệt với một phần quân đoàn Souham (vừa thay thế Marmont tại Meißen).

Thiếu tá Rühle trở về và báo cáo rằng theo đề xuất của ông, việc sửa chữa cây cầu tại Elster đã được tiến hành, vì điểm này có vẻ thích hợp hơn cho việc vượt sông. Ông cũng mang đến tin vui bất ngờ: Thái tử Thụy Điển đã đồng ý không chỉ yểm trợ cuộc vượt sông của Tập đoàn quân Schlesien bằng các đòn nghi binh tại Roslau và Aken, mà còn hứa sẽ theo sau Tập đoàn quân Schlesien tiếng sang tả ngạn sông Elbe trong vòng 3-4 ngày tới.

Tin tức tốt lành này khiến Blücher từ bỏ ý định vượt sông tại Mühlberg và ra lệnh hành quân hết tốc lực đến Elster để vượt sông ngay lập tức. Vào ngày 1 tháng 10, họ bắt đầu hành quân và đến tối ngày 2, cả Langeron và Yorck đều đã đến khu vực Jessen, còn Sacken đến Herzberg. Để bảo vệ việc xây cầu đang được tiến hành khẩn trương, ba tiểu đoàn và một khẩu đội pháo từ quân đoàn Yorck đã được phái đến Elster ngay trong đêm. Đáng ngạc nhiên là đối phương hầu như không can thiệp vào việc xây cầu. Các mảnh cầu phao của Nga khi vừa đến vào buổi tối cũng được lắp đặt ngay lập tức, như vậy đến sáng sớm ngày 3 tháng 10 thì họ đã có hai cây cầu.


Ảnh : Ngôi nhà này là nơi đặt sở chỉ huy của tướng Yorck bên bờ sông tại Elster



Tại HQ của Blücher, thông tin về quân Pháp bên kia sông Elbe rất hạn chế. Họ cũng không biết rằng địa hình ở tả ngạn sông Elbe có nhiều chướng ngại vật gần như không thể vượt qua, và ngôi làng Wartenburg đối diện với điểm vượt sông, cùng với con đê trước mặt, khống chế tiền duyên như một pháo đài.

Tại Wartenburg, sư đoàn Franquemont đã đến vào ngày 1 tháng 10, và các sư đoàn Morand và Fontanelli vào ngày 2. Tổng cộng tướng Bertrand có trong tay khoảng 13.000 đến 14.000 quân. Bertrand không hề hay biết về sự hiện diện của toàn bộ Tập đoàn quân Schlesien , mà chỉ cho rằng trước mặt mình là một đơn vị  nhỏ của Tập đoàn quân Bắc, cố gắng vượt sông để che mắt cho một cuộc tấn công tại Roslau. Do đó, ông không thấy cần thiết phải gia cố vị trí phòng ngự mà chỉ cho dựng chướng ngại vật chặn con đường đất từ Wartenburg đến Elster, đào một công sự pháo binh sau con đê, và phát quang một số khu rừng để tạo tầm bắn cho pháo binh. Sư đoàn Morand được bố trí trấn giữ đê sông Elbe phía đông Wartenburg và trong chính ngôi làng, sư đoàn Württemberg Franquemont đóng giữ đồi Schuberg gần Bleddin và Bleddin. Sư đoàn Fontanelli làm lực lượng dự bị giữa Globerg và Wartenburg, còn lữ đoàn kỵ binh Beaumont đóng quân gần Globig để liên lạc giữa các sư đoàn Morand và Franquemont.


Chủ Nhật , ngày 3 tháng 10 năm 1813 , trận chiến bắt đầu trong thời tiết sương mù và ẩm ướt. Lúc 5 giờ sáng, quân của Yorck bắt đầu hành quân từ Jeffen theo hai hướng và đến Elster vào lúc bình minh. Thái tử Karl von Mecklenburg, chỉ huy tiền quân, đã đi trước và gặp Gneisenau tại vị trí cây cầu. Tại đó, ông nhận được lệnh từ Gneisenau là phải nhanh chóng vượt cầu với lực lượng gồm 3 tiểu đoàn và 6 khẩu pháo mà Đại tá Sjöholm đã chuẩn bị sẵn từ ngày hôm trước để bảo vệ cầu. Nhiệm vụ của họ là chiếm lấy làng Wartenburg, nơi mà quân họ cho rằng chỉ có lực lượng yếu của Pháp bảo vệ.

Khoảng 7 giờ sáng,  Karl bắt đầu vượt qua sông Elbe và tiến về Wartenburg, đẩy lùi tiền quân của đối phương về rừng Hohe Holz. Tuy nhiên, ông sớm nhận ra rằng đối diện với mình là một lực lượng mạnh hơn nhiều so với dự đoán. Địa hình đầm lầy, với nhiều vũng nước và bụi rậm dày đặc, khiến cho quân lính phải vất vả di chuyển thành từng nhóm nhỏ . Karl ngay lập tức cầu cứu Yorck , vừa lúc ấy đã hành quân tới cầu .




Không lâu sau, thêm ba tiểu đoàn nữa đến tăng cường. Quân Phổ tiếp tục tiến về Wartenburg và đẩy lùi khinh binh của đối phương ra khỏi rừng Hohe Holz. Tuy nhiên, việc tiến ra khỏi rừng trở nên bất khả thi do hỏa lực pháo binh dữ dội của đối phương. Thời tiết dần quang đãng, cho phép quan sát địa hình rõ hơn. Dựa vào lời chỉ dẫn của cư dân từ Elster, Karl nhận thấy không thể chiếm Wartenburg bằng một đòn tấn công trực diện. Do đó, ông quyết định thay đổi chiến thuật: trong khi Đại tá Sjöholm với bốn tiểu đoàn tiếp tục giữ chân đối phương ở hướng chính diện thì phần còn lại của tiền quân sẽ cố gắng vòng qua sườn phải làng để tấn công. Nhưng một lần nữa, con lạch lầy lội Moyenhainichtgraben lại cản trở bước tiến của họ. Những cư dân từ Elster khẳng định rằng cách duy nhất để đến Wartenburg là phải đi qua Bleddin. Vì vậy,  Karl cùng bốn tiểu đoàn vẫn men theo lạch Moyenhainichtgraben đến bờ đê sông Elbe, nơi cuối cùng họ cũng tìm thấy một lối đi hẹp ở Eichwalde. Jäger Württemberg đóng ở đây nhanh chóng bị đánh bật. Trước mặt họ hiện ra một vùng đất trống trải, Schuberg, nơi dường như địch đang bố trí lực lượng mạnh. Không có kỵ binh và pháo binh yểm trợ, Karl cho rằng không thể vượt qua khu vực này. Ông quyết định quay trở lại hướng Wartenburg với hai tiểu đoàn và để lại hai tiểu đoàn khác để bảo vệ con đường quan trọng dẫn đến Bleddin. Tuy nhiên, việc không thể xuyên qua các hàng cây dày đặc và sự xuất hiện của địch từ hướng Bleddin khiến Karl sớm phải quay lại bờ đê sông Elbe.


Trong khi đó, lực luộng của Đại tá Sjöholm vẫn dần tiến gần Wartenburg hơn, nhưng thương vong của họ ngày càng tăng. Yorck , khi biết được tình hình này, đã phái Lữ đoàn Steinmetz, một đơn vị vừa mới vượt sông, đến hỗ trợ Sjöholm. Tuy nhiên, lữ đoàn này cũng không thể làm được gì nhiều trước đối phương được bố trí phòng thủ kiên cố sau con đê cao. Yorck , sau khi trực tiếp đến tiền tuyến quan sát, nhận ra rằng chỉ có cách vòng qua Wartenburg qua ngả Bleddin mới có thể đẩy lùi được địch . Khoảng 9 giờ sáng, ông ra lệnh cho các đơn vị còn lại của quân đoàn, lúc này đang hành quân qua cầu với tinh thần phấn chấn trước mặt Blüche và, tiến về Bleddin. Các đơn vị thuộc Lữ đoàn Mecklenburg, vốn chưa tham chiến, hội quân với Karl. Lữ đoàn Horn đóng quân phía sau lạch Moyenhainichtgraben, còn Lữ đoàn Hünerbein được giữ lại làm lực lượng dự bị gần cầu.

Ảnh : Yorck tại Wartenburg

Đến khoảng 1 giờ chiều, sau khi vượt qua lạch Moyenhainichtgraben ở một số vị trí, Thái tử Karl von Mecklenburg đã sẵn sàng tấn công Bleddin. Mặc dù quân Württemberg chống trả quyết liệt, nhưng họ vẫn phải rút lui. Tướng Franquemont nhanh chóng nhận ra mối nguy hiểm từ hướng này, nhưng yêu cầu hỗ trợ của ông đã không được Bertrand đáp ứng. Do đó, ông không còn lựa chọn nào khác ngoài việc rút về Bleddin. Đến 2 giờ chiều, sau một thời gian kháng cự dũng cảm, Bleddin cũng bị quân Phổ chiếm giữ. Nỗ lực của quân Württemberg nhằm rút lui về vị trí của Sư đoàn Morand qua Globig đã bị kỵ binh liên minh (gồm 3 kỵ đội của Phổ và 4 của Mecklenburg) ngăn chặn. Kỵ binh liên minh không chỉ đánh tan Lữ đoàn kỵ binh Beaumont mà còn bắt giữ cả tiểu đoàn pháo binh Württemberg và đánh qua cả tiểu đoàn dẫn đầu của đối phương đang rút lui. Franquemont buộc phải từ bỏ ý định hội quân với Sư đoàn Morand. Các nỗ lực sau đó để liên lạc với các sư đoàn khác cũng bị kỵ binh liên minh cản trở, khiến ông phải ra lệnh rút quân về Düben, vượt sông Mulde vào buổi tối. Quân số của sư đoàn Württemberg sau ngày giao tranh ở Wartenburg giảm xuống còn 900 bộ binh , 200 kỵ binh và pháo binh gần như bị tiêu diệt hoàn toàn .

Trong khi Lữ đoàn Mecklenburg giao chiến ác liệt với Sư đoàn Franquemont, hai tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn Horn, được triển khai để tấn công vào con đê trước Sauanger, đã bị các đơn vị thuộc Sư đoàn Fontanelli tấn công dữ dội và phải nhanh chóng yêu cầu tăng viện. Khi Quân đoàn Langeron đến cánh quân Anken, toàn bộ Lữ đoàn Horn được huy động cho cuộc tấn công. Horn ngay lập tức tiến lên hỗ trợ các tiểu đoàn của mình theo hướng Sauanger.

Tình hình chung lúc này đòi hỏi một quyết định mang tính bước ngoặt. Ở trước làng Wartenburg, tình hình của Lữ đoàn Steinmetz ngày càng trở nên khó khăn. Thương vong tăng lên từng phút, gần như sau mỗi gốc cây đều có người bị thương hoặc tử vong. Tiến hay lùi đều không thể. Ngay cả ở Bleddin, cuộc tấn công cũng diễn ra rất chậm chạp. Blücher tiến lên vùng thảo nguyên Schuberg và lệnh cho Cụm quân đoàn Langeron tiến lên đồng thời lệnh cho Karl , "phải chiếm được Wartenburg bằng mọi giá từ phía sau, vì mọi đòn đánh trực diện đều vô ích". Thời điểm đó cũng gần với lúc cuộc tấn công nhằm vào kỵ binh Beaumont diễn ra.  Karl lúc này chỉ còn khoảng hai tiểu đoàn (600-700 người) và 2 khẩu pháo; tuy vậy, ông vẫn lập tức ra lệnh chuyển hướng sang phải và bắt đầu hành quân về Wartenburg; ông cũng ra lệnh cho kỵ binh đi theo mình. Tuy nhiên, kỵ binh lúc này đang bận truy đuổi đối phương rút lui và vận chuyển tù binh, pháo bị bắt giữ, nên tình hình trở nên rối loạn và khó có thể trông chờ vào họ trong thời gian ngắn.

Trong khi đó, Lữ đoàn Horn đã tiến qua khu vườn cây ăn trái về phía Sauanger. Sauanger được bao bọc bởi các con đê ở cả hai bên; quân phòng thủ đứng như sau chiến lũy của một pháo đài, trong khi quân tấn công phải hứng chịu hỏa lực dữ dội từ   đạn chùm từ pháo binh. Họ còn phải vượt qua một con hào lầy lội nối liền hai nhánh sông Elbe . Yorck, người đi theo Lữ đoàn Horn và nhận thấy sự khó khăn của cuộc tấn công, đã ra lệnh cho Lữ đoàn Hünerbein đến hỗ trợ Horn. Khi Lữ đoàn Hünerbein đến, hai tiểu đoàn cánh của Horn nhận lệnh tấn công Wartenburg, phần còn lại của lữ đoàn tấn công con đê. Các tiểu đoàn theo đó xông lên, nhưng bị hỏa lực súng điểu thương và đạn chùm dày đặc chặn đứng cuộc tấn công. Horn nhận ra rằng chỉ có tinh thần quả cảm mới có thể thay đổi tình hình nên chính ông đã dẫn đầu Tiểu đoàn II thuộc Trung đoàn Bộ binh Vệ sĩ, ban đầu cưỡi ngựa, sau đó, khi con ngựa của ông bị bắn chết thì xuống đi bộ, cấm các binh sĩ không được phép dừng lại bắn trả mà cứ thế tiến lên bằng lưỡi lê để giữ Élan , lội qua con hào lầy lội và đẩy lùi Sư đoàn Fontanelli.






Tiểu đoàn Landwehr Reichenbach và Tiểu đoàn I cũng xông lên theo .Họ vượt qua cả hai con đê, đẩy lùi khinh binh địch và năm khối tiểu đoàn của đối phương. Hai tiểu đoàn cánh phải cũng đã lội qua hào và leo lên đê; một trong số đó ngay lập tức xông vào Wartenburg, nhưng bị các đơn vị thuộc Sư đoàn Morand đẩy lùi trở lại. Tuy nhiên, việc mất con đê, nơi nhanh chóng được bố trí một khẩu pháo, khiến cho việc giữ làng trở nên bất khả thi đối với quân Pháp, mặc dù Sư đoàn Morand đã nhiều lần phản công, thể hiện lòng dũng cảm mà họ đã thể hiện như ở Dennewitz. Khoảng 3:30 chiều, quân Phổ đã thành công tiến vào làng và đánh bật Sư đoàn Morand .



Trong khi đó, Thái tử Karl von Mecklenburg tiếp tục cuộc hành quân về Wartenburg và đã đến gần những cối xay gió cách Wartenburg khoảng 800 bước về phía tây, thì bất ngờ nhìn thấy các tiểu đoàn thuộc Sư đoàn Fontanelli đang tháo chạy. Pháo binh của Karl ngay lập tức nã đạn chùm vào họ, buộc họ phải quay trở lại làng. Nếu lúc ấy Karl có một vài kỵ đội trong tay, thì phần lớn Sư đoàn Fontanelli có thể đã bị bắt làm tù binh, nhưng lữ đoàn kỵ binh vẫn chưa đến nơi và kỵ binh dự bị thì vào thời điểm đó mới bắt đầu vượt sông Elbe.

Chỉ đến lúc này, Bertrand dường như mới nắm bắt được đầy đủ tình hình diễn ra ở cánh phải của mình; ông ra lệnh ngừng giao tranh và bắt đầu rút khỏi làng.Đại tá von Steinmetz, người đã chiến đấu liên tục ở mặt trận trong gần tám tiếng đồng hồ, không thể không nhận ra sự thay đổi của trận chiến. Khi nghe thấy tiếng súng nổ ở Wartenburg và nhận thấy đối phương đang kéo pháo rút lui, ông ra lệnh cho tiểu đoàn đi đầu của mình tiến lên. Tuy nhiên, địa hình quá khó khăn khiến cho lữ đoàn chỉ có thể đến được làng khi quân địch đã rút lui. Lữ đoàn đi vòng qua bên phải làng và truy đuổi đối phương cho đến khi kiệt sức.

Sauanger đã thất thủ và Horn đã tập hợp lại các tiểu đoàn của mình, sau đó tiến về vùng cao của Wartenburg. Tại đây, Bertrand, dưới sự yểm trợ của pháo binh, đã tập hợp lại Sư đoàn Morand và tiếp nhận Sư đoàn Fontanelli. Khi pháo binh Phổ bắt đầu khai hỏa vào vị trí của quân Pháp, Bertrand ra lệnh rút lui theo hai hướng: Sư đoàn Morand dọc theo sông Elbe và Sư đoàn Fontanelli dọc theo kênh Schleusengraben.Sư đoàn Morand cũng chịu một số thiệt hại trong quá trình rút lui, khi bị pháo binh Phổ từ bờ sông Elbe bên phải bắn phá khốc liệt . Cuộc truy đuổi chỉ kết thúc trước Pratau. Bertrand tiếp tục rút lui về Klitschchena và Göhra trong buổi tối. Quân đoàn Yorck đóng quân qua đêm ở phía nam Wartenburg, với Quân đoàn Langeron ở bên trái. Quân đoàn Sacken, đơn vị chỉ đến Elster vào nửa đêm, vẫn ở lại bờ sông Elbe bên phải.

Quân đoàn Yorck, với 12.000 quân tham chiến, chịu tổn thất 67 sĩ quan và 1.548 binh sĩ. Tổn thất của đối phương thấp hơn đáng kể, nhưng họ mất khoảng 1.000 tù binh, 11 khẩu pháo, 70 xe chở đạn dược và các loại xe khác. Như vậy, cuộc hành quân rút lui bên sườn phải của Tập đoàn quân Schlesien và việc vượt sông Elbe, nước đi quan trọng và quyết định nhất của toàn bộ chiến dịch đã diễn ra thành công . Không phải nhờ vào ưu thế về quân số, mà chính lòng gan dạ của quân Phổ cùng với sự bình tĩnh lạnh lùng của các chỉ huy đã mang lại thành công lớn trong ngày hôm đó.  Đối với lực lượng Landwehr Schlesien thì họ không hề thua kém quân chính quy trong màn trình diễn tại Wartenburg . Những cuộc hành quân mệt mỏi, bệnh tật và đào ngũ đã dần loại bỏ tất cả những thành phần phản quốc , tất cả những người không đủ khả năng về thể chất và tinh thần ra khỏi hàng ngũ của họ; những người còn sót lại đã bắt đầu ganh đua với các đơn vị  kỳ cựu của Quân đoàn Yorck. Yorck, người vốn rất kiệm lời khen ngợi, đã nói một cách chính xác vào buổi tối sau trận đánh :

"Giờ thì Landwehr Schlesien đã xuất sắc vượt qua một bài kiểm tra lớn với tất cả vinh dự".

Khi Tiểu đoàn II./Trung đoàn Bộ binh Vệ sĩ , đơn vị mà Tướng von Horn đã trực tiếp chỉ huy tấn công và chiếm được con đê Wartenburg duyệt binh qua trước mặt Yorck thì ông đã bỏ mũ để chào họ dưới cơn mưa tầm tã cho đến khi người lính cuối cùng đi qua.


Lá quân kỳ của Tiểu đoàn II./Leib-GR Nr.8

Nếu nói về công lao của Yorck trong chiến tranh giải phóng thì ông có nhiều vô kể , đầu tiên chính Yorck là người đã khởi đầu phong trào chiến tranh giải phóng sau khi kí hòa ước Tauroggen với Nga và quan trọng nhất là trận chiến tại đầu cầu Wartenburg là một trận đánh mang tính quyết định trong chiến dịch , như sẽ thấy ở phần sau . Như thế cũng đủ hiểu vì sao Yorck lại là nhân vật biểu tượng của chiến tranh giải phóng . Để ghi nhận công lao của Yorck thì vào tháng 3 năm 1814 , Quốc vương Friedrich Wilhelm III đã nâng Yorck lên hàng Bá tước và trao tước hiệu ''từ trận Wartenburg'' . Chính vì thế mà người đời sau vẫn gọi ông là ''Yorck từ trận Wartenburg'' . Bài ''Hành khúc Landwehr xứ Böhmen'' (Marsch für die böhmische Landwehr".)  của nhạc sĩ Beethoven được đổi tên thành ''Hành khúc Yorck'' (Yorckscher Marsch) hay ''Hành khúc quân đoàn của Yorck'' (Marsch des Yorckschen Korps)  , về sau đây chính là một trong các bài nhạc nổi tiếng nhất của quân đội Đức , vẫn thường xuyên được chơi vào ngày nay bởi tiểu đoàn Cảnh vệ ở Berlin .


 

Về sau , tên của Yorck cũng được dùng để đặt tên cho các doanh trại , quảng trường , đường phố tàu hàng và chiến hạm .

11. Trận chiến ở Bắc Đức vào cuối tháng 9.

Việc Tập đoàn quân Schlesien vượt sông Elbe thành công tại Wartenburg đã giúp Tập đoàn quân Bắc cũng bắt đầu vượt sông . Trước khi tiếp tục thì  chúng ta hãy cùng nhìn lại những sự kiện ở mặt trận Bắc Đức kể từ trận chiến tại Dennewitz.

Thái tử Thụy Điển Thụy Điển Thụy Điển khi ấy đang lo ngại rằng Tập đoàn quân Berlin trước đó bị đánh bại tại Dennewitz sẽ được tăng cường bởi Vệ binh Đế chế dưới sự chỉ huy trực tiếp của Napoléon và sẽ phản công ông. Tuy nhiên, điều này đã không xảy ra; Napoléon không tấn công lên hướng Bắc mà quay sang Blücher. Do không thể đoán trước được cuộc tấn công vào vùng Schlesien sẽ diễn ra như thế nào, Thái tử Thụy Điển Thụy Điển đã điều chỉnh vị trí đội hình để sẵn sàng đối phó. Cánh trái được bố trí đối diện Lausitz , Quân đoàn Tauenzien được triển khai đến Dahme để bảo vệ tuyến đường Luckau-Jüterbog, và Voronzov được lệnh tiến đến Elster, đóng quân tại Schweinig và Annaburg. Vào ngày 9 tháng 9, Bülow cũng đã hội quân tại đây , trong khi Tauenzien tiến xa hơn đến Luckau. Trong khi đó, Tschernichev được giao nhiệm vụ giám sát Wittenberg; sư đoàn Hirschfeld, đóng quân tại Seyda và Gadegast, sẽ hỗ trợ ông; cuối cùng, các quân đoàn còn lại Thụy Điển và Nga sẽ chờ đợi diễn biến tiếp theo tại Jüterbog.

Tất cả những sắp xếp này của Thái tử Thụy Điển Thụy Điển đều được thống nhất với các chỉ huy quân đoàn. Chỉ riêng Bülow là có ý kiến khác. Ngay sau trận chiến Dennewitz, ông đã gửi một bản ghi nhớ cho Thái tử Thụy Điển Thụy Điển, đề nghị để Tauentzien bố phòng Wittenberg và Torgau, phần còn lại của tập đoàn quân sẽ vượt sông Elbe, đánh bại tàn quân của Ney một lần nữa, và sau đó triển khai các đội hình lớn về hướng đường Leipzig-Dresden để cắt đứt đường tiếp tế của quân Pháp. Vào ngày 11 tháng 9, ông tiếp tục bày tỏ mong muốn được phép tự mình vượt sông Elbe với quân đoàn của mình, vì sự xuất hiện của một quân đoàn Phổ mạnh ở khu vực Roslau chắc chắn sẽ khiến đối phương từ bỏ phòng tuyến sông Elbe và thiết lập một vị trí mới sau sông Saale. Tuy nhiên, Thái tử Thụy Điển Thụy Điển đã không đồng ý với đề xuất này. Theo ông, tình hình ở tả ngạn sông Elbe có thể thay đổi hoàn toàn trong thời gian tới, vì Wallmoden báo cáo rằng Davout dường như có ý định tiến quân về Magdeburg với 18.000 quân thể thiết lập chiến tuyến sát với Napoléon . Nếu kế hoạch này thành công, một quân đoàn đơn lẻ ở tả ngạn sông Elbe không những vô ích mà còn có thể rơi vào tình thế nguy trong thời gian ngắn; tuy nhiên, Thái tử Thụy Điển Thụy Điển cho rằng không nên mạo hiểm vượt sông Elbe với toàn bộ tập đoàn khi Napoléon chưa hoàn toàn rút khỏi hữu ngạn sông Elbe và từ bỏ mọi nỗ lực tấn công Berlin, đặc biệt là khi không có một vị trí vững chắc nào bên bờ sông Elbe để bảo vệ đường tiếp tế phía sau.

Do đó, Thái tử Thụy Điển Thụy Điển đã bác bỏ đề xuất của Bülow và vào ngày 13 tháng 9, giao cho ông nhiệm vụ bao vây Wittenberg, đồng thời bày tỏ hy vọng rằng sự quyết đoán của vị tướng này sẽ dẫn đến việc đầu hàng nhanh chóng của pháo đài. Bülow, với sự nghi ngờ của mình, chỉ coi nhiệm vụ này là một hình phạt vì sự thúc giục nhằm tiến lên phía trước của ông, điều này đã góp phần làm trầm trọng thêm mâu thuẫn giữa hai người.

Tuy nhiên, sự thận trọng do dự của Thái tử Thụy Điển Thụy Điển dường như hoàn toàn hợp lý khi vào ngày 13 và 14 tháng 9,  ông biết được rằng các đơn vị kỵ binh Pháp đã đóng quân gần Großenhain và Kamenz từ cuối tháng 8 đã được tăng cường bởi quân đoàn kỵ binh Latour-Maubourg và quân đoàn Marmont, và các lực lượng này được đặt dưới quyền chỉ huy thống nháat của Murat. Rất khó để nhận ra ý định của Napoléon khi điều động một lực lượng lớn như vậy theo hướng này, nhưng ngay cả một người thận trọng như Thái tử Thụy Điển Thụy Điển cũng có thể nhận ra trong những động thái này sự khởi đầu của một đòn tấn công mới vào Berlin; Tauentzien và thậm chí cả Bülow cũng có chung mối lo ngại này. Tauentzien trong khi đó vẫn duy trì liên lạc thường xuyên với Tập đoàn quân Schlesien , lúc này đã tiến gần hơn tới vị trí của ông .

Bülow miễn cưỡng tiến về Wittenberg và bắt đầu bao vây pháo đài này vào ngày 14. Nhưng sự hiện diện đáng lo ngại của Murat gần Großenhain đã mang đến cho ông một lý do thích hợp để trì hoãn việc đào chiến hào, vốn đã được Thái tử Thụy Điển Thụy Điển ra lệnh thực hiện vào ngày 18. Chỉ có mệnh lệnh lặp đi lặp lại của Thái tử Thụy Điển Thụy Điển mới khiến ông tiến gần hơn đến pháo đài. Đến ngày 23, cuối cùng ông cũng có thể bắt đầu pháo kích thành phố. Tuy nhiên, trước đó, các vùng ngoại ô vẫn cần phải bị chiếm. Cuộc tấn công vào các vùng ngoại ô diễn ra vào chiều ngày 24 đã diễn ra thuận lợi hơn dự kiến; đối phương không hề kháng cự nghiêm túc ở bất cứ đâu, và ngay buổi tối, Bülow đã chiếm được toàn bộ khu vực tiền đồn của pháo đài. Lúc này, các chiến hào đã được mở và thành phố bị pháo kích bằng cả pháo dã chiến và pháo vây hãm được vận chuyển từ Spandau. Tuy nhiên, mặc dù cuộc pháo kích đã gây ra các đám cháy lan rộng trong thành phố, nhưng điều đó không làm suy yếu khả năng phòng thủ của pháo đài; một lời đề nghị đầu hàng đã bị chỉ huy trưởng, tướng La Ponpe, từ chối ngay lập tức.

Thái tử Thụy Điển Thụy Điển vô cùng tức giận về sự thất bại của cuộc vây hãm ,  vì ông cho rằng điều đó hoàn toàn là do Bülow thiếu thiện chí. Một cuộc pháo kích khác mà ông ra lệnh, diễn ra trong đêm từ ngày 30 tháng 9 sang ngày 1 tháng 10, và có sự tham gia của một đơn vị công binh Thụy Điển theo lệnh của ông, cũng không thành công. Vào ngày 2 tháng 10, Bülow đã nhận được lệnh phải đẩy nhanh tiến độ công việc đến mức tối đa, vì việc tập đoàn quân vượt sang tả ngạn sông Elbe cho đến nay chỉ bị cản trở bởi các công sự yếu kém  Wittenberg. Đồng thời, một lá thư khiếu nại do Tướng Krusemark, đại diện quân sự của Phổ, soạn thảo theo yêu cầu của Thái tử Thụy Điển Thụy Điển, đã được gửi đến Friedrich Wilhelm III, trong đó Bülow bị cáo buộc bất tuân thượng lệnh và một yêu cầu khẩn thiết đã được đưa ra để nhà vua ra lệnh cho vị tướng này trong tương lai phải tuân thủ vô điều kiện các mệnh lệnh từ cấp trên của mình".

Câu hỏi đặt ra là liệu những lời buộc tội được đưa ra trong lá thư này có chính đáng hay không, và liệu cuộc bao vây Wittenberg có thể đạt được kết quả thuận lợi hơn với sự quyết đoán hơn hay không, ngày nay không còn có thể trả lời được nữa. Theo như diễn biến của cuộc bao vây có thể đánh giá được,

Việc Tập đoàn quân Schlesien bắt đầu vượt sông Elbe tại Wartenburg đã làm thay đổi tình hình . Vì Thái tử Thụy Điển Thụy Điển giờ đây đã từ bỏ hy vọng sớm chiếm được Wittenberg, nhưng không thể bỏ lại quân đoàn Bülow khi vượt sông Elbe, nên vào ngày 3, mệnh lệnh đã được gửi đến Bülow, yêu cầu ông hành quân đến Rosslau với ba sư đoàn và vượt sông Elbe ở đó. Do đó, Bülow đã giao nhiệm vụ tiếp tục vây hãm pháo đài cho sư đoàn Thümen và hành quân đến Rosslau vào ngày 4 tháng 10.

Trước đó từ ngày 13 tháng 9, Thái tử Thụy Điển Thụy Điển đã bắt đầu cho xây dựng các điểm vượt sông Elbe tại Elster, Rosslau và Aken để có thể vượt sông ở nhiều vị trí cùng một lúc khi tình hình cho phép. Tuy nhiên, biện pháp này đã khiến tập đoàn quân bị dàn trải trên một khu vực rất rộng , ví dụ như và vào ngày 14, cánh trái của họ ở Übigau còn cánh phải ở tận Zerbst. Đến tối ngày 24, việc xây dựng cầu đã hoàn thành và một đầu cầu đã được xây dựng trên bờ đối diện trước mỗi cây cầu. Tại tất cả các điểm vượt sông, các đội tuần tra nhỏ của lực lượng phía Bắc đã vượt sông Elbe và chiếm đóng các địa điểm lân cận. Hầu hết Cossack của Tschernichev cũng đã vượt sang tả ngạn sông Elbe và bắt đầu đột kích khu vực nằm giữa sông Elbe và sông Saale.

Vào ngày 1 tháng 10, tướng Tschernichev tổ chức một lễ diễu binh long trọng tiến vào thành phố Kassel, được người dân nhiệt liệt hoan nghênh. Ông tuyên bố giải thể Vương quốc Westfalen (chính quyền bù nhìn của Pháp được dựng lên ở vùng Ostfalen vào năm 1807) và kêu gọi cư dân Westfalen tham gia cuộc chiến chống Pháp. Quân của ông đã thu giữ tổng cộng 79.000 thaler, 2.000 tù binh, 30 khẩu pháo, cùng nhiều vũ khí và quân trang khác của chính quyền Westfalen . Khoảng 1.000 người Westfalen tình nguyện tham gia lực lượng Phổ đã lập thành lập một tiểu đoàn dưới sự chỉ huy của Thiếu tá von Dörnberg, sau này gia nhập vào Quân đoàn Anh-Đức.

Tổn thất của Tschernichev là 5 sĩ quan và 70 binh sĩ . Dù tướng Tschernichev buộc phải rút quân vào ngày 4 tháng 10, và Quốc vương Jérôme đã trở lại Kassel vào ngày 16 để dựng lại chính quyền thì cuộc đột kích này đã cho thấy sự lung lay của nền cai trị Pháp tại Đức.

Trong quá trình vượt sông thì Thái tử Thụy Điển Thụy Điển đã chạm trán với đối thủ cũ của mình - Thống chế Ney.

Sau trận Dennewitz, Ney đã rút Tập đoàn quân Berlin từ Torgau về tả ngạn sông Elbe để tái tổ chức. Do thông tin sai lệch rằng Quân đoàn Voronsov đã vượt sông Elbe tại Coswig và toàn bộ Tập đoàn quân Bắc đang theo sau, vào ngày 9 tháng 9, ông bỏ phòng tuyến sông Elbe và rút về tuyến Wurzen-Düben, khiến Napoléon rất không hài lòng về quyết định. Hoàng Đế lệnh cho ông tập hợp lại tại Torgau, rồi bố trí ở hữu ngạn sông Elbe, phía trước Torgau. Tuy nhiên, Ney cho rằng với tình trạng quân hiện tại, ông không thể vượt sông Elbe. Sau vài cuộc hành quân không rõ đích đến, cuối cùng vào ngày 16 tháng 9, ông đóng quân trên tuyến Schildau-Beckwitz-Torgau-Dommißsch.

Thống chế Ney tận dụng thời gian tạm ngưng chiến đấu để tổ chức lại tập đoàn quân. Do phàn nàn của ông về Oudinot, Oudinot bị triệu về Dresden; quân đoàn của Oudinot bị giải thể để tăng cường cho hai quân đoàn khác. Các sư đoàn Pacthod và Guilleminot, sau khi quân Bayern tan rã (chỉ còn 4 tiểu đoàn), được hợp nhất thành một sư đoàn thuộc Quân đoàn VII; hai sư đoàn Sachsen cũng được hợp nhất. Riêng Quân đoàn Bertrand vẫn giữ nguyên các sư đoàn, nhưng giảm số tiểu đoàn. Như vậy, tập đoàn quân của Ney chỉ còn lại khoảng 32.000 người và 88 khẩu pháo trong hai quân đoàn và một quân đoàn kỵ binh, chưa kể sư đoàn Dombrowski (3.200 người và 8 khẩu pháo).

Vào ngày 20 tháng 9, Ney nhận tin quân Phổ đã chiếm Wartenburg và Quân đoàn Bülow sẽ vượt sông bằng cây cầu tại Elster ngày hôm sau. Tại Dessau cũng có lực lượng liên minh mạnh và địch đã bắc hai cầu. Sau khi báo cáo được nhận bởi Hoàng Đế, Napoléon đã lệnh cho các Quân đoàn Bertrand và Reynier tập trung ngay tại Wittenberg.

Ney chủ động tiến quân về Wittenberg từ ngày 21 nhằm đẩy lui quân địch vượt sông tại Elster và phá cầu, Sư đoàn Morand được phái đến Wartenburg ngày 23. Morand chạm trán quân của Quân đoàn Bülow, buộc họ rời làng nhưng không dám tiến đến cầu vì tin rằng toàn bộ Quân đoàn Bülow đóng tại đó. Đến ngày 24, Ney tiếp tục tiến về Wittenberg và đóng quân với cả hai quân đoàn giữa Oranienbaum và Schmiedeberg, chỉ để lại các sư đoàn Dombrowski và Defrance ở Mulde.

Bülow nhận được tin về động thái của Ney ngày 23. Lo ngại Ney tấn công Wittenberg để đẩy lui lực lượng vây hãm nên ông điều Sư đoàn Hessen-Homburg từ Elster đến Wittenberg, thay bằng Sư đoàn Borstell tại Elster. Borstell vừa đến Elster ngày 24 thì Morand tấn công Wartenburg lần hai, buộc quân Phổ rút khỏi làng và dần rút về hữu ngạn sông Elbe. Giao tranh ác liệt khiến Tướng Bertrand tin rằng đối phương mạnh hơn nhiều; ông tin vào tin đồn có 15.000-20.000 quân tại Elster, định vượt sông ngày hôm sau. Theo báo cáo của Bertrand, Ney đã tập trung quân tại Wartenburg để ngăn vượt sông sang tả ngạn.

Động thái của Ney làm bộ chỉ huy Tập đoàn quân Bắc lo ngại về cuộc vượt sông Elbe tại Wittenberg, khiến Thái tử Thụy Điển Thụy Điển lệnh rút quân tại Elster, phá cầu và tập trung Quân đoàn Bülow trước Wittenberg. Borstell phá cầu và hành quân về Wittenberg sáng 26, chỉ để lại một đội nhỏ tại Elster để quan sát địch. Bülow rất tức giận vì mệnh lệnh này của Thái tử Thụy Điển Thụy Điển, hy vọng thuyết phục Thái tử Thụy Điển Thụy Điển vượt sông Elbe tan vỡ. Ông phản đối bằng thư nhưng vô ích, vì Tập đoàn quân Schlesien đã bắt đầu hành quân sang sườn phải từ ngày 25, tạo ra tình thế mới.

Vào ngày 25, Ney chờ đợi vô ích cuộc vượt sông và tấn công của Bülow. Tin tức Tập đoàn quân Bắc từ Dessau tiến về Wittenberg khiến ông phái Quân đoàn Reynier đến Dessau ngày hôm sau, còn Bertrand ở lại Wartenburg. Reynier chạm trán Cossack và đội nhỏ địch, nhưng chưa có cuộc vượt sông lớn nào. Tối đó, tin báo địch đã bỏ tả ngạn sông Elbe tại Wartenburg và phá cầu, Ney cũng đã gọi Quân đoàn Bertrand và chỉ dùng kỵ binh quan sát sông Elbe.

Vào ngày 27, Ney giữ nguyên vị trí các quân đoàn và tiến hành trinh sát về hướng Dessau. Quân tiền tiêu Thụy Điển bỏ Dessau không kháng cự khiến ông quyết định ngày hôm sau sẽ đẩy hết quân địch ở tả ngạn sông Elbe qua sông, rồi phá cầu và đầu cầu tại Rosslau. Dù Thái tử Thụy Điển Thụy Điển đã chỉ thị quân Thụy Điển tại Rosslau không giao chiến nghiêm trọng, ông vẫn không hài lòng với việc bỏ Dessau vội vàng và lệnh tái chiếm, nhưng không kịp vì đối phương đã tiến vào với quân số lớn hơn.

Ngày 29, Ney lệnh tấn công đầu cầu Rosslau. Giao tranh diễn ra với kết quả bất phân thắng bại, cuối cùng liên minh bị đẩy về các công sự dọc đầu cầu, nhưng bởi công sự quá mạnh nên quân Pháp không thể công kích trực diện. Ney quyết định bao vây đầu cầu. Trong lúc chuẩn bị, ông nhận tin về việc Tập đoàn quân Schlesien đã bắc 2 cây cầu tại Elster, buộc ông phải phái quân đến Wartenburg ngày 30 tháng 9, ban đầu là một phần và ngày 2 tháng 10 là toàn bộ Quân đoàn Bertrand.

Việc Tập đoàn quân Schlesien vượt sông Elbe ngày 3 tháng 10 và thất bại của Bertrand tại Wartenburg cuối cùng đã tạo bước ngoặt trong chiến dịch, buộc Ney từ bỏ ý đồ tấn công Rosslau và rút về Delitzsch.

Thái tử Thụy Điển Thụy Điển cũng theo sau Tập đoàn quân Schlesien , tiến hành vượt sang tả ngạn sông Elbe vào ngày 4 tháng 10.

 

Trong khi đó tại hạ nguồn Elbe , cuộc truy kích lực lượng của Davout đã dừng lại vào ngày 2 tháng 9 . Đối với Wallmoden, việc Thống chế Davout đột ngột rút lui vẫn là một bí ẩn. Ông cho rằng Davout, do các sự kiện ở Sachsen, có thể có ý định tiến quân về hướng của Napoléon qua Magdeburg. Điều này khiến ông phải điều một phần quân đoàn của mình đến Dömitz vào ngày 5 và 6 tháng 9 để chuẩn bị vượt sông Elbe tại đây, và sau đó, từ tả ngạn sông, quan sát các điểm vượt sông tiềm năng của Davout tại Winsen và Harburg. Tuy nhiên, những động thái này hóa ra là không cần thiết khi ông biết được rằng Thống chế không hề có ý định hành quân về Magdeburg. Vì vậy, Wallmoden trở lại Hagenow vào ngày 10. Tại đây, ông biết được từ giấy tờ của một người đưa tin bị Cossack chặn bắt rằng một phần của Sư đoàn bộ binh 50 của Pháp dưới quyền Tướng Pécheur sẽ vượt sông Elbe trong vài ngày tới để quét sạch tả ngạn sông Elbe khỏi các đội tuần tra của liên minh và khôi phục lại liên lạc bị gián đoạn với Magdeburg.

Điều này đã khiến Wallmoden phải lập tức quay trở lại Dömitz với lực lượng đang đóng tại Hagenow. Ngay tối ngày 14, ông đã tập hợp được 9.000 quân, 3.200 kỵ binh và 38 khẩu pháo tại đó. Khi tin tức về việc Pécheur đang vượt sông ập đến vào tối cùng ngày, Wallmoden đã vượt sang tả ngạn sông Elbe vào đêm ngày 15 và tiến đến Dannenberg.

Pécheur đã đến Lüneburg vào tối ngày 14 với 3.000 bộ binh, 80 kỵ binh và 6 khẩu pháo. Nhiệm vụ của ông là đánh đuổi quân của Wallmoden khỏi Dannenberg và khôi phục liên lạc trực tiếp giữa Hamburg và Magdeburg. Để thực hiện nhiệm vụ này, ngày 15, ông ta chậm rãi tiến quân từ Lüneburg qua Göhrde, đẩy lùi Cossack bao vây mình từ mọi phía và chiếm vị trí trên đồi Steinker, ngay phía tây Lüben vào buổi chiều. Tại đây, Wallmoden đã tấn công quân Pháp vào ngày 16, tiến quân thành ba mũi và bao vây địch từ mọi phía.  Tuy nhiên sự quyết tâm của Pécheur đã giúp một nửa  đoàn nhỏ bé của ông ta chọc thủng được lực lượng đối phương áp đảo và rút lui về Hamburg qua Lüneburg và Zollenspieker, chịu tổn thất 1.500 quân, toàn bộ pháo binh và 17 xe chở đạn dược.



Trận chiến ở Göhrde là thành công đáng kể duy nhất mà Cụm Quân đoàn Wallmoden có cơ hội giành được trong suốt cuộc chiến, vì vậy chúng ta không ngạc nhiên khi tầm quan trọng của nó đã bị phóng đại một chút trong các tài liệu đương thời. Về mặt quân sự, nó chỉ có ý nghĩa ở chỗ nó cho thấy rõ ràng các lực lượng gồm toàn tình nguyện và dân quân ít có khả năng đạt được thành công trước quân chính quy như thế nào, ngay cả khi họ được chỉ huy bởi những chỉ huy tài giỏi xuất sắc như Wallmoden , cùng với sự tham mưu của Clausewitz.

Các đơn vị của Wallmoden hoàn toàn tan rã sau trận chiến nên đã đóng quân qua đêm tại chỗ vào buổi tối, còn các đơn vị lớn hơn tập trung tại Lâu đài Jagdschloß Göhrde. Tổn thất của Wallmoden là 32 sĩ quan, 526 binh sĩ và 306 con ngựa. Mặc dù liên minh không tiêu diệt hoàn toàn được đối phương dù có ưu thế áp đảo, nhưng ấn tượng về mặt tinh thần mà chiến thắng này mang lại cho toàn bộ miền bắc nước Đức là vô cùng lớn, sự thống trị của Pháp ở vùng đất Hannover cổ đã bị lung lay, niềm tin vào sự bất khả chiến bại của họ cũng tan biến ở đây; các đội tuần tra của liên minh từ đó di chuyển hoàn toàn an toàn ở tả ngạn sông Elbe, và Hamburg đã trở thành một tiền đồn bị cô lập.

Trong ngày 16, Wallmoden đã rất lo lắng về những gì Davout sẽ làm với lực lượng  còn lại phía trước vị trí của Davout. Sự lo lắng của ông tăng lên khi vào buổi chiều, ngay trước cuộc tấn công vào vị trí của Pécheur, ông nghe thấy tiếng pháo từ Boizenburg vọng lại. Do đó, có thể hình dung được niềm vui của ông khi sáng sớm ngày 17, ông biết được rằng Davout chỉ thực hiện một cuộc trinh sát từ Lauenburg và đã rút lui sau một cuộc giao tranh không đáng kể. Dù sao thì việc nhanh chóng quay trở lại hữu ngạn sông Elbe càng sớm càng tốt vẫn là điều khôn ngoan để có thể đối phó với một cuộc tiến quân tiềm tàng của Thống chế với toàn bộ lực lượng. Tuy nhiên, Davout vẫn tiếp tục không có bất kì động thái nào ở Razeburg, và toàn bộ thời gian còn lại của tháng 9 trôi qua mà không có bất kỳ hoạt động tác chiến đáng kể nào.



Quay trở lại với  Tập đoàn quân Böhmen thì khu vực này vẫn hoàn toàn yên tĩnh kể từ trận Kulm lần 2 . Sự thay đổi tình hình chiến dịch vào ngày 19 tháng 9 lại dẫn đến các cuộc hội ý lớn tại Đại bản doanh. Cuộc hành quân sang sườn trái đã bị gián đoạn do các sự kiện gần đây được đưa lên để bàn luận nhưng sự tin chắc rằng vẫn còn các lực lượng đáng kể của đối phương ở phía trước và Napoléon không có ý định rút về Leipzig, đã dẫn đến quyết định không bắt đầu cuộc hành quân trước khi Tập đoàn quân Ba Lan của Bennigsen đến. Trong thời gian chờ đợi, họ sẽ được nghỉ ngơi vài ngày cần thiết, giải quyết tình trạng thiếu lương thực và đặc biệt là thức ăn gia súc, và đồng thời tiếp chiến tranh du kích mạnh mẽ . Các khó khăn về hậu cần được giảm bớt bằng cách chuyển kỵ binh và pháo binh dự bị đến tả ngạn sông Eger giữa Saaz và Laun, nơi các đơn vị này đã di chuyển qua vào ngày 21.

Để tiếp tục chiến tranh du kích một cách tích cực, ba đội Cossack-StreifQuân đoàn khác nữa đã được phái đi dưới quyền chỉ huy của Hetman Platov, Thiếu tá von Colomb và Bá tước Pückler. Quân đoàn Klenau sẽ được triển khai đến Waldheim để yểm trợ cho tất cả các đội tuần tra này. Các hoạt động của các đội tuần tra này, đặc biệt là hai đội đã được phái đi vào những ngày đầu tháng 9 dưới quyền chỉ huy của Bá tước Mensdorff và Tướng Thielmann, đã thành công đến mức rất sớm sau đó, đường liên lạc từ Sachsen tới sông Rhine chỉ có thể được duy trì với những khó khăn lớn nhất , một lượng lớn vật tư chiến tranh và lương thực của họ đã bị thu giữ. Số lượng tù binh tăng lên đến mức các quân đoàn nhỏ không còn khả năng dẫn họ theo cùng nữa; toàn bộ các đơn vị đồn trú hậu cần, như ở Freiberg, Merseburg và Naumburg, đã đầu hàng họ, và dân chúng ngày càng thể hiện thái độ thù địch với quân Pháp. Vì Sư đoàn Margaron với 7.000 quân và 16 khẩu pháo là không đủ để chấm dứt tình trạng hỗn loạn này, Hoàng Đế đã phái Tướng Léfèbvre-Desnoëttes với khoảng 6.500 kỵ binh, 1.500 bộ binh và 6 khẩu pháo từ Torgau đến và giao quyền chỉ huy tối cao tất cả các lực lượng này cho Tướng Arrighi ở Leipzig. Ngay cả những biện pháp này vẫn chưa đủ. Khi Léfèbvre bị Thielmann và Platov đánh tan hoàn toàn gần Altenburg vào ngày 28 tháng 9, Napoléon không còn cách nào khác ngoài việc điều động các Quân đoàn Poniatowski và Kellermann từ Waldheim đến Frohburg, Victor và Pajol đến Chemnitz, và lực lượng tiền quân của Ney từ Nossen đến Waldheim. Cuối cùng, các đơn vị này, phối hợp với Quân đoàn Augereau đang tiến quân qua Jena, đã thành công trong việc thu hẹp phạm vi hoạt động của các đội tuần tra và dần dần đẩy họ trở lại căn cứ xuất phát .

Từ ngày 18 đến ngày 27 tháng 9 tại Đại bản doanh của liên minh đã diễn ra các cuộc họp để bàn về chiến lược tác chiến vào tháng 10  .Theo đề xuất của Radezky thì Tập đoàn quân Böhmen sẽ buộc Napoléon phải rời khỏi phòng tuyến sông Elbe bằng một đòn thọc sâu về hướng Hof và Bayreuth, tuy nhiên đề xuất này đã không được chấp thuận họ sẽ ngồi chờ tại chỗ cho tới khi Tập đoàn quân Ba Lan Bennigsen hành quân tới chiến trường , rồi mới bắt đầu cuộc hành quân sang sườn trái về hướng Sachsen và đánh đến tuyến Annaberg-Marienberg, đồng thời triển khai các lực lượng dự bị đến Komotau. Bennigsen, Wittgenstein, Kleist và Klenau sẽ ở lại để bảo vệ cuộc hành quân sườn này và để phòng thủ vùng núi Böhmen .  Theo ý kiến tư phía Nga thì chỉ có Bennigsen và Colloredo ở lại để bảo vệ Böhmen. Trong khi các mục tiêu của Tập đoàn quân Böhmen tạm thời được đặt ra khá hạn chế, vào ngày 25 tháng 9, các chỉ thị chi tiết của Sa Hoàng Alexander đã được gửi đến Blücher, Thái tử Thụy Điển Thụy Điển Thụy Điển và Bennigsen, trong đó việc vượt sông Elbe được đề xuất cho hai người đầu tiên, và việc bảo vệ Böhmen được giao cho người sau. Hai ngày sau,  cuộc hành quân vào Sachsen được lên kế hoạch từ lâu đã bắt đầu.

Vào cuối tháng 9 tại vùng Böhmen , với việc thiếu vắng các trận đánh quyết định, nên chiến trường này thường chỉ được đề cập thoáng qua trong hầu hết các sách lịch sử. Tuy nhiên, khoảng thời gian giữa trận Kulm lần 2 và trận Wartenburg trong chiến dịch mùa thu lại là một trong những thời điểm quan trọng và thú vị nhất. Với trận Kulm lần 2 , đối với Napoléon thì chuỗi vận rủi không ngừng vào cuối sự nghiệp của ông đã bắt đầu, chuỗi vận rủi này đã dẫn ông từ Leipzig đến Elba, và từ Waterloo đến St. Helena. Trong khoảng thời gian này,  khả năng xoay chuyển cục diện dù vẫn nằm trong tay Napoléon nhưng rất ít ỏi . Nhưng không phải bằng cách chuyển cuộc chiến sang một chiến trường khác, thuận lợi hơn và tập hợp lại các đội hình đồn trú rải rác trên khắp miền bắc nước Đức thành một tập đoàn quân mạnh để đối dầu trực diện với chủ lực liên minh . Việc Napoléon không hiểu được điều này, ngày nay chúng ta thấy thật khó hiểu. Các lực lượng của ông đã mất 150.000 quân kể từ đầu cuộc chiến, hơn 300 khẩu pháo và vô số vật tư quân sự các loại. Không thể nghĩ đến việc bù đắp cho những tổn thất này, vốn ngày càng gia tăng do các cuộc hành quân tiêu hao liên tục, các trận chiến gần như nổ ra hàng ngày, thời tiết bất lợi và nguồn cung cấp ngày càng không đủ .

Hoàng Đế chắc chắn đã nhận ra rằng không thể giành được thêm bất kỳ thành công nào từ hướng Böhmen sau đợt tấn công thứ ba của mình từ ngày 16 đến 18 tháng 9. Giờ đây, đã đến lúc ông phải rời khỏi Dresden. Nếu, trong khi St. Cyr tập hợp các quân đoàn Lobau và Victor và từ từ rút lui cùng họ về Torgau, ông ta thực hiện một cuộc tấn công quyết liệt với Vệ binh Đế chế và Tập đoàn quân Bober chống lại Blücher và Bennigsen, để đánh bại hoặc ít nhất là đẩy họ lùi về phía sau phòng tuyến Katzbach, thì không ai có khả năng ngăn cản ông ta tiến quân về phía bắc và giải phóng các đơn vị đồn trú ở Glogau, Küstrin và Stettin, thậm chí có thể là Danzig. Nếu sau đó ông tập hợp tất cả các lực lượng này với các lực lượng từ Hamburg, Dresden và Leipzig ở trung lưu sông Elbe và cũng ra lệnh cho Quân đoàn Augereau đến đó, thì trong vòng vài tuần, ông có thể lại đứng đầu một tập đoàn quân dã chiến mạnh hơn 350.000 quân, một tập đoàn quân, được tiếp tế bởi Torgau, Magdeburg và Wittenberg, vẫn có thể kháng cự lại sức mạnh thống nhất của liên minh trong một thời gian dài, một tập đoàn quân mà chắc chắn không thể ngăn cản liên minh rút lui về Hạ Rhein, nhưng một tập đoàn quân mà ông cũng có thể, nếu ông thích và nguồn cung cấp của ông cho phép, rất có thể cầm cự ở Đức qua mùa đông 1813-1814 và sau đó, được tăng cường bởi các đợt tuyển quân mới, sẽ bắt đầu lại cuộc chiến vào mùa xuân năm sau . Theo mọi lẽ thường tình, liên minh, với một diễn biến chiến tranh như vậy và chỉ với các điều kiện thuận lợi vừa phải, có lẽ đã ưu tiên ký kết hòa bình.

Nhưng Napoléon đã hành động khác , vào cuối tháng 9, ông đã đưa ra quyết định không bỏ trống hữu ngạn sông Elbe để cho đại quân tại Dresden được nghỉ ngơi , bởi việc từ bỏ khu vực hữu ngạn sông Elbe cũng đồng nghĩa là bỏ trống các pháo đài.

12.Leipzig - tiền cuộc

Dưới sự tiến quân của liên minh thành hai mũi nhọn tập đoàn quân từ phía bắc và phía nam về hướng Leipzig, tình hình của Napoléon đã tốt hơn ở chỗ giờ đây ông chỉ phải đối phó với hai nhóm quân thay vì ba, và hơn nữa, họ đang ở trên một địa hình mà họ ít có khả năng né tránh các đòn tấn công chủ động của ông hơn trước. Vì vậy, ông có thể hy vọng cuối cùng sẽ đạt được trận chiến quyết định mà liên minh luôn khéo léo trốn tránh cho đến thời điểm đó.

Mục tiêu liên minh là hợp nhất toàn bộ lực lượng của họ. Nếu họ thành công trong việc thực hiện điều này, họ sẽ có một ưu thế áp đảo so với lực lượng đã suy yếu đáng kể của Hoàng Đế. Do đó, nỗ lực của Napoléon phải nhằm mục đích đánh bại từng tập đoàn quân của địch trước khi họ kịp hợp nhất. Để làm được điều này, ông buộc phải chia toàn bộ lực lượng của mình thành hai phần, để với phần yếu hơn giữ chân một tập đoàn quân của đối phương đủ lâu cho đến khi ông thành công trong việc tiếp cận tập đoàn quân thứ hai bằng lực lượng mạnh hơn và buộc họ phải đánh trận quyết định.

Nhưng liệu Hoàng Đế có còn đủ mạnh để thành lập hai tập đoàn quân có khả năng thực hiện những nhiệm vụ như vậy hay không? Một cái nhìn vào sức mạnh và vị trí của Grande Armée vào buổi tối ngày 4 tháng 10 sẽ chứng minh điều này.

Hoàng Đế có trong tay tại Dresden, trong các quân đoàn Macdonald, Lobau, St. Cyr, Sebastiani và Vệ binh Đế chế, 116.300 quân và 389 khẩu pháo, dọc sông Elbe giữa Strehla và Meißen trong Quân đoàn Souham 15.900 quân và 61 khẩu pháo, trên sông Mulde giữa Eilenburg và Bitterfeld trong Tập đoàn quân Berlin trước đây và các Quân đoàn Marmont và Latour-Maubourg 71.700 quân và 203 khẩu pháo, trên mặt trận Altenburg-Freiberg trong các Quân đoàn Victor, Lauriston, Poniatowski và Kellermann 43.550 quân và 156 khẩu pháo, trong và xung quanh Leipzig 7.200 quân và 22 khẩu pháo, cũng như giữa Weißenfels và Naumburg trong quân đoàn kỵ binh hỗn hợp dưới quyền Léfèbvre-Desnoëttes 5.000 quân và 6 khẩu pháo. Ngoài ra còn có Quân đoàn Augereau đang hành quân về Leipzig với Sư đoàn kỵ binh Milhaud với 12.700 quân và 14 khẩu pháo.

Nếu Hoàng Đế tập hợp các đơn vị lực lượng của mình đóng tại Dresden và Leipzig với các quân đoàn dưới quyền Murat đang tiến về Erzgebirge, thì bao gồm cả Augereau, trong vòng hai đến ba ngày, ông có thể có hơn 180.000 quân và do đó hoàn toàn ngang sức với Tập đoàn quân Böhmen của liên minh, vốn có khoảng 185.000 quân vào thời điểm đó. Trong khi đó, Tập đoàn quân Schlesien và Tập đoàn quân Bắc liên hợp có thể bị cầm chân bởi 87.000 quân còn lại dưới quyền Ney, Marmont và Souham cho đến khi trận quyết chiến với Tập đoàn quân Böhmen kết thúc. Nhưng nếu Hoàng Đế muốn giáng đòn đầu tiên vào Tập đoàn quân Schlesien và Tập đoàn quân Bắc, thì sau khoảng bốn ngày, ông có thể dễ dàng tập hợp được 200.000 quân tại Düben, trong khi Murat vẫn còn 67.000 quân đối đầu với Tập đoàn quân Böhmen.

Vậy chúng ta thấy rằng Hoàng Đế vẫn còn đủ lực lượng, dù ông quyết định tấn công vào một trong hai đối thủ của mình, miễn là ông để Dresden tự vệ và điều động lực lượng của St. Cyr và Lobau đóng tại đó đến điểm quyết chiến.

Việc lựa chọn đối thủ không thể quá khó khăn. Tập đoàn quân Bắc và Tập đoàn quân Schlesien liên hợp đã tiến đến Leipzig chỉ trong vòng hai hoặc ba ngày hành quân, trong khi Tập đoàn quân Böhmen chỉ mới bắt đầu cuộc hành quân qua Erzgebirge, do đó vẫn có thể dễ dàng tránh được một cuộc tấn công. Do đó, Hoàng Đế quyết định trước tiên hướng cuộc tấn công của mình vào Blücher và Thái tử Thụy Điển Thụy Điển và giao cho Quốc vương xứ Napoli nhiệm vụ yểm trợ sườn cho ông trước Tập đoàn quân Böhmen đang tiến chậm. Cho đến khi lực lượng của mình được tập hợp đầy đủ, ông đã giao cho Thống chế Ney chỉ huy Tập đoàn quân Berlin trước đây, Quân đoàn Marmont đóng tại Düben với Quân đoàn kỵ binh 1, cũng như Quân đoàn Souham đóng tại Meißen. Ngày 5 tháng 10, Ney vẫn giữ phòng tuyến sông Mulde với lực lượng chủ yếu của mình tại Bitterfeld, Delitzsch và Luckowehna.

Tuy nhiên, khi các sư đoàn kỵ binh Fournier và Defrance yểm trợ sườn trái của ông tại Landsberg và Zschernitz đã rút lui về Delitzsch trước kỵ binh Nga và Sư đoàn Dombrowski cũng rút lui về đó từ Bitterfeld, Ney tin rằng mình phải từ bỏ phòng tuyến sông Mulde. Vào đêm ngày 7, phân khu tập đoàn quân của ông đã đến phòng tuyến Torgau-Wurzen-Taucha.

Sáng sớm ngày 7 tháng 10, Hoàng Đế đã điều động Quân đoàn Macdonald, Vệ binh Đế chế và Quân đoàn kỵ binh Sebastiani từ lực lượng của ông đóng tại Dresden đến Meißen, cả hai bên bờ sông Elbe. Các Quân đoàn St. Cyr và Lobau cũng nhận được lệnh sẵn sàng sơ tán Dresden, một chỉ thị tuy nhiên đã bị thu hồi vào cùng ngày. Hậu quả của những quyết định thay đổi liên tục của Hoàng Đế là rất tai hại đối với St. Cyr, vì tất cả các công sự nằm về phía biên giới Böhmen đã bị dỡ bỏ và mất đi không thể cứu vãn khi lệnh phản công được ban hành.

Hoàng Đế, người đã rời Dresden cùng với Sư đoàn Vệ binh già lúc 6 giờ sáng, đã đến Meißen vào lúc 10 giờ sáng. Tại đây, ông nhận được tin từ Ney rằng liên minh đã từ bỏ cuộc hành quân đến Leipzig và đang dàn trải trên hữu ngạn sông Mulde, dường như để yểm trợ cuộc bao vây Wittenberg. Tin tức này đã khiến ông không tiếp tục cuộc hành quân theo hướng Wurzen như dự định, mà đi theo con đường trực tiếp đến Düben, với hy vọng có thể tiếp cận và buộc Tập đoàn quân Schlesien phải giao chiến giữa Elbe và Mulde. Vào ngày 8 tháng 10, theo các báo cáo mới của Ney, Tập đoàn quân Bắc và Tập đoàn quân Schlesien có thể đã đóng quân tại Düben, ông đã tập hợp 22 sư đoàn bộ binh và 12 sư đoàn kỵ binh với khoảng 150.000 quân - trong khu vực giữa Taucha, Eilenburg và Dahlen. Ông chắc chắn dự kiến sẽ có một trận chiến vào ngày hôm sau ở khu vực Düben. Vì ông ước tính khá chính xác Tập đoàn quân Schlesien có 60.000 quân, nhưng Tập đoàn quân Bắc chỉ có 40.000 quân, nên ông càng tin tưởng vào một chiến thắng, vì rõ ràng trước mắt ông chỉ phải đối phó với Tập đoàn quân Schlesien, lực lượng đang triển khai đội hình với mặt trước hướng về Leipzig, tạo thành sườn hở cho đòn tấn công của Pháp.

Sáng sớm ngày 9 tháng 10 quân Pháp bắt đầu hành quân theo 3 đội hình dưới quyền Macdonald, Ney và Marmont về hướng Düben và Mockrehna. Lực lượng chính dưới quyền Ney tiến thẳng về Düben trên cả hai bờ sông Mulde. Tại Klitzsch thì họ dừng lại vì lực lượng này sẽ được Hoàng Đế duyệt binh tại đây. Khi đến chỗ quân Sachsen, Napoléon đã cho gọi các sĩ quan và hạ sĩ quan lên phía trước đội hình, kêu gọi lòng trung thành của họ với Hoàng Đế và tổ quốc trong một bài phát biểu ngắn gọn, nhắc nhở họ về tình anh em với Pháp kể từ Chiến tranh Bảy năm và về mối thù truyền kiếp giữa Sachsen và Phổ . Bài phát biểu này được Caulaincourt dịch sang tiếng Đức một cách vụng về nên đã không gây được ấn tượng sâu sắc đối với quân Sachsen, và chỉ một số ít trong số họ hòa theo tiếng hô hào nhiệt tình "Vive l'Empereur" của quân Pháp.

Ngay sau cuộc duyệt binh, cuộc hành quân đến Düben được tiếp tục. Vì Tướng Lanskoi đóng quân giữa Eilenburg và Düben đã rút về Cụm Cụm Cụm quân đoàn Sacken đóng tại Mockrehna mà không gửi báo cáo về Düben, nên quân Pháp chỉ chạm trán với một trung đoàn Cossack duy nhất trong cuộc hành quân của họ, và trung đoàn này nhanh chóng bị đánh tan . Vào khoảng 3 giờ chiều, tiền quân của họ đã tiến vào Düben thì họ hoàn toàn bất ngờ bởi khu vực này đã bị Tập đoàn quân Schlesien bỏ trống, và chỉ bắt kịp hậu quân của Cụm Cụm quân đoàn Langeron .

Do đó, hy vọng của Napoléon là đưa đối phương vào trận chiến và đánh bại họ một cách quyết định vào ngày hôm sau đã tan thành mây khói, toàn bộ đòn đánh mà ông đã hy vọng rất nhiều cuối cùng chỉ là một sự phí công vô ích.


Blücher đã chuyển HQ của mình đến Düben vào ngày 5 tháng 10. Ông biết rằng Thống chế Ney sau khi hợp nhất với Quân đoàn Bertrand đã bị đánh bại tại Wartenburg, đã rút lui từ Dessau theo hướng Leipzig còn Thái tử Thụy Điển Thụy Điển ngày hôm qua đã vượt sông Elbe tại Roslau và Aken với quân Thụy Điển và Nga, và rằng Quân đoàn Bülow sẽ thực hiện cuộc vượt sông này vào ngày hôm nay. Ông tin rằng Tập đoàn quân Böhmen đang vượt qua Erzgebirge nên có thể tính toán được rằng vào khoảng ngày 5 tháng 10, khi họ vừa ra khỏi vùng núi, họ có thể bị các lực lượng vượt trội của Napoléon tấn công.

Blücher đã vượt sông Elbe và cũng đã thuyết phục Thái tử Thụy Điển Thụy Điển thực hiện nước đi tương tự, để bằng cách này, kéo Napoléon về phía mình và Thái tử Thụy Điển Thụy Điển và đánh lạc hướng ông ta khỏi Tập đoàn quân Böhmen. Nếu ông tiếp tục cuộc hành quân vào ngày 5 tháng 10, thì với ưu thế quân số của mình so với Ney, ông có thể đẩy lùi Ney và hợp nhất với Tập đoàn quân Bắc ở phía trước Leipzig vào ngày 8; nhưng Napoléon cũng có thể đã đến Leipzig với lực lượng vượt trội vào ngày 9. Nếu điều này xảy ra thì họ có nguy cơ bị Napoléon đánh bại, trong khi nếu hợp nhất được với với Tập đoàn quân Böhmen thì liên minh sẽ có ưu thế hơn hẳn. Nhưng nếu Thái tử Thụy Điển Thụy Điển không muốn mạo hiểm một trận chiến, thì không còn cách nào khác ngoài việc quay trở lại qua sông Elbe hoặc rút lui qua sông Saale. Nếu Hoàng Đế sau đó truy đuổi, như dự kiến, thì với số lượng điểm vượt sông ít ỏi, các trận chiến chặn hậu khi rút lui gây tổn thất nặng nề là không thể tránh khỏi. Do đó, việc hành quân đến Leipzig quá sớm có thể gây hại nhiều hơn là có lợi; tốt hơn hết là trước mắt nên cố thủ trên sông Mulde và tìm cách hội quân với Tập đoàn quân Bắc tại đây. Nếu sau đó Hoàng Đế tiến quân về phía sông Mulde, thì Tập đoàn quân Böhmen sẽ có thời gian tiến vào Sachsen còn nếu Hoàng Đế từ Dresden trực tiếp chuyển hướng tấn công Tập đoàn quân Böhmen, thì Blücher sẽ ứng cứu cho Tập đoàn quân Böhmen qua Leipzig và Altenburg.

Trong mọi trường hợp, tình thế khó khăn buộc Blücher phải hành động hoàn toàn thống nhất với Thái tử Thụy Điển Thụy Điển. Để đạt được sự thống nhất này và đồng thời tìm hiểu quan điểm của Thái tử Thụy Điển Thụy Điển, Blücher do đó đã trình bày đánh giá của mình về tình hình trong một bản ghi nhớ, mà ông đã gửi cho Thái tử Thụy Điển Thụy Điển vào buổi tối ngày 5.Theo quan điểm của mình, Blücher đã cho tập đoàn quân tiến đến khu vực Düben vào ngày 5, nhưng vẫn chưa vượt sông Mulde. Chỉ có kỵ binh đã cố gắng tiến về Leipzig, nhưng đã bị các lực lượng đối phương vượt trội hơn ngăn cản tiến xa hơn tại Holzweißig và Mühlbeck. Tập đoàn quân Bắc vẫn ở lại Dessau, Aken và Roslau vào ngày 5 tháng 10. Quân đoàn Bülow đã vượt sông Elbe vào ngày này và đến phòng tuyến Hinsdorf-Jeßnitz, trong khi Sư đoàn Dobschütz thuộc Quân đoàn Tauentzien đã đến Dessau. Cossack tuần tra đến tận Delitzsch và Landsberg, từ đó họ đã đẩy lùi một phần của các sư đoàn kỵ binh Ney là Defrance và Fournier về Groß-Kyhna. Ngày 6 tháng 10, Quân đoàn Bülow tiến đến Jeßnitz và Bitterfeld, để đến tối ngày này, tiền quân của họ đã đóng quân từ Halle trên sông Saale đến Zschepplin trên sông Mulde.

Blücher vốn đã giữ nguyên vị trí trên sông Mulde từ ngày 7. Theo ông thì việc thận trọng đứng im trên sông Mulde không phù hợp với tính cách của ông. Xu hướng táo bạo của ông rõ ràng nghiêng về việc tiếp tục tiến quân và đánh chiếm Leipzig, sau đó hội quân với Tập đoàn quân Böhmen và cùng với tập đoàn quân này đánh một trận quyết định với Hoàng Đế, bất kể ông ta ở đâu. Tuy nhiên, Blücher lại không biết Tập đoàn quân Böhmen hiện đang ở đâu, nhưng ông cho rằng họ đang hành quân hết tốc lực về hướng Leipzig nên việc tiếp cận họ dường như là một nghĩa vụ mà ông tin rằng mình không được phép trốn tránh thêm một ngày nào nữa. Điều quan trọng nhất là Thái tử Thụy Điển Thụy Điển cũng phải tham gia vào cuộc tiến quân về Leipzig này cùng với Tập đoàn quân Schlesien.

Vào buổi tối ngày 6, một câu trả lời rất thân thiện đã được gửi đến từ Thái tử Thụy Điển Thụy Điển bổ sung cho bản ghi nhớ mà Blücher đã gửi trước đó một ngày. Trong đó, Thái tử Thụy Điển Thụy Điển hoàn toàn đồng ý với quan điểm của Blücher và đồng thời bày tỏ mong muốn được gặp Blücher  tại Mühlbeck để bàn bạc trực tiếp. Blücher đã tận dụng cuộc gặp diễn ra vào buổi tối ngày 7 này để thuyết phục Thái tử Thụy Điển Thụy Điển tham gia cuộc tiến quân về Leipzig, buộc Napoléon phải giao chiến trước khi ông ta tập hợp tất cả lực lượng và bằng cách này tạo điều kiện thuận lợi cho việc Tập đoàn quân Böhmen ra khỏi Erzgebirge và tiến vào Sachsen. Thái tử Thụy Điển Thụy Điển, ban đầu cho rằng họ sẽ hỗ trợ cho Tập đoàn quân Böhmen tốt hơn nếu ông dụ chủ lực của Pháp tiến quân về phía sông Mulde, cuối cùng đã đồng ý với quan điểm của Blücher, và vì cả hai bên đều tin rằng Napoléon vẫn còn ở Dresden, do đó cho rằng họ có thể đến Leipzig trước Hoàng Đế, nên họ đã nhất trí tiến quân về Leipzig vào ngày 8 tháng 10.

Tập đoàn quân Bắc đã tiến quân đến Radegast vào ngày 7 tháng 10 với các quân đoàn Wintzingerode và Stedingk để tiến lên ngang hàng với Quân đoàn Bülow, vốn đã đóng quân tại Jeßnitz. Vì Thái tử Thụy Điển Thụy Điển biết được rằng Sư đoàn Lannes của Pháp đã hành quân từ Magdeburg đến Calbe, có lẽ là để hướng về Aken, nên Sư đoàn Hirschfeld thuộc Quân đoàn Tauentzien đã được giao nhiệm vụ bảo vệ cây cầu ở đó. Phần còn lại của Quân đoàn Tauentzien vẫn ở lại Dessau và Roslau.

Tập đoàn quân Schlesien đã tiến đến phòng tuyến Mühlbeck-Pouch-Düben-Mockrehna với chủ lực của mình trong ngày 8.

Rạng sáng ngày 9.8 , tin tức đã ập đến rằng các đạo quân lớn của địch đang tập trung gần Wurzen, và Hoàng Đế cũng đã rời Dresden cùng Vệ binh Đế chế và đi theo con đường đến Leipzig. Điều này lại vẽ ra một bức tranh hoàn toàn khác về tình hình chiến dịch. Sự hiện diện gần đó của Napoléon cho thấy một đòn tấn công sắp xảy ra nhằm vào Tập đoàn quân Schlesien. Vì vậy, nếu Blücher tiếp tục cuộc hành quân về Leipzig đã hội quân tại Mühlbeck vào ngày 9, thì rõ ràng bây giờ ông sẽ chạm trán với lực lượng chủ lực của đối phương dưới sự chỉ huy trực tiếp của Hoàng Đế và có nguy cơ bị cuốn vào một trận chiến trước khi kịp hợp nhất với Tập đoàn quân Bắc. Do đó, việc hợp nhất với Tập đoàn quân Bắc là vô cùng cần thiết, dù là để cùng nhau chấp nhận một trận chiến, hay là để cố gắng tiếp cận Tập đoàn quân Böhmen dọc một con đường khác ngoài Leipzig; nhưng trong mọi trường hợp, sự nhất trí hoàn toàn với Thái tử Thụy Điển là cần thiết. Để đạt được điều này, Thiếu tá von Rühle đã được phái đến đại bản doanh của Thái tử Thụy Điển ở Zehbit (phía bắc Zörbig) vào buổi chiều. Thái tử Thụy Điển, người nhận thấy một cuộc giao tranh với Napoléon là vô cùng đáng ngại, cho rằng tốt nhất là cả hai tập đoàn quân nên quay trở lại hữu ngạn sông Elbe và phá hủy các cây cầu phía sau lưng, nếu Blücher không thích rút lui qua sông Saale và nếu cần thiết, giành lấy hữu ngạn sông Elbe tại Ferchland (phía dưới Magdeburg, nơi một cây cầu đã được dựng từ ngày 1 tháng 10). Blücher đã đồng ý với đề xuất này, mặc dù điều đó buộc ông phải từ bỏ toàn bộ các tuyến đường liên lạc phía sau của mình. Các mệnh lệnh vượt sông Mulde vào ngày hôm sau đã được ban hành ngay lập tức. Ông hy vọng thực hiện cuộc hành quân này mà không bị cản trở nhiều, vì theo các báo cáo nhận được, ông cho rằng Napoléon với phần lớn tập đoàn quân của mình đang hành quân về Leipzig.

Sau khi Rühle trở về từ chỗ Thái tử Thụy Điển, Blücher đã ra lệnh cho ba quân đoàn của mình hành quân sang phải về phía sông Mulde với Jeßnitz, Mühlbeck và Düben là mục tiêu hành quân cho ngày 9. Ông hoàn toàn không nghi ngờ rằng Napoléon đã hành quân về Düben, vì kỵ binh Nga đã hoàn toàn đã thất bại trong ngày hôm đó. Trong khi ở Düben chờ đợi Cụm Cụm Cụm quân đoàn Sacken tiến quân từ Mockrehna đến trước khi rút khỏi đó cùng với Cụm Cụm quân đoàn Langeron, ông được báo cáo rằng địch đang hành quân từ Wurzen về Eilenburg trên hữu ngạn sông Mulde và một đội hình của địch cũng đang tiến theo hướng này trên tả ngạn. Tin rằng đội hình đang tiến trên hữu ngạn sông Mulde là Cụm Cụm Cụm quân đoàn Sacken, cuộc rút quân của ông càng bị trì hoãn thêm, và vì vậy, ông và Cụm Cụm quân đoàn Langeron vừa mới rời khỏi thành phố được một giờ thì kỵ binh Pháp đã tiến vào. Quân đoàn Kapzewitsch buộc phải chiếm một vị trí chiến đấu để yểm trợ cuộc rút quân của Langeron.

Như vậy, Langeron cùng với HQ đã thoát khỏi một cuộc tấn công chỉ trong đường tơ kẽ tóc, còn Sacken đã bị cắt đường hành quân đến Düben do cuộc tiến quân của đối phương. Chỉ nhờ sự thiếu cảnh giác của kỵ binh Pháp và địa hình rừng rậm rạp mà ông mới có thể đến Schlöna vào tối muộn, cách Bitterfeld 13 km về phía đông bắc, bằng con đường vòng xa xôi qua Wildenhain, Pressel và Söllichau, và từ đây qua Raguhn để hội quân lại với tập đoàn quân.

Trong khi đó, Yorck đã đến Jeßnitz, vượt sông Mulde tại đây và gần Raguhn theo lệnh của Blücher ngay trong đêm và đóng quân gần Bobbau, sát cạnh Quân đoàn Bülow. Cụm quân đoàn Langeron tiếp tục cuộc hành quân đến Jeßnitz trong đêm và theo sau sang bờ bên kia sông Mulde vào sáng sớm ngày 10.

Như vậy, Tập đoàn quân Schlesien đã may mắn thoát khỏi tình thế vô cùng nguy hiểm mà sự bất cẩn của kỵ binh Nga đã gây ra vào ngày 9.8.

Vào tối ngày 9, Blücher đã thông báo chi tiết cho Thái tử Thụy Điển, người cũng đã đứng chân tại Radegast và Zörbig trong ngày hôm đó, về các động thái của đối phương và đề xuất rằng Tập đoàn quân Bắc nên chờ đợi các biện pháp tiếp theo của đối phương trong một vị trí nằm giữa Halle và Leipzig, còn Tập đoàn quân Schlesien trong một vị trí phía sau Zörbig. Đề xuất này dựa trên hy vọng thuyết phục Thái tử Thụy Điển bắt đầu cuộc hành quân rút lui về phía sau sông Saale cùng với Tập đoàn quân Schlesien, để sau đó, được con sông này che chắn, thực hiện việc hợp nhất với Tập đoàn quân Böhmen. Thái tử Thụy Điển đã từ chối đề xuất này. Mong muốn của ông là Tập đoàn quân Schlesien nên chiếm một vị trí giữa Jeßnitz, Bitterfeld và Zörbig, tức là với cánh trái quay trở lại sông Mulde, và lời đề nghị của ông là cho dựng cầu tại Alsleben và Bernburg cho thấy rõ ràng rằng ông không có ý định rời khỏi khu vực lân cận sông Elbe và rằng, để ở gần các cầu Elbe của mình hơn, ông muốn Tập đoàn quân Bắc ở tuyến thứ hai. Blücher chỉ miễn cưỡng đồng ý với việc bố trí quân như vậy và ít nhất cũng hài lòng vì Quân đoàn Bülow cũng được chỉ định đến Zörbig, vì ông hy vọng có thể nhờ vào sự giúp đỡ của quân đoàn này trong trường hợp xấu nhất.

Vào 1 giờ chiều, các Quân đoàn Yorck và Langeron được lệnh hành quân đến Zörbig, trong khi Cụm Cụm quân đoàn Sacken nên vượt sông Mulde và chiếm vị trí gần Jeßnitz và Raguhn. Trên đường hành quân đến Zörbig, Blücher đã gặp Thái tử Thụy Điển ở Zehbit. Cuộc trò chuyện lần này diễn ra ít thân thiện hơn. Thái tử Thụy Điển cho rằng Napoléon có ý định tấn công Tập đoàn quân Schlesien và Tập đoàn quân Bắc với ưu thế vượt trội, đánh bại họ và sau đó mới tìm kiếm Tập đoàn quân Böhmen. Nếu không muốn bị đánh bại, ông phải lập tức vượt sông Saale và chiếm một vị trí vững chắc gần Bernburg. Blücher không đồng ý. Đối với ông, điều quan trọng nhất là tiếp cận Tập đoàn quân Böhmen. Liên hợp với Tập đoàn quân Bắc, ông tin rằng trong một vị trí gần Halle hơn nhiều so với Tập đoàn quân Böhmen, ông cũng có thể chấp nhận một trận chiến hoặc rút lui khỏi vị trí này qua sông Saale trước Hoàng Đế. Thái tử Thụy Điển không thể bị thuyết phục về điều này, vì ông thấy vị trí gần Halle, vị trí mà ông đã biết rõ từ năm 1806, là quá mạo hiểm. Cuối cùng, Blücher đồng ý vượt sông Saale tại Wettin, nơi Thái tử Thụy Điển hứa sẽ cho dựng một cây cầu.

Cuộc trò chuyện lần này đã để lại một âm hưởng không mấy hài hòa giữa hai vị chỉ huy và khiến Blücher nghi ngờ ý định của Thái tử Thụy Điển đến mức sau khi Quân đoàn III Phổ tiến vào Zörbig, ông đã phái Müffling đến chỗ Tướng von Bülow để thông báo cho tướng này về hành vi của Thái tử Thụy Điển và tranh thủ sự ủng hộ của ông trong việc cùng Quân đoàn của mình gia nhập Tập đoàn quân Schlesien, nếu Thái tử Thụy Điển không thể bị thuyết phục tham gia vào trận chiến sắp tới. Bülow không chỉ đồng ý mà thậm chí còn bày tỏ sự tin chắc rằng trong trường hợp đó, Wintzingerode cũng sẽ hành động theo tinh thần của Sa Hoàng và hỗ trợ Blücher. Một cuộc gặp riêng giữa Blücher và Bülow đã củng cố liên minh bí mật này.

Trong khi Tập đoàn quân Schlesien đã đến các vị trí được lệnh vào buổi tối, Tập đoàn quân Bắc trong ngày hôm đó đã đến khu vực giữa Halle, Gröbzig và Radegast với Quân đoàn Bülow đến Zörbig và Queß, với quân Nga và quân Thụy Điển. Quân đoàn Tauentzien đã được Thái tử Thụy Điển phái trở lại Dessau và ra lệnh, nếu địch tiến quân về phía sông Mulde, thì đốt các cây cầu tại Raguhn và Dessau, nhưng phải bảo vệ đầu cầu tại Rosslau đến cùng. Ngược lại, nếu địch tiến quân trên hữu ngạn sông Elbe, thì ông ta nên bỏ Rosslau, đưa cầu phao từ đó đến Aken và, sau khi triệu tập các sư đoàn Thümen và Hirschfeld đóng trên hữu ngạn sông Elbe thì sẽ hành động tùy theo tình hình.

Sáng ngày 11, Tập đoàn quân Schlesien đã hành quân từ các vị trí của mình tại Zörbig và Raguhn đến Wettin để vượt sông Saale tại đây trên cây cầu mà Thái tử Thụy Điển đã hứa sẽ dựng và cây cầu này đáng lẽ phải hoàn thành vào lúc bình minh. Khi một sĩ quan được phái đi trước mang tin báo về rằng không có cây cầu nào được dựng tại Wettin và cũng không có sự chuẩn bị nào cho việc này, Blücher, người nghi ngờ - có lẽ là không đúng - ý đồ xảo quyệt của Thái tử Thụy Điển là kéo ông đến Hạ Saale, đã đưa ra quyết định nhanh chóng là chuyển hướng đến Halle và thực hiện việc vượt sông tại đây. Ông đã ngay lập tức ban hành các mệnh lệnh cần thiết, các mệnh lệnh này đã bắt tập đoàn quân phải thực hiện một cuộc hành quân dài năm dặm. Cụm Cụm quân đoàn Langeron vượt sông Saale đầu tiên và đóng quân phía trên thành phố; Quân đoàn Yorck buộc phải chờ đợi Langeron vượt sông, chỉ đến được tả ngạn sông vào đêm khuya và đóng quân trong và xung quanh Halle; Sacken chỉ đến Wettin ngay trước nửa đêm, và kỵ binh của ông thậm chí còn đến vào sáng ngày hôm sau và đóng quân tại đây trên hữu ngạn sông Saale. Về các sự kiện trong ngày, Blücher đã gửi một báo cáo chi tiết cho Sa Hoàng vào buổi tối, báo cáo kết thúc bằng những lời sau:

„Ngày mai tôi sẽ cho Quân đoàn St. Priest chiếm Merseburg. Sau khi đó, khi đường liên lạc với Đại quân đã được đảm bảo tốt, tôi xin chờ đợi mệnh lệnh của Bệ hạ. Ba tập đoàn quân hiện đang đứng gần nhau đến mức một đòn tấn công đồng thời vào điểm mà địch đã tập trung lực lượng của mình có thể diễn ra."

Về phía Tập đoàn quân Bắc, vào ngày 11 tháng 10, quân Thụy Điển và Nga đã vượt sông Saale tại Alsleben và Rothenburg và dừng lại tại đây. Chỉ có Quân đoàn Bülow là vẫn ở lại hữu ngạn sông Saale gần Rothenburg, vì việc vượt sông của quân Nga tại đó đã bị trì hoãn đáng kể. Tauentzien đóng quân tại Dessau trên cả hai bờ sông Mulde và tự bảo vệ mình bằng các đội tiền quân trên tuyến Oranienbaum-Wörlit.

 

Tại HQ của Napoléon. Hoàng Đế đã biết được ở Eilenburg về cuộc rút quân của Tập đoàn quân Schlesien khỏi khu vực Düben. Ông vô cùng thất vọng vì hy vọng đánh bại đối phương một cách quyết định của mình đã tan thành mây khói. Để xác định vị trí của Blücher, có lẽ vẫn bắt kịp ông ta và dù sao vẫn buộc ông ta phải giao chiến, hoặc ít nhất là cắt đường Cụm Cụm quân đoàn Sacken, Hoàng Đế đã điều động toàn bộ tập đoàn quân đến Düben vào sáng sớm ngày 10. Thống chế Ney với Quân đoàn Reynier, Sư đoàn Dombrowski và kỵ binh mạnh đã đảm nhận việc truy đuổi Sacken, lực lượng mà ông cho rằng đang rút lui về Kemberg hoặc Wartenburg; Thống chế Macdonald với Quân đoàn XI và kỵ binh mạnh nên theo dấu Langeron, lực lượng mà ông tin là đã rút về Dessau.

Trong khi lực lượng đang hành quân, Hoàng Đế vẫn ở lại Eilenburg. Sự không chắc chắn về ý định của đối phương và việc thiếu thông tin khiến ông vô cùng lo lắng. Khoảng giữa trưa, ông đến Düben, nơi cuối cùng ông cũng nhận được tin tức từ nhiều phía, nhưng chúng không hẳn là đáng mừng. Tập đoàn quân Böhmen của liên minh, như Murat đã báo cáo, đang hành quân về Leipzig, việc Quốc vương rút khỏi vị trí của mình ở phía nam thành phố là không thể tránh khỏi; còn các Quân đoàn Yorck và Langeron đã vượt sông Mulde và Sacken cũng đã vượt sông này gần Raguhn.

Dựa trên những tin tức này, vào lúc 4 giờ chiều, cuộc hành quân của tập đoàn quân đã được lệnh tiến đến phòng tuyến Gräfenhainichen-Kemberg-Wittenberg, vì Hoàng Đế vẫn hy vọng sẽ giao chiến với Tập đoàn quân Schlesien vào ngày hôm sau. Nhưng do các cuộc hành quân và gian khổ quá mức trong những ngày gần đây, chỉ một phần lực lượng mới có thể đến được các mục tiêu hành quân đã được lệnh. Quân đoàn Bertrand chỉ đến được Schmiedeberg một cách khó khăn sau nửa đêm, Macdonald đến Falkenberg và Wildenhain, và từ Sư đoàn Dombrowski chỉ có một phân đội nhỏ đến Wittenberg.

Các báo cáo nhận được vào đêm ngày 11 tháng 10 tại đại bản doanh Pháp đã không thể làm rõ tình hình đối phương cho Hoàng Đế. Chúng cho biết rằng Cụm quân đoàn Sacken đã đến được tả ngạn sông Mulde và đã hướng về Dessau. Từ đó, ông kết luận rằng các đơn vị còn lại của Tập đoàn quân Schlesien và Tập đoàn quân Bắc cũng nên ở Dessau. Nhưng bằng một cuộc hành quân đến Dessau, cả hai đối phương khó có thể bị buộc phải giao chiến; theo ý kiến của Hoàng Đế, trận chiến này có thể dễ dàng hơn đạt được qua Wittenberg, vì việc đe dọa các tuyến đường liên lạc phía sau chắc chắn sẽ buộc cả hai chỉ huy tập đoàn liên minh phải sơ tán tả ngạn sông Elbe. Việc sau đó họ có cố thủ trên sông Elbe hay rút lui về Berlin là không quan trọng; trong mọi trường hợp, họ có thể bị tiếp cận, tiêu diệt hoặc ít nhất là bị vô hiệu hóa trong một khoảng thời gian dài. Để thực hiện kế hoạch này, Hoàng Đế đã ra lệnh cho các Quân đoàn Reynier, Bertrand và Macdonald, Sư đoàn Dombrowski và Quân đoàn kỵ binh Sebastiani vượt sông Elbe tại Wittenberg vào ngày 12, buộc quân đoàn vây hãm của Thümen phải rút lui và sau đó hướng về cầu Roslau. Các hoạt động này sẽ được các Quân đoàn Souham tại Gräfenhainichen và Marmont tại Düben yểm trợ ở sườn trái, trong khi kỵ binh của cả hai quân đoàn nên giữ liên lạc thông suốt với Leipzig và Vệ binh Đế chế nên sẵn sàng tại Kemberg để can thiệp khi cần thiết ở cả hai hướng. Nhưng ngay cả trong ngày hôm nay, lực lượng vốn đã kiệt sức vì thiếu lương thực và các cuộc hành quân dài ngày trên những con đường lầy lội cũng không thể đáp ứng được yêu cầu của Hoàng Đế; chỉ có Sư đoàn Dombrowski, Quân đoàn Reynier và một phần kỵ binh là đến được Wittenberg, và ngay cả những đơn vị này cũng đến muộn hơn đáng kể so với dự kiến của Hoàng Đế. Mãi đến tối muộn, Dombrowski và Reynier mới vượt sông Elbe, triển khai đội hình tấn công các chiến hào của quân Phổ và buộc Thümen phải rút lui về Coswig. Những báo cáo mà Hoàng Đế nhận được trong ngày không giúp làm sáng tỏ ý đồ của đối phương. Vào buổi tối, tin tức từ Murat báo về rằng Schwarzenberg đang rút lui. Vì vậy, dường như không có gì phải lo sợ từ hướng này nhưng tình hình ở hướng kia càng trở nên không rõ ràng hơn. Tại Dessau - cuối cùng ông cũng biết chắc chắn - không có Tập đoàn quân Bắc cũng như Tập đoàn quân Schlesien. Nhưng họ đã đi đâu? Tin đồn lan truyền về việc Tập đoàn quân Bắc rút lui qua sông Elbe, về cuộc hành quân của Blücher đến Halle, điều này đã cho thấy có đang có ý định hợp nhất với chủ lực của địch . Nhưng đối phương cũng được cho là đã hành quân về Cöthen và Radegast. Với mớ tin tức hỗn loạn và mâu thuẫn lẫn nhau này thì không thể đưa ra được những quyết định chắc chắn. Ngay cả những báo cáo đến trong đêm từ ngày 11 đến ngày 12 tháng 10 cũng không thể xóa bỏ sự bất an của Napoléon về vị trí và ý định của đối phương. Ông biết được cuộc hành quân của Tập đoàn quân Schlesien theo hướng Halle, nhưng dường như ông đã bị đánh lừa bởi các đơn vị thuộc Quân đoàn Tauentzien đóng tại Dessau, nên ông cho rằng Tập đoàn quân Bắc đang ở Dessau với toàn bộ hoặc một phần lực lượng. Vì vậy, ông quyết định tấn công lực lượng gần Dessau vào sáng ngày 12, nhưng chỉ đứng từ xa để quan sát lực lượng tại Halle và cho phép đánh chặn hậu đối phương này nếu họ tiến về Leipzig.

Tập đoàn quân Berlin của Ney do đó đã tiến quân thành nhiều đội hình về hướng Wörlitz và Dessau vào sáng sớm ngày 12 tháng 10. Tại Pötnik, Sư đoàn Delmas đi đầu Quân đoàn Souham đã chạm trán với tiền quân của Quân đoàn Tauentzien, lực lượng lẽ ra phải quay trở lại Dessau từ Oranienbaum và Wörlitz ngày hôm nay. Cách triển khai giao tranh khéo léo của quân Pháp, và hành động vội vã thiếu kế hoạch của quân Phổ cùng sự hoảng loạn lan rộng trong hàng ngũ lực lượng Landwehr đã mang lại cho Sư đoàn Delmas một chiến thắng dễ dàng. Trong cuộc tháo chạy hỗn loạn, tàn quân đã tràn về Dessau, nơi họ lại bị tấn công và bị đánh bật khỏi thành phố với tổn thất nặng nề.

Sư đoàn Fournier tiến quân về Wörlitz chỉ còn chạm trán với FreiQuân đoàn của Fiegner,có biệt danh là Binh đoàn Báo thù (Legion der Rache) , bởi vì lực lượng này đã tàn nhẫn giết chết tất cả tù binh Pháp và Ba Lan rơi vào tay họ. Bị quân Pháp bao vây từ mọi phía, lực lượng này chỉ còn đường rút lui qua sông Elbe, khi ấy thì phần lớn binh sĩ đã chết đuối, số còn lại bị bắt làm tù binh. Sau trận giao tranh này thì quân đoàn của Fiegner đã hoàn toàn bị đánh tan và buộc phải giải thể  .

Reynier cũng đã chiến đấu thành công trong ngày hôm đó. Ông đã rời Wittenberg vào buổi sáng và tiến đến Coswig và xác định rằng Sư đoàn Thümen đã hành quân đến Dessau, nhưng đã dừng lại sau Griebo, để chấp nhận một trận chiến ở đó. Trên thực tế, Thümen cũng quyết tâm kháng cự trước một cuộc tấn công, nhưng ưu thế vượt trội của đối phương đã buộc ông phải rút lui, nhưng cuộc rút lui đã diễn ra trong trật tự . Sư đoàn đã đến được Roslau vào buổi tối với tổn thất chỉ khoảng 500 người.

Quân đoàn Reynier và Sư đoàn Dombrowski đã ở lại qua đêm từ ngày 12 đến ngày 13 trên con đường đến Roslau giữa Kliecken và Griebo. Tất cả các lực lượng Pháp còn lại đã đạt được mục tiêu của mình mà không gặp khó khăn đáng kể  nào. Vào buổi tối ngày 12, Quân đoàn Macdonald đã tiến tới Wittenberg , Ney tại Dessau, Marmont tại Delitzsch, Vệ binh Đế chế và Quân đoàn kỵ binh Latour-Maubourg giữa Kemberg và Düben.

Bản thân Hoàng Đế vẫn ở lại Düben vào ngày 12 tháng 10 và đã sốt ruột chờ đợi tin tức tại đây. Ông đã nhận được một số báo cáo vào buổi sáng, những báo cáo này đã thay đổi đáng kể tình hình. Báo cáo từ Murat cho biết rằng Tập đoàn quân Böhmen không hề rút lui mà vẫn đang tiếp tục cuộc hành quân về Leipzig, rằng bản thân ông đã lùi về Cröbern và có lẽ sẽ phải tiếp tục lùi xa hơn nữa. Nếu Napoléon có lẽ đã quyết tâm từ trước là hủy bỏ các hoạt động của mình ở bên kia sông Elbe, thì tin tức này đã khiến ông tính đến việc tập hợp toàn bộ tập đoàn quân của mình gần Leipzig. Trong mọi trường hợp, đối với chiến dịch chống lại hai đầu cầu Roslau và Aken, vốn là những mục tiêu mà ông vẫn muốn chiếm được, thì các Quân đoàn Reynier, Macdonald và Souham là đủ. Phần lớn lực lượng của ông có thể bắt đầu hành quân về Leipzig ngay từ bây giờ. Theo đó, vào sáng sớm ngày 13, Vệ binh Đế chế, Quân đoàn Bertrand và Quân đoàn kỵ binh Latour-Maubourg đã được lệnh hành quân đến Düben, Ney và Macdonald được chỉ thị hỗ trợ Reynier, người nên tiếp tục tiến quân về Aken, từ tả ngạn sông Elbe, nhưng nên lập tức hành quân về Düben ngay khi Reynier không cần họ nữa. Bản thân Reynier cũng nên lập tức quay trở lại Wittenberg sau khi phá hủy cầu Aken và từ đó hành quân về Leipzig. Khi đến Roslau, Tướng Reynier đã thấy đối phương đã hành quân về Zerbst và Aken và đã đuổi theo họ bằng kỵ binh của mình. Lực lượng kỵ binh này phát hiện ra rằng nửa cầu bên hữu ngạn đã được dỡ bỏ về tả ngạn và tả ngạn dường như chỉ được bố trí phòng thủ yếu ớt. Nhưng vì việc bắn phá đối phương từ hữu ngạn sông hầu như không thành công, nên Reynier đã bắt đầu hành quân trở lại Wittenberg vào lúc 4 giờ chiều theo lệnh của Napoléon. Macdonald, người đã sẵn sàng hỗ trợ Reynier gần Wittenberg cho đến giữa trưa, đã hành quân về Kemberg sớm hơn.

Thống chế Ney đã chiếm được các công sự tại Roslau vào sáng sớm ngày 13, nhưng không còn thấy cây cầu ở đó nữa. Vào khoảng 11 giờ sáng, lệnh đã đến chỗ ông là hỗ trợ cuộc tấn công của Reynier vào Aken từ tả ngạn sông Elbe. Ông đã phái Sư đoàn kỵ binh Fournier và một lữ đoàn bộ binh đến đầu cầu, nhưng những đơn vị này không thể làm gì được trước các công sự được bố trí phòng thủ tốt và do đó đã quay trở lại sau một cuộc tấn công vô ích.

Vào buổi tối, các báo cáo về những sự kiện này đã đến chỗ Hoàng Đế. Từ đó, ông suy ra rằng chỉ một phần của Tập đoàn quân Bắc có thể đã quay trở lại qua sông Elbe.

Vào sáng sớm ngày 14, Napoléon đã ra lệnh cho toàn bộ tập đoàn quân hành quân để hợp nhất tại Leipzig . Họ sẽ vượt sông Mulde tại Düben . Nhưng sự mệt mỏi của lực lượng do những nỗ lực quá mức trong những ngày gần đây là quá lớn và các con đường lầy lội do mưa dai dẳng và bất chấp các sắp xếp cẩn thận nhất đã khiến tình trạng đình trệ là không thể tránh khỏi, và do đó, các mục tiêu hành quân chỉ đạt được một phần. Do đó, phần lớn Đại quân Pháp vẫn còn dàn trải ở phía bắc Leipzig đến Düben và Kemberg vào buổi tối ngày 14, và chỉ được hợp nhất trong và xung quanh Leipzig vào buổi tối ngày 15; ngay cả sau đó, vẫn còn thiếu Quân đoàn Reynier và Sư đoàn Dombrowski, các lực lượng này chỉ khởi hành từ Kemberg và Pratau vào sáng ngày 15 .

 

Vào ngày 12 tháng 10, Tập đoàn quân Schlesien, bao gồm các Cụm quân đoàn Langeron và Yorck, tiếp tục đóng quân tại Halle, trong khi Cụm quân đoàn Sacken tiến xa hơn đến Deutschenthal sau khi vượt sông Saale tại Wettin do đường xá khó khăn. Quân đoàn St. Priest đã tiến đến Merseburg và thiết lập liên lạc với kỵ binh thuộc Đại quân của liên minh. Blücher nhận được tin tức tình báo ít ỏi về quân Pháp, chủ yếu xoay quanh việc Leipzig chỉ được phòng thủ nhẹ và phần lớn Tập đoàn quân Pháp cùng với Napoléon đã hướng về sông Elbe. Để xác minh tin tức này, Blücher dự định trinh sát Leipzig và nhận được thư của Thái tử xác nhận sự hiện diện của khoảng từ 25.000 đến 30.000 quân Pháp giữa Düben và Wittenberg, cùng với việc Napoléon được cho là ở Düben. Blücher suy đoán rằng Napoléon có thể đang rút lui về Magdeburg và Murat có thể cũng sẽ phải rời Leipzig. Do đó, Yorck nhận lệnh trinh sát Leipzig vào ngày 13, với khả năng đánh chiếm thành phố nếu phòng thủ yếu.

Tuy nhiên, Thái tử lại có quyết định khác, vì ông tin rằng Napoléon đang cố gắng giành quyền kiểm soát các điểm vượt sông Elbe để tiến đánh Berlin. Do đó, Thái tử ra lệnh tập hợp Tập đoàn quân Bắc tại Cöthen vào ngày 13, và các tin tức tình báo dường như củng cố quan điểm này. Vì lo ngại Murat sẽ rút về Mulde, Tập đoàn quân Schlesien đã hủy bỏ kế hoạch tấn công Leipzig của Yorck để sẵn sàng truy kích Murat, thay vào đó chỉ tiến hành trinh sát dọc tiền phương. Báo cáo trinh sát cho thấy Murat và Thống chế Marmont vẫn ở Leipzig, trong khi Napoléon ở Düben, và Quân đoàn Marmont đã di chuyển về Taucha và Eilenburg.

Bất ngờ, hai bức thư khác của Thái tử đến đã hoàn toàn đảo ngược tình hình. Thái tử thông báo rằng bốn quân đoàn Pháp dưới quyền chỉ huy của Napoléon đang tiến về Wittenberg và ông sẽ rút về hữu ngạn sông Elbe qua Aken, đồng thời yêu cầu Blücher hợp nhất với mình. Thái tử lo sợ Napoléon đang hướng đến Magdeburg hoặc Berlin, thậm chí cắt đứt liên lạc về Thụy Điển.

Blücher (Bộ Tổng Tham mưu) thì lại có cách nhìn khác. Ông nghi ngờ việc Napoléon từ bỏ Leipzig khi Murat vẫn ở đó và cho rằng động thái của Napoléon về phía Elbe có thể chỉ là nghi binh. Blücher quyết định chờ đợi thêm kết quả trinh sát nhưng sẵn sàng hành quân sang trái nếu Napoléon rút quân khỏi Leipzig. Trong thư trả lời Thái tử, Blücher nhắc lại rằng việc vượt sông Saale là theo yêu cầu của Thái tử, và việc Tập đoàn quân Bắc rút lui qua sông Elbe đã khiến ông bị cắt đứt liên lạc, buộc ông phải liên kết với Tập đoàn quân Böhmen. Ông khéo léo tránh đề cập đến việc dưới quyền Thái tử. Các tin tức sau đó và thư của Công tước Schwarzenberg khẳng định Blücher đã đúng.

Trong khi đó, Tướng Tauentzien thì hoảng loạn trước sự tiến quân của Pháp, tin rằng Napoléon muốn chiếm Berlin. Tauentzien đã vội vã rút lui về hữu ngạn sông Elbe, phá hủy cầu Roslau và hành quân về Berlin, bỏ lại Roslau. Đến ngày 14, Tập đoàn quân Schlesien nhận được xác nhận rằng toàn bộ Đại quân của Pháp đang hành quân về Leipzig và Napoléon cũng sẽ đến đó. Khoảng 15.000 đến 20.000 quân Pháp đã tiến về Halle để yểm trợ sườn, ngăn chặn sự hợp nhất của liên minh. Blücher lập tức thông báo cho Thái tử, yêu cầu tấn công mọi lực lượng địch còn lại trên tả ngạn sông Mulde và tiến về Leipzig qua Bitterfeld. Thái tử, ban đầu tin vào cuộc tấn công lớn của Napoléon về phía bắc, đã thay đổi quan điểm và đồng ý hợp nhất với Tập đoàn quân Schlesien tại Halle vào ngày 15, đồng thời phái kỵ binh về Eilenburg.

Tuy nhiên, Blücher không hài lòng với việc hợp nhất tại Halle, cho rằng điều đó không phù hợp với tình hình và cho rằng Thái tử có thể muốn giữ vị trí ở tuyến thứ hai để hạn chế tham gia trận chiến quyết định. Blücher khẩn thiết yêu cầu Thái tử không hành quân về Halle, nhưng Thái tử vẫn giữ vững quyết định của mình . Sáng ngày 15, Blücher nhận được chỉ thị từ Bộ Tư lệnh Tập đoàn quân Böhmen, theo đó hành động của Tập đoàn quân Schlesien phụ thuộc vào Tập đoàn quân Bắc. Nếu có thể thì dựa vào sự tham gia của Tập đoàn quân Bắc trong trận chiến, Tập đoàn quân Schlesien sẽ tiến về Leipzig qua Schkeuditz; ngược lại, nếu Thái tử rút lui qua sông Elbe, Blücher sẽ tiến về Leipzig trên tả ngạn sông Elster và phối hợp với Cụm quân đoàn Gyulai. Vì Tập đoàn quân Bắc đang trên đường đến Halle, Blücher tin rằng có thể cậy vào sự tham gia của họ và ra lệnh cho Tập đoàn quân Schlesien hành quân về Schkeuditz vào lúc 11 giờ sáng.

Trong khi đó, Tập đoàn quân Bắc cũng đã bắt đầu hành quân về Halle vào sáng ngày 15 và nhận được chỉ thị của Schwarzenberg về cuộc tấn công phối hợp vào Leipzig. Theo đó, Tập đoàn quân Bắc sẽ nghi binh ở sông Mulde vào sáng ngày 16 và yểm trợ cánh trái của Blücher. Tuy nhiên, mệnh lệnh này không thể thực hiện được nếu hành quân về Halle, vì sông Mulde cách Halle 40 đến 45 km. Thái tử lo ngại sườn trái bị đe dọa bởi tin tức sai lệch về quân Pháp giữa Düben và Dessau nên đã cho quân dừng lại giữa Wettin và Petersberg, loại bỏ hoàn toàn khả năng hợp tác trong trận chiến quyết định sắp tới. Tuy nhiên, phần lớn Tập đoàn quân Schlesien đã đến khu vực Schkeuditz theo chỉ thị của Schwarzenberg, Cụm quân đoàn Sacken đóng vai trò dự bị tại Groß-Kugel và St. Priest tiến từ Merseburg về Günthersdorf.


13.Liebertwolkwitz

Dựa trong hồi ký của Napoléon, có lập luận cho rằng Hoàng đế ban đầu không có ý định tập hợp Đại quân tại Leipzig, mà đúng hơn là ấp ủ một kế hoạch khổng lồ, từ bỏ toàn bộ chiến trường Sachsen trước đó và nhường lại cho đối phương, vượt sông Elbe với toàn bộ  Đại quân, tiến quân về Berlin và sông Oder, giải vây các pháo đài bị bao vây và tiếp tục chiến tranh với mặt trước hướng về phía nam và phía tây trong tình thế bị cắt đứt liên lạc về Pháp. Việc thực hiện kế hoạch này đã bị cản trở một phần bởi sự phản bội của Bayern, và phần khác bởi sự phản đối của các Thống chế của ông.

Tuy nhiên Napoléon chỉ xem xét nó trong một phạm vi rất nhỏ , bởi đây chỉ là một ý tưởng thoáng qua và nhanh chóng bị từ bỏ . Sự phản bội của Bayern không thể có bất kỳ ảnh hưởng nào đến quyết định của ông, vì vào ngày 13 ông vẫn chưa nhận được tin tức về việc ký kết hiệp ước Ried. Nhưng điều ít có khả năng xảy ra nhất là sự phản đối của các Thống chế có thể đã ngăn cản Hoàng đế thực hiện kế hoạch này, vì có thể chứng minh một cách chắc chắn rằng trong những ngày quyết định ở Düben, ngoài Berthier ra, không có Thống chế nào có mặt bên cạnh Napoléon .

Quyết định đánh một trận lớn tại Leipzig của Napoléon là điều dễ hiểu , bởi từ ngày đầu tiên kể từ khi kết thúc hòa ước thì , ông đã tìm kiếm trận chiến quyết định nhưng địch thì lại liên tục chạy trốn và Leipzig chính là cơ hội để đánh trận khi có vẻ như liên minh sắp tập hợp toàn bộ 3 tập đoàn quân mạnh nhất của họ tại đây .

 Tuy nhiên, ông vẫn chưa được thông tin đầy đủ về vị trí và sức mạnh của đối phương, nhưng tinh thần lạc quan của ông nuôi hy vọng sẽ đánh thắng địch, ngay cả khi ông phải tách một số lực lượng để quan sát Blücher. Ông hy vọng có thể bù đắp những gì còn thiếu bằng sự vượt trội về tài chỉ huy của mình.

Như vậy, quyết định hành quân đến Leipzig là hoàn toàn có thể giải thích được về mặt tâm lý và cũng hoàn toàn hợp lý về mặt quân sự. Sai lầm duy nhất là Hoàng đế đã không triệu tập tất cả các đội hình của Pháp nằm trong tầm với, các Quân đoàn St. Cyr và Lobau cũng như quân đồn trú Magdeburg, Torgau và Wittenberg. Chúng ta sẽ thấy cán cân chiến thắng trong trận chiến quyết định số phận châu Âu vào ngày 16 tháng 10 đã dao động lên xuống như thế nào nhờ năng lực chỉ huy yếu kém của liên minh và sự thận trọng quá mức của Thái tử, và Napoléon chỉ cần có thêm khoảng 50.000 quân thì rất có thể chiến thắng lại thuộc về Pháp .

Vào ngày 26 tháng 9, Tập đoàn quân Ba Lan dưới quyền Bennigsen cuối cùng đã đến doanh trại Teplitz . Tập đoàn quân này có sức mạnh 42.000 bộ binh, 11.500 kỵ binh và 198 khẩu pháo. Từ ngày 27 trở đi, tập đoàn quân này dần dần tập hợp trong khu vực Leitmeritz-Aussig-Gradlitz, để tại đây cùng với  đoàn Colloredo và Sư đoàn Bubna đảm nhận việc bảo vệ Böhmen. Đồng thời, cuộc hành quân lớn sang trái của Tập đoàn quân Böhmen bắt đầu, cuộc hành quân này phải được bắt đầu bằng một cuộc chuyển quân sang trái rất tốn thời gian trên con đường Teplitz-Brür-Komotau-Sebastiansberg. Trong một chỉ thị của Schwarzenberg ngày 29, tuyến Zwickau-Marienberg đã được chỉ định là đích của cuộc hành quân .

Báo cáo đến vào ngày 1 tháng 10 cho rằng Napoléon đang hành quân từ Dresden về Leipzig đã dẫn đến quyết định hành quân tới tuyến Chemnitz-Zwickau. Một chỉ thị mới từ ngày 3 tháng 10 đã chỉ định các Quân đoàn Wittgenstein và Kleist đến Zwickau, Quân đoàn Klenau từ Marienberg đến Chemnitz, trong khi các Quân đoàn Merveldt và Hessen-Homburg nên tập hợp gần Marienberg và Vệ binh  Nga-Phổ và quân dự bị tiến về Komotau. Các đội Cossack-Streifkoprs của Platow, Mensdorff và Thielmann nên che chắn mặt trước và duy trì liên lạc giữa Wittgenstein và Klenau. Cuộc hành quân được lệnh bắt đầu vào ngày 4 tháng 10.

Về phía Pháp, vào ngày 2 tháng 10, Quốc vương xứ Napoli đã tiếp nhận quyền chỉ huy tối cao đối với tất cả các lực lượng tiền quân của Pháp . Vào thời điểm này, Quân đoàn Victor đóng tại Freiberg, Lauriston tại Mittweida, Poniatowski tại Frohburg. Tổng cộng, Murat có khoảng 33.000 bộ binh, 7.200 kỵ binh và 156 khẩu pháo.

Ngay từ ngày 1 tháng 10, Napoléon đã chỉ ra Chemnitz cho Quốc vương là địa điểm mà ông chắc chắn có thể nhận được thông tin chính xác hơn về đối phương và ý định của họ, và vào tối ngày 2, ông đã ra lệnh cho Thống chế Victor tiến quân về Chemnitz. Nếu nơi này chỉ được bố trí phòng thủ yếu ớt, thì ông ta nên đánh đuổi đối phương và hội quân với Lauriston; nhưng nếu đối phương có một tập đoàn quân ở đó, thì ông ta nên hành động phối hợp với Lauriston và Poniatowski, không để hở sườn và luôn thông báo tình hình cho  Hoàng Đế.

Về phía Tập đoàn quân Böhmen , phần lớn Cụm quân đoàn Wittgenstein đã đến Annaberg vào tối ngày 3, tiền quân của ông ta dưới quyền Pahlen đã chiếm đóng Gößnitz. Quân đoàn Klenau đã tiến từ Marienberg đến Hohndorf, Gyulai đã chiếm một vị trí gần Marienberg. Trước báo cáo rằng các đội hình mạnh của đối phương đang tiến quân từ Frankenberg và Mittweida về Chemnitz, đội hình khác chống lại Flöha và Groß-Waltersdorf (giữa Marienberg và Freiberg), Klenau dự định tập hợp quân đoàn của mình tại Hohndorf vào ngày 4 và điều một sư đoàn đến Chemnitz. Tuy nhiên, Thống chế Victor đã đi trước ông ta, tấn công tiền quân của ông ta gần Flöha và Falkenau vào chiều ngày 3 và buộc họ phải bỏ vị trí sau khi kháng cự dũng cảm. Tuy nhiên, quân Pháp không thể giữ vững Flöha, nhưng Falkenau vẫn nằm trong tay họ. Đồng thời, quân Pháp cũng đã tiến quân chống lại Ebersdorf, phía đông bắc Chemnitz, và chống lại Eppendorf, phía nam Dederan, nhưng không đạt được thành công nào ở đây; ngược lại, họ đã buộc đội quân du kích Mensdorff phải bỏ Penig và rút lui về Chemnitz.

Các tin tức đến đại bản doanh trong ngày 3 không còn nghi ngờ gì về cuộc rút quân của Napoléon về Leipzig. Công tước Schwarzenberg do đó quyết định bố trí phần lớn tập đoàn quân vào ngày 4 giữa Chemnitz và Zwickau và từ đây đẩy cánh trái về phía Altenburg. Các Cụm quân đoàn Wittgenstein và Kleist nên chiếm vị trí tại Zwickau với tư cách là cột bên trái, Quân đoàn Klenau tại Chemnitz, Quân đoàn Gyulai theo sau đến Zschopau. Mệnh lệnh này không còn có thể thực hiện được đối với Klenau; vì đối phương đã lại tấn công vào Flöha và Chemnitz vào lúc 9 giờ sáng, ở Flöha mà không thể ép buộc vượt sông, ở Chemnitz thì thành công khi buộc quân Áo phải rút lui về điểm cao phía nam thành phố, tới buổi chiều thì phải rút lui khỏi Chemnitz . Nhưng cuộc tấn công này đã dẫn đến hậu quả là Cụm quân đoàn Klenau vào buổi tối ngày 4, thay vì tập hợp tại Chemnitz, thì ngược lại lại bị phân tán khắp nơi.

Vào ngày 5, báo cáo đến Bộ Tư lệnh tối cao rằng Quân đoàn Augereau đang hành quân từ Jena qua Naumburg về Leipzig. Schwarzenberg do đó đã ra lệnh cho Sư đoàn Liechtenstein, phối hợp với StreifQuân đoàn Thielmann để ngăn chặn việc Augereau hợp nhất với Murat. Vì Liechtenstein và Thielmann cùng nhau chỉ có khoảng 2.900 bộ binh, 3.300 kỵ binh và 4 khẩu pháo, trong khi Quân đoàn Augereau, theo các báo cáo nhận được có sứcmạnh 12.000  bộ binh và 3.000 kỵ binh, nên ngay từ đầu đã rõ ràng rằng lực lượng của liên minh không đủ để giải quyết một nhiệm vụ như vậy.

Vào buổi tối ngày 5, Tập đoàn quân Böhmen đã đến Zwickau với Quân đoàn Wittgenstein, Schneeberg với Quân đoàn Kleist và Schwarzenberg. Klenau đã hợp nhất quân đoàn của mình gần Chemnitz, Quân đoàn Gyulai đã chiếm vị trí trước đó của ông ta tại Flöha. Merveldt đứng phía trước Marienberg, Hessen-Homburg phía sau ông ta gần Marienberg. Các đội quân còn lại vẫn ở Annaberg và trong và gần Komotau.

Vào buổi tối ngày 5, Radetzky đã ban hành một chỉ thị, chỉ thị này được dùng để truyền đạt quan điểm về tình hình tại Bộ Tư lệnh tối cao và ý định của bộ tư lệnh cho thời gian tới. Theo đó thì cuộc hành quân của tập đoàn quân vào khu vực Chemnitz và Zwickau đã được bắt đầu để đánh lạc hướng sự chú ý của Hoàng đế, người được cho là đang rút lui về Leipzig, khỏi Thái tử Thụy Điển và Blücher và do đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc vượt sông Elbe của họ dự kiến trong những ngày này. Schwarzenberg dự định sẽ tiếp tục tiến quân với Cụm quân đoàn Wittgenstein nhằm vào Altenburg và chiếm thành phố này. Nếu Napoléon bị nhử bởi những động thái này để tấn công Tập đoàn quân Böhmen gần Chemnitz hoặc Marienberg, thì tập đoàn quân này nên phòng thủ ở vị trí hiện tại, trong khi Wittgenstein có nhiệm vụ đánh vào sườn của ông ta từ Altenburg. Ngược lại, nếu Napoléon quyết định tiếp tục cuộc hành quân rút lui về Leipzig, thì Tập đoàn quân Böhmen cùng Tập đoàn quân Ba Lan sẽ tấn công đối phương, trong khi Wittgenstein với một quân đoàn mạnh nên hành quân về Hof và Bayreuth và từ đây đe dọa các tuyến đường liên lạc của đối phương.

Tuy nhiên theo các tin tức nhận được, Napoléon đang hành quân về Leipzig, Thái tử Thụy Điển đã thực hiện việc vượt sông Elbe; Blücher cũng có thể vượt sông Elbe vào bất cứ khi nào. Lúc đó, ý nghĩ nảy ra là Hoàng đế sẽ quay sang chống lại Tập đoàn quân Bắc và Tập đoàn quân Schlesien để ngăn chặn việc họ vượt sang tả ngạn sông Elbe hoặc đẩy họ trở lại hữu ngạn. Các cuộc tấn công của quân Pháp nhằm vào Flöha và Penig sau đó chỉ có thể có mục đích đánh lạc hướng sự chú ý khỏi các sự kiện ở phía bắc Leipzig. Vì vậy, nếu Schwarzenberg muốn làm điều gì đó để giúp Thái tử và Blücher, thì ông không thể chỉ điều động một vài quân đoàn đến Zwickau, Chemnitz và Altenburg và đứng yên ở đây, mà ông phải tung một đòn tấn công mạnh mẽ dọc khắp toàn mặt trận, cũng như điều  Tập đoàn quân Ba Lan từ Dresden để tham gia trận chiến chống lại Napoléon . Khi đó, Hoàng đế buộc phải, để ngăn chặn thất bại của các đơn vị  bị cô lập, hoặc tự mình quay sang chống lại Tập đoàn quân Böhmen hoặc từ bỏ ý định tấn công về phía Bắc .

Với một cách tiến hành chiến tranh thụ động của Bộ tư lệnh Tập đoàn quân Böhmen như vậy, không có gì đáng ngạc nhiên khi ba quân đoàn yếu ớt của Murat vẫn tiếp tục giữ chân lực lượng mạnh hơn gấp bốn lần và do đó tạo cơ hội cho Hoàng Đế quay sang đánh Blücher và Tập đoàn quân Bắc với phần lớn Đại quân của mình mà không bị cản trở.

Napoléon, như chúng ta đã biết, vào thời điểm này đã quyết định hành quân từ Dresden dọc sông Elbe. Để che giấu động thái này và đánh lừa đối phương, vào ngày 5, ông ra lệnh cho Murat chiếm Chemnitz và Schellenberg và đẩy đối phương lùi về Marienberg. Các cuộc đụng độ với Tập đoàn quân Böhmen đã diễn ra vào ngày 6 và 7 .

Ở cánh trái, phần lớn Cụm quân đoàn Wittgenstein đã đến Gößnitz vào ngày 6, Kleist khu vực Zwickau. tiền quân của Wittgenstein, vốn đã tiến đến Gößnitz, bắt đầu tiến về Altenburg. Tiền quân của Poniatowski đã chiếm đóng các điểm vượt sông Pleiße; một vài trận giao tranh không đáng kể đã diễn ra, sau đó quân Pháp đã bỏ Altenburg trong đêm.

Ở cánh phải, Penig đã bị tiền quân của Klenau tấn công vào ngày 6. Tuy nhiên, chỉ huy người Áo đã thể hiện rất ít tinh thần chủ động và sau khi quân Pháp rút lui, thì ông lại rút về Hartmannsdor. Đồng thời, một trận giao tranh ác liệt khác lại bùng nổ gần Flöha. Sự thụ động hoàn toàn của dự bị Áo đóng quân ở gần đó đã mang lại cho chỉ huy người Pháp một chiến thắng dễ dàng; ông đã đẩy lùi đối phương với tổn thất đáng kể qua Schellenberg đến Waldkirchen và Grünhainichen và có thể khai thác thành công của mình hơn nữa nếu ông kịp thời kéo đủ quân tiếp viện đến. Sự lơ đễnh của Murat đã cứu quân Áo khỏi một thất bại nặng nề. Tuy nhiên, vì Murat dần lo lắng cho đường liên lạc của mình với Leipzig trước sự tập trung quân mạnh mẽ tại Zwickau, nên ông giờ đây quyết định chuyển dần lực lượng của mình sang phải từ Freiberg đến Rochlitz, điều mà ông đã bắt đầu ngay trong ngày hôm đó.

Vào ngày 7, Wittgenstein chiếm đóng Altenburg còn Klenau đã chiếm được Penig sau một trận chiến ác liệt và buộc đối phương phải rút lui về Geithain và Rochlitz.

Sư đoàn Moritz Liechtenstein và StreifQuân đoàn Thielmann thì lại ít may mắn hơn, khi chạm trán với lực lượng vượt trội của Augereau. Nhận thấy sự vô vọng của nhiệm vụ này , cả 2 đã rút lui vào khu vực giữa Elster và Saale, để ít nhất là tiếp tục quan sát đối phương từ khu vực lân cận này.

Tập đoàn quân Böhmen đã hành quân suốt mười một ngày. Nhưng thay vì được hợp nhất tại Zwickau và Chemnitz, như dự định, thì ngược lại họ lại bị phân tán khắp nơi . Những lời chỉ trích về tiến độ chậm chạp của các hoạt động đã vang lên từ mọi phía, đặc biệt là hai vị quân vương của Nga và Phổ cũng không hài lòng với điều đó. Công tước Schwarzenberg đã bào chữa trong một báo cáo gửi cho Hoàng đế của mình bằng những tin tức không chắc chắn về các động thái và ý định của Napoléon, nhưng ông lại không hề nghĩ đến việc đẩy kỵ binh đông đảo và thiện chiến của mình lên phía trước để thăm dò tình hình quân Pháp .

Vào buổi tối ngày 7 tháng 10 , Schwarzenberg cuối cùng đã quyết định sử dụng lực lượng mạnh hơn để đánh chiếm vị trí của quân Pháp gần Schellenberg. Các Cụm quân đoàn Merveldt và Gyulai sẽ tiến quân vào sáng sớm ngày 8 nhằm vào Schellenberg và Hohenfichte, Sư đoàn Hessen-Homburg theo sau để hỗ trợ và Klenau sẽ phái một đội hình mạnh đến Flöha. Tuy nhiên vào buổi sáng hôm sau , họ thấy vị trí này đã bị quân Pháp bỏ trống. Một đội hình của Cụm quân đoàn Klenau lập tức truy đuổi đối phương đang rút lui và đã chiếm được một số xe vận tải của đối phương gần Mittweida. Do không thể xác định được hướng rút lui của quân Pháp nên họ đành quay trở về vị trí cũ .

Vào ngày 8, có báo cáo rằng Dresden đã hoàn toàn bị bỏ trống,  Napoléon đã đuổi theo Blücher được hai ngày,  các Quân đoàn Victor và Lauriston quay sang đuổi theo Tập đoàn quân Schlesien và Quân đoàn Poniatowski đóng tại Frohburg cũng đang có dấu hiệu rút quân. Một hội đồng chiến tranh do Schwarzenberg tổ chức tại Augustusburg đã nhất trí cho rằng 

Bây giờ là thời điểm để hành động quyết định và bây giờ chúng ta phải hành quân hết tốc lực về Leipzig".

Schwarzenberg cho rằng phía trước Leipzig hoàn toàn trống rỗng và không có địch , nhưng không hiểu vì sao tập đoàn quân vẫn chỉ tiến quân một cách chậm chạp vào ngày 9. tiền quân của Wittgenstein chiếm đóng Borna, Klenau chiếm Penig, các đơn vị còn lại tiến đến Chemnitz và Marienberg.Tập đoàn quân Ba Lan đã nhận được lệnh vào ngày 8 để bắt đầu hành quân về Leipzig và chỉ để lại Quân đoàn Tolstoi trước Dresden.


Vào ngày 9, Murat cùng một phần quân của mình vẫn còn đang ở Rochlitz. Nhưng vì sự tiến quân của liên minh khiến ông lo lắng về cuộc rút lui của mình về Leipzig, nên vào ngày 9, ông đã tập hợp phần lớn lực lượng của mình gần Frohburg , sau đó từ từ rút lui từ đây vào ngày hôm sau về phía sau sông Eula hay Jordanbach. Cuộc hành quân của ông đã bị quấy rối bởi một cuộc tấn công của Cossack Pahlen, nhưng nhờ sự thiếu quyết đoán của liên minh nên, ông đã trốn thoát mà bị không hề hấn gì. Vào tối ngày 10, ông đã hợp nhất toàn bộ lực lượng của mình và với 40.000 quân của mình, hoàn toàn có khả năng bảo vệ tất cả mọi ngã đường vào Leipzig trước các đòn tấn công của Tập đoàn quân Böhmen mạnh hơn gấp bốn lần.

Trong khi đó tin tức đã đến đại bản doanh của Schwarzenberg rằng Blücher đang ở Düben, Thái tử Thụy Điển đang ở Radegaft và Bennigsen chỉ còn khoảng 15.000 đến 20.000 quân đối diện gần Dresden  rằng phần lớn Đại quân của Pháp đã rút lui về phía bắc. Điều kỳ lạ là Schwarzenberg lại không suy ra từ điều này rằng Napoléon đang tấn công Blücher, mà lại đoán đúng là  ông ta đang tập hợp toàn bộ lực lượng của mình gần Leipzig và Murat chỉ có nhiệm vụ yểm trợ cho việc tập hợp này. Vì vậy, nếu ông đẩy Murat lùi xa hơn nữa về Leipzig thì liên minh có thể sẽ chạm trán với lực lượng chủ lực của Hoàng Đế . Nhận định này cuối cùng đã thúc đẩy việc tập trung quân số của Tập đoàn quân Böhmen , nhưng không phải để hành quân theo con đường ngắn nhất đến Leipzig theo quyết định được đưa ra chỉ hai ngày trước đó, mà là để tiếp tục chuyển sang trái về phía sông Saale và do đó, thông qua việc vòng qua hoặc ít nhất là đe dọa sườn phải của đối phương, để ép Napoléon rời khỏi Leipzig.

Do đó, trong một chỉ thị cho ngày 10, trước tiên việc hợp nhất Tập đoàn quân gần Altenburg đã được bắt đầu. Sư đoàn Colloredo cũng được lệnh hành quân về Rochlitz.

Liechtenstein và Thielmann, những người được lệnh tiến quân về Naumburg vào ngày 10, đã chạm trán với Augereau và sau các trận giao tranh với tổn thất nặng nề gần Wethau và Stössen, đã phải rút lui về Zeitz. Augereau do đó đã có thể  hành quân không bị cản trở của mình về Leipzig .

Sau khi nhận được chỉ thị Schwarzenberg cho ngày 11, Wittgenstein ban đầu đã trì hoãn đòn tấn công nhằm vào Murat mà thay vào đó chờ đợi Quân đoàn Kleist đến Borna, nhưng sau đó, khi có vẻ như đối phương đang chuẩn bị rút lui, thì Wittgenstein lại quyết định tấn công. Tuy nhiên , nhận định này là sai lầm . Sự kháng cự quyết liệt của quân Pháp cộng với việc nhận ra không thể trông cậy vào sự hỗ trợ của Klenau , đã khiến Wittgenstein vào phút cuối cùng quyết định từ bỏ cuộc tấn công.

Cũng giống như các chỉ huy Áo đã không tận dụng lợi thế gần Flöha vào ngày 6, thì Wittgenstein cũng không làm điều này gần Eula. Dường như các chỉ huy của Tập đoàn quân Böhmen đều thiếu đi tinh thần máu lửa táo bạo như của Blücher .

Mặc dù vị trí phía sau sông Eulabach khá vững chắc, Murat vẫn cảm thấy không đủ an toàn trước đối phương theo ước tính có từ 60.000 đến 70.000 quân. Vì vậy, trong đêm ngày 12 tháng 10, ông đã rút quân đến một vị trí thuận lợi hơn phía sau sông Göselbach, đoạn nằm giữa Markkleeberg và Güldengossa. Vào thời điểm đó, Marmont đã đến rất gần Leipzig và chuẩn bị hội quân với Augereau, Murat tin rằng mình có thể hy vọng giữ vững Leipzig trong hai ngày tới ngay cả trước một cuộc tấn công vượt trội.


Tại đại bản doanh tại Altenburg vào ngày 11 tháng 10 đã có báo cáo rằng Tập đoàn quân Schlesien và Tập đoàn quân Bắc đã đến giữa Halle và Bernburg. Vì vậy, vào ngày 12, Cụm quân đoàn Gyulai đã được lệnh hành quân đến Zeitz, nơi quân đoàn này sẽ hợp nhất với Liechtenstein và Thielmann , đồng thời đẩy họ càng xa càng tốt về phía trước trên đường đến Leipzig qua Pegau. Các Cụm quân đoàn Wittgenstein, Kleist và Klenau nhận lệnh ở lại Borna và Frohburg, nhưng đẩy tiền quân của họ càng xa càng tốt về phía Leipzig; tất cả các đơn vị còn lại của Tập đoàn quân Böhmen sẽ tiến về Altenburg. Cuộc rút lui vào ban đêm của Murat khỏi vị trí phía sau suối Eulabach đã được phát hiện kịp thời, nhưng việc truy đuổi ông đã bị ngăn cản bởi kỵ binh đối phương. Vì sức mạnh và ý định của quân Pháp không thể xác định được, nên Schwarzenberg đã ra lệnh cho Wittgenstein vào ngày 13 tháng 10 tiến hành một đòn trinh sát vũ lực nhằm vào vị trí của đối phương theo hướng Störmthal và Cröbern, Klenau sẽ hỗ trợ trên cánh phải nhằm vào Steinberg và Köhra. Một chỉ thị do Wittgenstein ban hành vào ngày 13 cho cuộc trinh sát này quy định rằng chỉ nên cầm châm đối phương ở mặt trước, nhưng đòn đánh chính nên vào cánh trái của họ gần Störmthal. Theo đó, lực lượng Nga-Phổ được chỉ định cho cuộc tấn công đã di chuyển đến Espenhain, Großpösna và Otterwisch và ở lại đây chờ đợi tiếng pháo của Quân đoàn Klenau ở cánh phải, đây sẽ là tín hiệu cho họ tiến lên. Klenau đã hành quân vào ngày 13 lúc 4 giờ sáng từ Frohburg đến Lausigk và từ đây sau hai giờ nghỉ ngơi đến Großpösna. Tại đây, ông chạm trán với bộ binh đối phương, lưc lượng này đã bị buộc phải rút lui sau một cuộc kháng cự yếu ớt. Gần Liebertwolkwitz, sau khi quan sát thấy lực lượng mạnh của địch ở vị trí thuận lợi, cộng với việc màn đêm đang buông xuống và quân sĩ quá mệt mỏi, bởi vì họ đã hành quân 34 km trong thời tiết xấu và đường sá lầy lội ngày hôm nay, nên Klenau đã từ bỏ một cuộc tấn công và đóng trại với phần lớn quân của mình gần Pomßen vào buổi tối. Hậu quả là quân của Wittgenstein cũng không tấn công, mà thay vào đó hạ trại tại các vị trí hiện tại của họ. Cụm quân đoàn Merveldt đã hành quân đến Zeitz ngày hôm nay, trong khi Cụm quân đoàn Gyulai sau một cuộc đột kích thành công vào Naumburg đã chiếm Weißenfels. Dự bị Áo và Vệ binh  Nga-Phổ vẫn ở Altenburg.


Murat đã suy luận từ việc Klenau và Wittgenstein tiến quân rằng toàn bộ Tập đoàn quân Böhmen đang ở trước mặt ông. Ông cho rằng mình không thể chống lại cuộc tấn công của một lực lượng như vậy ở vị trí hiện tại và do đó quyết định rút lui thẳng về Leipzig và về phía sau sông Parthe. Napoléon đã đoán trước được quyết định này của Murat nên đã Gourgaud đến chỗ ông để ngăn chặn việc thực hiện kế hoạch này. Nhưng khi vừa đến thì Gourgaud thấy cánh quân của Murat đã rút lui hoàn toàn; theo yêu cầu của ông, các mệnh lệnh rút lui đã được thu hồi và đồng thời giữ vững vị trí nằm giữa Wachau và Liebertwolkwitz.

Trong khi đó, tin tức đã đến Altenburg về việc Vương quốc Bayern tham gia liên minh thứ sáu cùng báo cáo của Blücher rằng Tập đoàn quân Schlesien đang ở Halle và Tập đoàn quân Bắc đang ở trên hữu ngạn sông Saale, cũng như việc Napoléon đã quay sang chống lại hai tập đoàn quân này. Như vậy, tình hình của Tập đoàn quân Böhmen thuận lợi hơn nhiều so với những gì Schwarzenberg tự đoán trước cho đến nay .  Việc Bayern gia nhập liên minh đã mang lại cho liên minh một lực lượng tăng viện gồm khoảng 50.000 quân.

Việc Blücher có thể hội quân với Tập đoàn quân Böhmen đã thúc đẩy liên minh tung một đòn tấn công quyết liệt về Leipzig , Công tước Schwarzenberg thì vẫn giữ nguyên ý định của mình về một cuộc chuyển quân sang bên sườn trái của Tập đoàn quân Böhmen. Trong một chỉ thị chi tiết cho ngày 14, ông chỉ định mục đích của cuộc chuyển quân sang trái này là: ngày càng siết chặt đối phương trong vị trí của họ gần Leipzig.

 

Nếu điều này thành công, thì Napoléon sẽ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc đột phá khỏi vòng vây . Để đạt được mục đích này, Schwarzenberg, người đã sai lầm khi cho rằng Tập đoàn quân Bắc và Tập đoàn quân Schlesien đã hợp nhất phía sau sông Saale, cánh phải của họ ở phía trước Merseburg, dự định bố trí Cụm quân đoàn Gyulai, cách Merseburg 17 km gần Weißenfels, các Cụm quân đoàn Wittgenstein và Kleist cách Weißenfels 20 km gần Pegau, Cụm quân đoàn Klenau cách Pegau 20 km gần Borna,  đoàn Colloredo đang hành quân từ Dresden cách Borna 25 km gần Penig và Rochlitz, do đó bao vây chủ lực quân Pháp gần Leipzig trong một vòng cung rộng 100 km. Dự bị được đặt tại Zeitz và Altenburg. Ở vị trí này,họ sẽ chờ đợi Tập đoàn quân Ba Lan tiếp cận chiến trường và sau đó „tiến quân chậm rãi về Leipzig với sự cẩn trọng . Nếu Napoléon cố gắng đột phá qua vòng vây  thì đội hình bị tấn công nên cố gắng phòng thủ cho đến khi các đội hình còn lại đến ứng cứu. Đây là kế hoạch của Schwarzenberg.

Chúng ta hãy nghiên cứu kỹ nó và với compa trong tay trên bản đồ, theo dõi dòng chảy của các con sông và đường sá , sau đó tính toán thời gian cần thiết để đánh chiếm các vị trí cho việc hợp nhất các tập đoàn quân . Rõ ràng là kế hoạch này chỉ có cơ hội thành công nếu Napoléon hoàn toàn thờ ơ ở Leipzig, khi không hề gây rối loạn việc tập hợp của đối phương và kiên nhẫn chờ đợi cho đến khi liên minh siết chặt cái thòng lọng quàng qua cổ ông. Nhưng nếu Napoléon vẫn còn khả năng nhanh chóng nhận ra các kế hoạch và ý định, sai lầm và điểm yếu của đối phương và khai thác chúng với tốc độ nhanh như chớp, thì ông rõ ràng có đủ thời gian và cơ hội để xông vào một đội hình của đối phương với ưu thế áp đảo, không chỉ để đột phá ở đây, mà còn để đánh bại một cách quyết định, thậm chí tiêu diệt họ. Với sự thiếu sót trong liên lạc giữa các HQ chỉ huy vào thời điểm đó cùng với sự thiếu chủ động của hầu hết các chỉ huy liên minh và với sự thận trọng được dạy một cách có hệ thống cho các tướng lĩnh thì khó có thể mong đợi một sự hỗ trợ kịp thời của đội hình bị tấn công bởi các quân đoàn lân cận. Nhưng ngay cả khi chúng ta giả định rằng Napoléon vì một số lý do nào đó đã không nhận ra ý định của đối phương và cho phép liên minh khép vòng vây ở phía nam và phía tây đến mức không còn có thể đột phá nữa, thì việc mơ tưởng về một trận chiến hủy diệt tập đoàn quân của Napoléon gần Leipzig vẫn là sai lầm. Napoléon hoàn toàn tự do hành động, có muốn tấn công quân liên quân hay không là tùy thuộc vào ý chí của ông. Ông rất mong muốn để đánh trận quyết định ,nên Napoléon thực sự không nghĩ đến việc né tránh các trận chiến và như được thể hiện trong thư từ của ông, tin chắc vào chiến thắng của mình, nhưng dù dũng cảm đến đâu, ông vẫn là một người tính toán sắc sảo về các khả năng và chắc chắn sẽ không tham gia vào một trận chiến quyết định gần Leipzig nếu ông không tin rằng mình có cơ sở để hy vọng chiến thắng. Nhưng nếu ông nghi ngờ về thành công, thì ông có thể hoàn toàn tự do rút khỏi vòng vây của đối phương. Cuộc rút lui về hướng Bắc luôn rộng mở đối với ông và được hỗ trợ bởi Magdeburg, Wittenberg và Torgau, nếu ông không thích vượt sông .


Để đối phó với vị trí của quân Pháp, tiền quân của Cụm quân đoàn Wittgenstein dưới quyền Tướng Graf Pahlen đã tiến lên trước, bao gồm 16 kỵ đội và 12 khẩu pháo của Nga, cùng 10.5 kỵ đội và 8 khẩu pháo của Phổ. Trung đoàn Khinh Kỵ Grudno dưới quyền Tướng v. Rüdiger được phái đến Markkleeberg và Trung đoàn Khinh kỵ Lubniy tiến về Liebertwolkwitz nhanh chóng nhận thấy ưu thế của đối phương, đặc biệt là về kỵ binh. Pahlen đã yêu cầu Tướng v. Kleist hỗ trợ bằng kỵ binh dự bị Phổ, và được chấp thuận với 14 kỵ đội và 16 khẩu pháo. Trong khi Pahlen chờ đợi quân tăng viện, Quân đoàn Bộ binh số 2 của Nga dưới quyền Công tước Eugen von Württemberg cũng đã đến và đóng quân ở phía bắc Güldengoffa. Thấy kỵ binh dự bị Phổ đến, Pahlen quyết định tiến công Liebertwolkwitz với Trung đoàn Khinh kỵ Sumy và một tiểu đoàn pháo kỵ , các trung đoàn Phổ theo sau .  Kỵ binh dự bị Phổ tiến tới hỗ trợ cho Trung đoàn Khinh kỵ Grudno ở cánh trái gần Vorwerk Auenhain, phần còn lại tiến về Liebertwolkwitz. Đến cao điểm trước Güldengoffa, Pahlen phát hiện một đội hình kỵ binh lớn của đối phương có vẻ đang rút lui. Tiểu đoàn pháo kỵ của Pahlen khai hỏa, hai trung đoàn đi đầu của Pháp lập tức tấn công trận địa pháo và pháo binh Pháp từ Galgenberg cũng bắn trả dữ dội. Khinh kỵ của Pahlen đến ứng cứu tạo điều kiện cho pháo bih rút lui và hợp nhất với trận địa pháo của Phổ trên đồi 162.5 nằm ở phía bắc Güldengoffa; nhưng Khinh kỵ Nga đã bị kỵ binh Pháp đánh bại và truy đuổi về Güldengoffa. Đúng lúc này, Trung đoàn Long kỵ Neumark của Phổ vừa đến chiến trường, đã lập tức phản kích kỵ binh Pháp, khiến họ phải thoái lui về sau . Tuy nhiên, sau đó 3 kỵ đội của Pháp quay lại tấn công buộc Long kỵ phải rút lui. 


Ảnh : Người cố đuổi theo Murat là Trung úy Guido von der Lippe , bị Vệ sĩ của Murat đâm chết .

Sau đó,thêm  hai trung đoàn kỵ binh Phổ khác gồm Trung đoàn Thương kỵ Schlesien (UR 2) Trung đoàn Thiết kỵ Đông Phổ (KR 3) , đến và tấn công quân Pháp đang sắp xếp lại đội hình, đánh tan tác họ. Quân Phổ truy kích sâu đến tận trận địa pháo Pháp, nhưng bị đẩy lùi bởi bốn trung đoàn Pháp phản công, buộc sáu kỵ đội Phổ phải lui về đồi 162.5. Cuộc phản kích sau đó của Long kỵ Neumark đã câu thêm thời gian để liên quân tái tổ chức giúp ổn định tình hình và xếp lại đội hình.


Sau đó, giao tranh tạm dừng để cả hai bên chỉnh đốn lực lượng. Murat tăng cường thêm Sư đoàn Milhaud cho Quân đoàn Kỵ binh số 5. Milhaud triển khai hai trung đoàn thành một hàng ở phía trước và phần còn lại thành các đội hình khối phía sau. Khối kỵ binh Pháp tiến lên cao điểm 162.5, nơi kỵ binh Nga-Phổ dàn quân thành hai hàng. May mắn cho quân liên quân , Tướng v. Röder với kỵ binh dự bị Phổ  vừa kịp thời đến chiến trường . Đúng lúc kỵ binh Pháp xung phong, Röder tấn công vào sườn của đội hình Pháp, đánh bật họ về Wachau, thậm chí chiếm được một số khẩu pháo. Tuy nhiên, quân Phổ không nhận ra sự hiện diện của hai sư đoàn kỵ binh Pháp khác và bộ binh đối phương. Bị tấn công từ nhiều phía và bận dẫn giải pháo, các Thiết kỵ buộc phải rút lui. Trung đoàn Long kỵ Neumark phản công dũng cảm chặn đứng quân Pháp. Trung đoàn Thương kỵ Schlesischen chịu thiệt hại nặng nề. Toàn bộ nỗ lực tấn công bao vây cánh trái và cánh phải của Murat đều thất bại.





Do sức ngựa đã cạn kiệt, hai bên tạm ngừng giao tranh , nhưng vẫn tiếp tục xảy ra các cuộc đụng độ nhỏ do Long kỵ Pháp xuống ngựa bắn carabine để quấy rối. Tình hình không thay đổi cho đến khi Cụm quân đoàn Klenau đến. Klenau tập hợp quân tại Threna và nhận lệnh từ Wittgenstein nhằm tấn công Liebertwolkwitz từ mọi hướng.

Khoảng 12 giờ trưa, Klenau ra lệnh tấn công. Lữ đoàn Paumgarten tiến đánh Holzhausen, nhưng gặp phải tuyến phòng thủ mạnh nên họ phải giao tranh ác liệt thì mới đẩy lùi được đối phương, nhưng không thể tiến xa hơn do bị pháo binh Pháp bắn phá dữ dội. Đồng thời,các đội hình khác cũng tấn công Liebertwolkwitz từ Großpösna , ngôi làng đã bị chiếm được bằng lưỡi lê , nhưng họ cũng không thể tiến thêm. Cùng lúc bộ binh Áo chiếm Liebertwolkwitz, Murat mở đợt tấn công kỵ binh mới. Một khối kỵ binh lớn bất ngờ xông ra từ làn khói thuốc súng đẩy lùi Khinh kỵ Nga . Nhưng pháo binh Nga-Phổ tại Güldengoffa bắn đạn chùm rất hiệu quả nên chặn đứng kỵ binh Pháp. Sau đó kỵ binh Nga-Phổ quay lại phản công ở hướng chính diện, còn 15 kỵ đội Áo của Klenau thì đánh vào sườn trái quân Pháp. Đội hình của Pháp ngay lập tức vỡ tung , toàn bộ quay đầu tháo chạy. Đến Probstheida, thì quân Pháp mới dừng lại và tập hợp được. Kỵ binh liên minh truy đuổi địch đến khi ngựa mệt lả thì mới thôi . Sư đoàn Thiết kỵ Duka vừa đến chiến trường đã được Pahlen phái đến hỗ trợ Tướng v. Rüdiger gần Cröbern, người trước đó bị kỵ binh Pháp áp đảo. Lữ đoàn Mutius của Phổ cũng tiếp cận chiến trường . Khi Sư đoàn Thiết kỵ Duka xuất hiện thì kỵ binh Pháp bỏ chạy về Wachau.

Các đòn phản công kỵ binh của Murat sau đó đều thất bại. Các cuộc tấn công của bộ binh Pháp sau đó cũng bị các Quân đoàn Wittgenstein và Kleist dễ dàng đẩy lùi. Khoảng 5 giờ chiều, quân Pháp rút về vị trí cũ, chỉ còn giao tranh ác liệt quanh Liebertwolkwitz đến tối, ngôi làng này liên tục đổi chủ. Đêm xuống, Klenau ra lệnh rút khỏi làng. Tướng Paumgarten cũng rút về Seiffertshain, Wittgenstein về sau phòng tuyến suối Göselbach. Hai lữ đoàn Phổ đóng tại Gestewitz và tại Magdeborn. Kỵ binh Pháp rút về Holzhausen, Quân đoàn Augereau phòng thủ sườn trái tại Zuckelhausen, quân còn lại giữ vị trí cũ.

Liên minh xác định rằng Murat không rút khỏi Leipzig mà tiếp tục tập trung quân tại đây. Do đó, họ quyết định sẽ tấn công Napoléon. Đại bản doanh lên kế hoạch tấn công vào ngày 16, với các bước chuẩn bị vào ngày 15. Liên minh giả định Blücher sẽ hỗ trợ từ Halle, nhưng chưa chắc chắn về sự hỗ trợ của Thái tử Thụy Điển. Các quân đoàn được giao vị trí tập kết vào ngày 15, làm điểm xuất phát cho ngày 16. Wittgenstein được phép tự quyết định tiến quân ngay đến Leipzig cùng Klenau nếu đối phương rút lui. Ngày 15 diễn ra yên tĩnh, chỉ có một vài đội hình bộ binh và kỵ binh Pháp tiến về Universitätsholz và Großpösna vào giữa trưa, nhưng rút lui khi thấy tuyến phòng thủ vững chắc của địch . Chiều tối thì có tin báo quân Pháp tập trung trên cao điểm Liebertwolkwitz, và tiếng hô "Vive l'empereur" vọng lại cho thấy Napoléon đang duyệt binh ở phía bên kia chiến tuyến .


Tập đoàn quân Böhmen bố trí như sau vào tối ngày 15: Cụm quân đoàn Klenau gần Pomßen, Cụm quân đoàn Wittgenstein gần Störmthal, Güldengoffa và Cröbern, Quân đoàn Kleist gần Belgershain, Magdeborn và Cröbern, dự bị quân Nga và Sư đoàn Thiết kỵ Dura giữa Espenhain và Magdeborn ở phía đông sông Pleiße. Cụm quân đoàn Merveldt gần Zwenkau, dự bị quân Áo và Vệ binh Nga-Phổ gần Audigast giữa sông Pleiße và sông Elster. Cụm quân đoàn Gyulai gần Lützen, Markranstädt và Schönau ở phía tây sông Elster. Quân đoàn Colloredo đóng quân tại Penig, tiền quân đặt tại Rochlitz và Frohburg.

14.Trận chiến của các dân tộc

Thị trấn Leipzig nằm giữa một vùng trũng của đồng bằng mênh mông nơi đã lưu danh sử sách qua những trận  Merseburg , Breitenfeld ,tzen , Roßbach và Großgörschen . Ba dòng sông Parthe , Pleiße và Elster gặp nhau tại đây chia chiến trường những ngày tới thành bốn khu vực với những đặc điểm địa hình khác nhau

Về phía nam và phía đông thành phố trải dài vùng đất bằng phẳng giữa sông Parthe và sông Pleiße có tầm nhìn thoáng đãng , duy chỉ bị hạn chế bởi vài gò đồi thấp chạy từ đông sang tây những gò đồi này mà ngọn đồi quan trọng nhất bắt đầu từ khoảng 3 km phía đông Liebertwolkwitz và kéo dài qua Wachau đến Markkleeberg tuy không gây trở ngại cho việc di chuyển nhưng lại rất lý tưởng cho các vị trí phòng thủ và rất phù hợp triển khai quân giữa những nếp gấp địa hình đó . Vào năm 1813 có vô số hào rãnh dẫn nước về những ao hồ này đổ thẳng ra sông Pleiße , những cơn mưa gần đây khiến các dòng nước tràn bờ làm nền đất sét vốn cứng rắn trở nên lầy lội khiến việc di chuyển trên địa hình vô cùng khó khăn . Những ngôi làng rải rác khắp đồng bằng nổi bật với kiến trúc vững chãi từ xưa cộng với đường phố rộng rãi , nhà thờ kiên cố  , nghĩa trang có tường bao quanh và hàng rào cây xanh biến chúng thành những điểm phòng thủ kiên cường . Sông Parthe giới hạn khu vực này ở phía bắc với lòng sông sâu bờ dốc và bờ lầy lội là một chướng ngại vật khó vượt qua . Địa hình giữa sông Parthe và sông Elster phía bắc Leipzig cũng tương tự nhưng đồi thấp hơn và trũng ít sâu hơn .  Chướng ngại vật đáng kể nhất là dòng sông Rietschlebach bắt nguồn từ đầm lầy ở Lindenthal và đổ vào sông Pleiße gần Gohlis

Hai khu vực địa hình vừa mô tả được giới hạn về phía tây bởi sông Pleiße và Elster . Đây là hai con sông từ vùng Voigtslande chảy về hợp lưu thành hình chữ V rồi chia thành nhiều nhánh đổ vào Leipzig . Vùng đất giữa hai sông vào mùa xuân năm 1813 gần như không thể đi lại do đầm lầy hào rãnh ao tù và cây bụi rậm rạp . Chính sự khó đi lại này lại mang đến một lợi thế đặc biệt tạo thành sườn bảo vệ hữu hiệu cho quân Pháp đóng ở phía nam Leipzig . Từ đó có thể thấy tầm quan trọng của đường Leipzig-Lindenau trường hợp trận chiến diễn biến bất lợi bởi nó sẽ là con đường rút lui duy nhất cho quân Pháp qua địa hình hiểm trở này . Napoléon nhận thức rõ điều đó và đã gia cố con đường bằng cọc gỗ và công sự dã chiến ở Lindenau

Phía tây sông Elster có địa hình dần cao lên , những ngọn đồi thoai thoải không đáng kể lại khống chế hoàn toàn các làng Schleußig , Plagwig và Lindenau nằm sát bờ Elster . Khả năng phòng thủ của các làng này kém xa so với các làng bên bờ phải sông Pleiße

Thành phố Leipzig năm 1813 có dạng hình bầu dục không đều với bốn cổng chính gồm : cổng Grimmaishenischen cổng Peters cổng Neustädter và cổng Hallischen . Dấu tích tường thành cổ xưa vẫn còn sót lại trước khu vực đi dạo bao quanh thành phố . Bên trong tường thành là các khu ngoại ô với tường rào hàng rào và hàng rào ván từ đó mười lối đi nhỏ dẫn ra bên ngoài thành phố . Như vậy thành phố không hoàn toàn thích hợp cho phòng thủ lâu dài dù có những chướng ngại vật tự nhiên và nhân tạo ở vùng ngoại ô gây khó khăn đáng kể cho việc tiếp cận

Tổng quan địa hình cho thấy nó cực kỳ có lợi cho kế hoạch của Napoléon . Các sông Pleiße Elster và Parthe bảo vệ sườn của quân Pháp , cùng với những gò đồi tạo vị trí thuận lợi với hỏa lực mạnh mẽ . Những nếp gấp địa hình có thể được dùng để bí mật triển khai quân số và tạo bất ngờ cho liên quân . Vùng đồng bằng rộng lớn cho phép kỵ binh có thể dễ dàng triển khai ồ ạt .  Bất lợi duy nhất là nếu thất bại con đường rút lui duy nhất của đạo quân khổng lồ  lại là con đường hẹp đến Lindenau dài nửa dặm rất dễ bị đối phương chặn đánh .

Bản kế hoạch tác chiến soạn thảo vào tối ngày 14 dành cho ngày 16 đã ra lệnh toàn quân tấn công tập trung  Leipzig  từ phía tây và nam  . Đối phương dự kiến ở tuyến Liebertwolkwik Wachau Markkleeberg sẽ bị tấn công trực diện bởi các quân đoàn Wittgenstein Kleist và Klenau dưới sự chỉ huy của Wittgenstein . Blücher sau khi di chuyển từ Halle đến đường Merseburg-Leipzig vào ngày 15 sẽ chiếm Lindenau từ Günthersdorf rồi tấn công Leipzig , đồng thời bên cánh phải của Blücher các Cụm Quân đoàn Gyulai Moritz Liechtenstein Thielmann và Mensdorff sẽ được đặt dưới quyền chỉ huy của Blücher trong ngày này sẽ tiến quân qua Markranstädt . Quân đoàn Merveldt cùng lực lượng dự bị Áo và Vệ binh Nga được lệnh tập trung tại Zwenkau sau đó chiếm giữ các điểm vượt sông Pleiße gần Connewiß để từ đó tiến sâu vào hậu phương quân Pháp .  Colloredo và Bennigsen không được tính đến trong ngày này còn Thái tử Thụy Điển nếu chưa rút về bờ phải sông Elbe sẽ vừa phô trương lực lượng từ Mulde về phía phòng tuyến địch gần Leipzig vừa hỗ trợ cánh trái của Blücher trong trường hợp đó Tập đoàn quân Schlesien sẽ tiến thẳng từ Halle đến Schkeuditz . Cuộc tấn công từ Merseburg mà quân đoàn St Prießt được giao sẽ chỉ mang tính thứ yếu

Như vậy khoảng 72.000 quân ở hữu ngạn sông Pleiße được bố trí tấn công trực diện vào chủ lực Pháp  , 54.000 quân khác vượt Connewiß đánh vào sườn và hậu phương địch và khoảng 75.000 quân khác hướng về Lindenau . Tổng cộng toàn bộ Tập đoàn quân Böhmen được chia thành ba mũi tấn công lớn tiến qua 3 khu vực bị chia cắt bởi những chướng ngại vật địa hình gần như không thể vượt qua nếu cuộc tấn công của Blücher vào con đường hẹp Lindenau vốn dễ phòng thủ của quân Pháp thất bại và Merveldt không thể vượt qua những khó khăn khi vượt sông Pleiße gần Connewitz thì 124.000 quân sẽ bị vô hiệu hóa  hoàn toàn bởi không thể hỗ trợ hữu ngạn sông Pleiße nơi trận chiến quyết định sẽ diễn ra với 72.000 quân của Wittgenstein phải chiến đấu chống lại ưu thế áp đảo của Napoléon

Những sai sót trong việc phân bổ lực lượng này quá rõ ràng đến mức các tướng lĩnh Nga lập tức phản đối những mệnh lệnh này . Các cuộc đàm phán căng thẳng giữa Schwarzenberg  một bên và Toll Jomini cùng Diebitsch bên kia không đạt được thỏa thuận . Toll đã vô ích khi chỉ ra những khó khăn không thể vượt qua của địa hình giữa sông Elster và sông Pleiße cũng như nhấn mạnh tầm quan trọng quyết định của trận chiến tại Wachau và sự cần thiết phải tập trung phần lớn quân số ở vị trí này nhưng cả ông lẫn các tướng lĩnh khác đều không thể thuyết phục được Schwarzenberg . Vì vậy không còn cách nào khác ngoài việc thỉnh cầu quyết định cuối cùng của Sa hoàng nhưng ngay cả Sa hoàng Alexander cũng chỉ có thể thuyết phục nếu Thống chế thay đổi mệnh lệnh , khi ông thẳng thừng từ chối sự hợp tác của quân đội Nga theo kế hoạch ban đầu . Khi đó Schwarzenberg buộc phải soạn thảo một kế hoạch tác chiến mới

Kế hoạch mới khác với kế hoạch ban đầu ở chỗ Blücher vẫn giữ nguyên hướng hành quân về Schkeudit và chỉ có Gyulai , Liechtenstein và Mensdorff được giao nhiệm vụ tấn công Lindenau / Cuộc tấn công vào Connewitz vẫn được giữ nguyên nhưng giờ đây chỉ có các đơn vị quân đội Áo dưới quyền Merveldt và Hessen Homburg .Vệ binh Nga nhận lệnh đóng quân gần Rötha cách chiến trường dự kiến khoảng 10 km để có thể sử dụng khi cần thiết cả về phía Connewiß lẫn Wachau . Mệnh lệnh dành cho Wittgenstein không có gì thay đổi

Và như vậy tuân theo những chỉ thị mới này vào sáng sớm ngày 16 trong khu vực Leipzig đã tập trung trên tuyến Fuchshain-Großpösna-Güldengoffa-Cröbern dưới quyền chỉ huy của Wittgenstein các quân đoàn Kleist , Wittgenstein , Klenau và Pahlen . Nằm ở phía sau tại Gruhna làm dự bị là Quân đoàn Lựu binh Rayevsky và Lữ đoàn Kỵ binh Gudowitsch tại Rötha . Vệ binh Nga-Phổ  tại Gaußsch giữa sông Pleiße và Elster . Cụm Quân đoàn Merveldt và dự bị Áo dưới quyền Vương Thái tử  Hessen-Homburg . Đối diện Lindenau là Cụm Quân đoàn Gyulai  , Sư đoàn Liechtenstein và tiền quân Thielmann và Mensdorff . Tại Schleudiß là Tập đoàn quân Schlesien

Tổng cộng liên minh có 202.75 tiểu đoàn , 348.5 kỵ đội và 918 khẩu pháo bao gồm cả Cossack với tổng quân số đạt khoảng 205 000 người cho ngày giao chiến đầu tiên.

Như vậy liên minh đã quyết tâm đánh trận với Napoléon vào ngày 16 sau khi đã bỏ lỡ cơ hội đánh bại Murat hoặc ít nhất là chiếm được một vị trí tốt dọc tuyến Wachau-Liebertwolkwitz . Tình hình của liên minh đã trở nên bất lợi hơn nhiều so với ngày 14 thậm chí so với ngày 15 . Trong khi đối phương giờ đây ngoại trừ một số đơn vị nhỏ đã tập hợp được phần lớn các đội hình chiến đấu thì về phía liên minh vẫn còn thiếu những lực lượng mạnh và những lực lượng hiện có lại bị phân tán khắp nơi . Trong tình huống này sau khi đã chờ đợi quá lâu việc giữ thế phòng thủ vào ngày 16 và chờ đợi Bennigsen , Colloredo và Bubna vẫn đang di chuyển ở phía sau và cách đó bảy dặm gần Waldheim và Penig . Điều này rõ ràng là đúng đắn hơn nhưng liên minh tin rằng phải quyết định tấn công vì không rõ về ý định của Napoléon . Không loại trừ khả năng Hoàng đế sẽ tránh giao chiến hoặc dồn toàn lực vào Blücher hoặc Thái tử  , mặt khác dường như liên minh đã hoàn toàn tin tưởng vào sự thành công của cuộc tấn công bọc sườn qua Connewitz .

Hy vọng của Napoléon rằng sẽ tập hợp được toàn quân của mình tại Leipzig vào tối ngày 14 và tấn công địch vào ngày 15 đã không thành hiện thực bởi một phần đáng kể lực lượng của ông vẫn đang trên đường hành quân vào ngày hôm đó . Vì vậy cuộc tấn công phải được hoãn lại đến ngày 16 .

Dưới bầu trời u ám và mưa bụi , sáng ngày 16 tháng 10 quân của Napoléon triển khai đội hình phòng ngự trước đòn tấn công của liên minh từ ba hướng .  Quân đoàn Lefol  , Quân đoàn Poniatowski và Quân đoàn kỵ binh Kellermann dàn trải từ Connewitz đến Markkleeberg . Quân đoàn Victor và Lauriston trấn giữ Wachau-Liebertwolkwitz phía sau Lauriston là Sư đoàn Vệ binh Trẻ và Sư đoàn Curial của Vệ binh Già gần Zuckelhausen là Quân đoàn Augereau trong khi tại Probstheida là Sư đoàn Friant của Cận vệ Già cùng với kỵ binh Vệ binh và Quân đoàn kỵ binh Pajol . Quân đoàn kỵ binh Latour-Maubourg tiến về Schäferei-Meusdorf còn Quân đoàn Macdonald và kỵ binh Sebastiani di chuyển đến Holzhausen .

Tổng cộng lực lượng đối đầu với quân Áo là 138000 quân , bao gồm : 216.5 tiểu đoàn 277 kỵ đội và 488 khẩu pháo

Ở hướng phía tây chỉ có một phần quân đồn trú Leipzig dưới quyền Margaron và Lữ đoàn Quinette của Quân đoàn kỵ binh số 3 với tổng cộng 3200 quân gồm có 4 tiểu đoàn ,  6 kỵ đội và 16 khẩu pháo .

Ở hướng phía bắc có Quân đoàn Marmont và phần còn lại của Quân đoàn kỵ binh số 3 đóng tại Breitenfeld và Lindenthal . Sư đoàn Dombrowski tiến về Klein-Wiederitzsch . Quân đoàn Bertrand đóng ở Eutritzsch . Sư đoàn Brayer và Ricard hành quân về Mockau còn Sư đoàn Delmas của Quân đoàn Souham đang trên đường từ Düben . Tổng cộng Napoléon có 49400 quân , bao gồm 113 tiểu đoàn , 47 kỵ đội và 186 khẩu pháo chống lại lực lượng liên minh từ hướng bắc .

Như vậy tổng binh lực của Napoléon vào ngày 16 tháng 10 đạt 190 000 quân , bao gồm 333.5 tiểu đoàn , 330 kỵ đội và 690 khẩu pháo ngoại trừ dự bị và tổn thất chưa xác định trong trận chiến ngày 14 tháng 10 .

Lược qua tình hình chiến trường địa hình và tương quan lực lượng vào buổi sáng 16 tháng 10 , lợi thế vẫn nghiêng về Napoléon bởi địa hình có lợi cho ông và quân số tuy có nhỉnh hơn về phía liên minh nhưng chênh lệch không đáng kể , thậm chí họ còn bị phân tán tại các khu vực khó tác chiến bên bờ phải sông Pleiße . Napoléon có 138 000 quân chống lại 100 000 liên minh , trong đó 24 000 quân còn phải đợi đến chiều mới có thể tham chiến . Napoléon tuy không thể biết trước chính xác thế trận nhưng vẫn có lý do để tin rằng quân mình ít nhất cũng ngang bằng đối phương nếu không muốn nói là chiếm ưu thế hơn . Dù quân Phổ dưới quyền Blücher có thể tham chiến từ hướng Schleuditz nhưng họ cũng khó mà đạt được thắng lợi lớn trước buổi tối và khi ấy trận Wachau có thể đã được định đoạt . Nếu Napoléon giành thắng lợi quyết định vào ngày 16 thì ngay cả khi quân tiếp viện của Bennigsen , Blücher và Thái tử Thụy Điển kéo đến thì cục diện chiến tranh vẫn có thể xoay chuyển hoàn toàn  . Từ những vị trí chiếm giữ của 2 phe từ ngày 15 và sáng ngày 16 bốn trận chiến lớn sẽ nổ ra và được biết đến với tên gọi là : Trận Wachau  , Trận Connewitz , Trận Lindenau và Trận Möckern . Hay như thường gọi thì cả 4 trận này đều được gọi chung là : Trận Leipzig ngày 1 .

Wittgenstein tổ chức quân của mình thành bốn cánh với các mục tiêu cụ thể :

Cánh thứ nhất dưới quyền Bá tước Klenau gồm Cụm quân đoàn IV của Áo và Lữ đoàn Zieten của Phổ tập trung giữa Fuchshain và Universitätsholz để tấn công Liebertwolkwitz .

Cánh thứ hai do Gorchakov chỉ huy gồm Sư đoàn Mesenzow của Nga  và Lữ đoàn Pirch của Phổ  tiến từ Störmthal để hỗ trợ Klenau tấn công từ phía nam và tây .

Cánh thứ ba do Công tước Eugen xứ Württemberg chỉ huy gồm Quân đoàn Bộ binh số 2 của Nga và Lữ đoàn Klüx của Phổ xuất phát từ Güldengossa đánh Wachau từ hướng đông .

Cánh thứ tư do Kleist chỉ huy gồm Sư đoàn Helffreich của Nga  , Lữ đoàn August của Phổ ,  Lữ đoàn Kỵ binh Levaskov của Nga và Trung đoàn Khinh kỵ Lubny tiến từ Cröbern để chiếm Markkleeberg và vùng cao giữa hai ngôi làng.

Quân đoàn Kỵ binh Pahlen có nhiệm vụ liên lạc giữa cánh thứ hai và thứ ba trong khi lực lượng dự bị gồm Quân đoàn Lựu binh Rayevsky và Lữ đoàn Thiết kỵ Gudovich đóng ở Gruhna vào khoảng 8 giờ sáng .



Công tước Eugen dẫn quân vượt vùng trũng giữa Güldengossa và Cröbern , tiến về Wachau với Lữ đoàn Phổ Klüx ở phía sau làm dự bị . Chỉ có vài toán quân nhỏ của đối phương xuất hiện nhưng nhanh chóng rút về phòng tuyến chính trên cao điểm gần Wachau  . Khi nhìn thấy bảy khẩu pháo địch thì pháo binh Nga khai hỏa khiến chúng lập tức rút đi nên dường như chỉ có lực lượng chặn hậu yếu ớt do đó liên quân quyết định đẩy nhanh đòn tấn công.

Wachau dễ dàng thất thủ nhưng khi liên minh tiến xa hơn , mọi thứ thay đổi hoàn toàn . Một trận địa pháo binh Pháp khai hỏa dữ dội , theo sau bởi bộ binh Quân đoàn Victor,  đẩy lui liên quân về Wachau nơi một trận đánh giáp lá cà ác liệt diễn ra trong nhiều giờ liền .  Cuối cùng vào khoảng 9 giờ sáng liên quân  buộc phải rút lui nhưng họ vẫn giữ được vị trí cách Wachau 400m và thiết lập thế phòng thủ suốt nhiều giờ tại đó . Quân Pháp dù cố gắng cũng không thể tiến công quá Wachau .

Trong khi đó cánh quân của Kleist từ Cröbern tiến về Markkleeberg đối mặt với hỏa lực dữ dội từ pháo binh Pháp tại Kellerberg , nhưng nhờ một lực lượng nhỏ gồm hai tiểu đoàn Phổ họ vẫn có thể chiếm Markkleeberg . Tại đây một trận giáp lá cà kéo dài đến tận chiều muộn . Khi tình hình càng trở nên khó khăn Kleist buộc phải tung lực lượng dự bị vào trận chiến .

Cánh quân của Gorchakov đáng lẽ phải tấn công cùng Klenau vào Liebertwolkwitz nhưng do Klenau chưa kịp đến nên trước mắt chỉ có thể khai hỏa pháo binh vào vị trí của Pháp trên đồi Galgenberg .  Bộ binh của ông ta không thể tiến công được cho chịu tổn thất nặng  . Khi Quân đoàn Kỵ binh Pahlen tiến đến gần Galgenberg thì cũng phải dừng lại và chỉ có thể tham chiến bằng hỏa lực pháo binh .  Trong khi đó Klenau mãi đến 10 giờ mới đến được khu vực giữa Seifertshain và Niederholz .  Liebertwolkwitz dường như không có quân địch đồn trú trong khi cao điểm Kolmberg vẫn chưa bị chiếm đóng . Tuy nhiên từ Holzhausen và Baalsdorf có nhiều đơn vị của Pháp đang kéo đến . Klenau lập tức chiếm Kolmberg và tấn công Liebertwolkwitz . Ngôi làng nhanh chóng bị đánh chiếm nhưng quân Pháp vẫn cố thủ tại khu vực phía bắc và nghĩa trang trên cao lực lượng tiếp viện Pháp đến nơi và từng bước đẩy quân Áo lùi lại.

Dưới bầu trời xám xịt của buổi sáng ngày hôm đó, khi kim đồng hồ chỉ về mốc 11 giờ, cục diện trận chiến trên bờ phải sông Pleiße đã dần lộ rõ. Ban đầu, các cuộc tấn công của bốn cánh quân dưới quyền Wittgenstein đều gặt hái thành công. Quân địch chưa kịp tập hợp đủ lực lượng, lại bị bất ngờ trước bước tiến của liên quân, nên phải rút lui trước áp lực của đối phương. Tuy nhiên, càng về sau, thế trận lại chuyển biến bất lợi. Địch quân dần củng cố đội hình , phản kích dữ dội, tái chiếm toàn bộ những vị trí đã mất. Liên quân thiếu quân số để giữ vững thành quả, lại càng không đủ sức ngăn chặn những tổn thất tiếp theo. Những tuyến đầu vẫn kiên cường bám trụ, nhưng cái giá phải trả là quá đắt, trong khi viện binh của đối phương đang ùn ùn kéo đến, báo hiệu một cơn cuồng phong sắp ập xuống.

Từ vị trí trên đồi Wachtberg gần Güldengossa, nơi ông có mặt từ 9 giờ sáng, Sa đế Alexander chứng kiến lực lượng mỏng manh của liên quân đang bị sức mạnh áp đảo của địch quân nghiền nát trong một cuộc chiến không cân sức. Mối lo lắng của ông ngày càng lớn dần. Tình thế đã quá rõ ràng: quân ta đã triển khai lực lượng quá ít ỏi so với mức cần thiết, và nếu không có viện binh mạnh mẽ ngay lập tức, đội quân này sẽ bị quét sạch. Không chần chừ, Alexander ra lệnh cho Quân đoàn Lựu binh của Rayevsky từ Gruhna tiến về Auenhain, đồng thời điều Vệ binh Nga-Phổ tiến về Cröbern và Güldengossa. Ông cũng gửi mệnh lệnh đến Schwarzenberg, yêu cầu điều khẩn cấp các lực lượng của Áo từ bờ trái sông Pleiße sang bờ phải, nhằm cứu vãn nguy cơ thất bại cận kề.

Trong khi đó, ở bờ trái sông Pleiße, tướng Merveldt đã nhiều lần cố gắng mở đường vượt sông nhưng đều thất bại. Ông triển khai một phần quân lực tiến về Connewitz, phần còn lại tiến công Lößnig và Dölitz. Thế nhưng, địa hình bất lợi đã khiến mọi nỗ lực trở nên vô vọng. Cây cầu ở Connewitz bị quân địch cố thủ chặt chẽ, không tài nào đánh chiếm nổi. Việc bắc cầu qua đoạn sông giữa Connewitz và Lößnig cũng không thành công. Thiếu hỏa lực hỗ trợ, các đơn vị bộ binh của liên quân không thể mở rộng đội hình tác chiến, càng làm tình hình thêm bế tắc. May mắn thay, một toán quân đã bất ngờ đánh chiếm được lâu đài Dölitz, từ đó mở trận hỏa chiến nhắm vào các tay súng Tirailleur Pháp đang bám dọc bờ phải con sông. Nhưng đó là tất cả những gì Merveldt có thể đạt được trong tình cảnh ngặt nghèo này.


Những diễn biến bất lợi khiến Schwarzenberg bắt đầu dao động. Ông dần nhận ra rằng chiến lược phân bố lực lượng theo kiểu Langensalza là một sai lầm nghiêm trọng. Vì vậy, khi nhận được mệnh lệnh của Sa đế Alexander vào khoảng 11 giờ, yêu cầu điều động lực lượng dự bị Áo sang bờ phải sông Pleiße, ông do dự trong chốc lát rồi quyết định chấp thuận. Đến trưa, Schwarzenberg ra lệnh cho các sư đoàn Bianchi và Weißenwolf hành quân qua Gaschwitz và Deuben, đồng thời chỉ thị Sư đoàn kỵ binh Nostitz đi trước đội hình bộ binh để mở đường.

Ở phía bên kia chiến tuyến, Napoléon đến đồi Galgenberg  phía đông Wachau, vào khoảng 9 giờ sáng. Ở đây, ông được Murat báo cáo về tình hình chiến sự. Sự bực bội hiện rõ trên gương mặt vị Hoàng đế Pháp. Ông không hài lòng khi để liên quân chủ động phát động cuộc tấn công trước, lại càng bất mãn hơn khi một số quân đoàn của mình vẫn chưa kịp hội quân. Nhưng với bản lĩnh của một chiến lược gia lão luyện, ông nhanh chóng xác định ưu tiên hàng đầu: tận dụng mọi lực lượng dự bị hiện có để bảo vệ những vị trí trọng yếu trước khi đại quân chủ lực  kịp đến nơi. Sau khi đánh giá lại tình hình, Napoléon quyết định tăng cường hỏa lực pháo binh bằng cách điều động pháo của Vệ binh trẻ đến hỗ trợ các đơn vị Victor và Lauriston. Khi Quân đoàn yếu ớt của Poniatowski bị Kleist dồn ép dữ dội vào lúc 9 giờ 30 phút, Napoléon lập tức điều Quân đoàn Augereau từ Zuckelhausen đến cánh phải để gia cố phòng tuyến, đồng thời triển khai Sư đoàn Curial của Vệ binh già cùng toàn bộ bộ binh của Vệ binh trẻ tiến về Liebertwolkwitz. Trong khi đó, Sư đoàn Friant của Cận vệ Già được điều đến khu vực Schäferei Meusdorf để củng cố lực lượng.

Tại Wachau, một trận chiến khốc liệt diễn ra với những đợt giao tranh giằng co không hồi kết. Napoléon, nhận thấy tình hình còn chưa ngã ngũ, liền cho hai sư đoàn Cận vệ Trẻ dưới quyền Oudinot vào vị trí, đồng thời bố trí đại bộ phận kỵ binh phía sau Wachau sẵn sàng ứng chiến. Thương vong bên phía quân Pháp cũng không kém phần thảm khốc, và vị Hoàng đế sốt ruột chờ đợi các quân đoàn còn lại tới nơi để có thể phát động một đòn quyết định.

Khi bầu trời quang đãng hơn, Napoléon quan sát rõ hơn chiến trường và nhận ra rằng mình đang đối đầu với chỉ một phần lực lượng của địch. Ông quyết định tấn công càng sớm càng tốt, nhưng trước hết phải chờ Macdonald đánh chiếm được Kolmberg và vòng qua sườn phải địch quân qua ngả Seifertshain. Kế hoạch của ông rất rõ ràng: sau khi Macdonald hoàn thành nhiệm vụ, quân chủ lực sẽ tiến công dọc theo tuyến Auenhain—Güldengossa—Universitätsholz, xé toang phòng tuyến của địch, chia cắt chúng, đẩy quân chủ lực đối phương xuống sông Pleiße, hoặc ít nhất là buộc chúng phải tháo lui trong hỗn loạn dưới làn hỏa lực Pháp.


Đến 11 giờ, giai đoạn đầu tiên của kế hoạch này bắt đầu. Macdonald cho hai sư đoàn di chuyển về phía Kleinpösna và Seifertshain để triển khai mũi đột kích, trong khi sư đoàn thứ ba, với tiếng nhạc quân hành vang dội và cờ bay phấp phới, xông lên đánh chiếm Kolmberg, quét sạch các tiểu đoàn Áo cố thủ tại đây. Một số pháo của địch cũng bị thu giữ. Đà tiến công của quân Pháp mạnh mẽ đến mức một lữ đoàn Áo khác đang kéo đến tiếp viện cũng bị hoảng loạn mà rút theo. Chỉ nhờ những đợt phản công quyết liệt của một số đơn vị kỵ binh Phổ, quân Áo mới có thể tạm thời chặn đứng thế tiến công của Pháp và giành lại được ba khẩu pháo bị mất.

Ở cánh trái, Quân đoàn kỵ binh Sebastiani cũng lao vào trận chiến. Sau những đợt giao tranh khốc liệt, kỵ binh Áo bị đánh tan. Nhưng ngay lúc Sebastiani chuẩn bị tiếp tục đà tiến công, hai lữ đoàn kỵ binh dự bị của Phổ do Pahlen phái đến xuất hiện đúng lúc, cùng với toán kỵ binh Cossack của Platov. Thế trận ngay lập tức đảo chiều, buộc Sebastiani phải ngừng tiến công dù vẫn chiếm ưu thế quân số. Nhờ đó, bộ binh Áo có thời gian tập hợp lại giữa Großpösna và Fuchshain.

Đến 2 giờ chiều, tình thế trở nên nguy cấp hơn bao giờ hết. Ngoại trừ Kleist, tất cả các cánh quân của liên quân đều đã bị đánh lui về điểm xuất phát ban đầu. Phía sau quân Pháp, những khối bộ binh đông đảo đang tập trung, sẵn sàng tràn lên dưới làn đạn pháo không ngừng nghỉ. Một đòn kết liễu của Napoléon chỉ còn là vấn đề thời gian.

Napoléon, từ đồi Galgenberg, theo dõi trận chiến với sự hài lòng. Khi quân Pháp tái chiếm Liebertwolkwitz và chiếm lĩnh Kolmberg, ông lập tức gửi tin vui đến Quốc vương Sachsen, thông báo rằng “mọi việc đều thuận lợi”. Đồng thời, Napoléon ra lệnh rung chuông khắp Leipzig để báo hiệu cho trận thắng của mình . Giờ đây, ông chuẩn bị giáng đòn quyết định. Toàn bộ lực lượng pháo binh dự bị tiến lên trận tuyến; ở cánh phải, các đội quân xung kích của Quân đoàn Victor và hai sư đoàn Vệ binh Trẻ dưới quyền Oudinot dàn trận; ở cánh trái, lực lượng của Lauriston cùng hai sư đoàn Vệ binh khác dưới quyền Mortier sẵn sàng, phía sau họ là khối kỵ binh hùng hậu. Chỉ còn thiếu Marmont. Tin tức về Ney bỗng trở nên mơ hồ khi vào khoảng 11 giờ, báo cáo cho hay lực lượng địch mạnh đang hành quân từ Halle đến. Còn Quân đoàn Bertrand thì không thể hy vọng nữa, bởi nó đã được điều đến tăng viện cho Lindenau.

Đã hai giờ chiều, nhưng Marmont vẫn biệt tăm. Napoléon không chờ thêm và ra lệnh tổng tiến công. Các cánh quân Pháp bắt đầu vượt qua sườn đồi Wachau. Trong khi đó, về phía nam, kỵ binh Áo thuộc sư đoàn Nostitz vừa tới, lập tức tham chiến để cứu viện Quân đoàn Kleist đang bị đánh tan tác. Quân Áo chia làm hai cánh: một cánh lao thẳng vào kỵ binh Pháp, đánh bật họ khỏi Cröbern và đẩy họ về Probstheida; cánh còn lại tiến về Auenhain, tham gia trận đánh khốc liệt giữa kỵ binh Nga và Pháp. Kỵ binh Áo dù chịu tổn thất nặng nề nhưng vẫn cầm cự suốt hai giờ dưới làn hỏa lực dữ dội của pháo binh Pháp, quyết giữ bằng được con đường chiến lược tại Cröbern.

Nhận thấy thời cơ, Joachim Murat – vị Quốc vương Napoli đầy hào hoa  – quyết định dốc toàn bộ dự bị  kỵ binh vào một đòn đánh quy mô lớn . Dưới quyền ông là các đội hình kỵ binh của Pháp , Sachsen , Ba Lan và Ý  bố trí theo đội hình khối trung đoàn đặt giữa Liebertwolkwitz và Wachau  :

- Ở lớp thứ nhất là Sư đoàn Trọng kỵ 1 của Bordesoulle
- Ở lớp thứ hai là Sư đoàn Trọng kỵ 3 của Doumerc
- Ở lớp thứ ba là Sư đoàn Khinh kỵ 2 của Corbineau
- Ở lớp thứ tư là Sư đoàn Khinh kỵ 3 của Chastel với

Tổng cộng gần 10 000 kỵ binh tràn về phía trước hô to khẩu hiệu ''Vive l'Empereur!'' , đồng thời trận địa của Drouot ngừng bắn để kỵ binh tràn qua .

Dẫn đầu đòn đánh là các Trung đoàn thiết kỵ 2 , 3 ,6 nhằm vào các tiểu đoàn của Württemberg, phá tan đội hình của họ . 12 khẩu pháo của pháo binh Vệ binh Nga bị chiếm giữ .




Quân đoàn bộ binh 2 của Eugen thấy kỵ binh liền lập tức cho các tiểu đoàn lập thành đội hình chữ nhật , nhưng vì tổn thất nặng nên các tiểu đoàn này không có đủ quân số để lập thành các khối chữ nhật đủ lớn . Công tước Eugen ngay lập tức cưỡi ngựa về sau để cầu cứu tướng Duka . Trong khi đó thì thiết kỵ Pháp đã tràn qua các khối chữ nhật của bộ binh Nga , nhưng họ vẫn giữ vững . Tuy nhiên đội hình của Tiểu đoàn II. thuộc Trung đoàn Kremenchoug sau đó đã vỡ tan , khoảng 60 người bị bắt làm tù binh . Eugen lệnh cho bộ binh của mình từ từ rút về sau , vừa rút vừa giữ đội hình .

Tại khu vực Universitätholz và Stormthal , 2 trung đoàn Sachsen phi theo sau vào lỗ hổng trên chiến tuyến , sau đó rẽ sang trái và chiếm được 26 khẩu pháo ở phía bắc Stormthal.

Tướng Rayevsky - anh hùng trận Borodino 1812 , lập tức điều 12 tiểu đoàn Lựu binh bố trí ở phía nam nông trại Auenhein để bị kín chiến tuyến , đồng thời bố trí 2 Trung đoàn Thiết kỵ ở bên sườn bộ binh . Nhưng Thiết kỵ chưa kịp ổn định đội hình thì Thiết kỵ Pháp đã lao tới đánh tan đội hình Thiết kỵ Nga . Duy chỉ có các khối chữ nhật của Lựu binh là vẫn đứng vững .

Thấy thế  , các khẩu đội của Pháp liền nã đạn chùm tới tấp về phía đội hình Lựu binh Nga . Một quả bi từ đạn chùm đã bắn vỡ vai của Rayevsky .

Nhưng Murat không dừng lại mà mặc kệ lựu binh Nga ở sau lưng và tiếp tục dẫn các kỵ đội đâm sâu về phía Nam . Ông nhìn lên đồi Wachtberg ở ngay trước mắt , tại đó có Sa Hoàng Alexander của Nga , Hoàng đế Franz của Áo và Quốc vương Friedrich Wilhelm của Phổ . Tin rằng mình có thể bắt sống cả 3 người , Murat liền cho tập trung các Trung đoàn Thiết kỵ 9 , 11 , 12 và Trung đoàn Khinh kỵ 8  nhắm thẳng vào 3 vị quân vương của liên minh .


Schwarzenberg lúc đó rất lo lắng nên đã mời Sa Hoàng và Quốc Vương ngay lập tức cưỡi ngựa chạy khỏi đồi nhưng cả 2 đều từ chối và ở lại để phó thác số phận . Sa Hoàng liền lệnh cho 2 khẩu đội pháo kỵ của Vệ binh Nga (24 khẩu 12 pounder) cùng một khẩu đội pháo bộ gần đó nã đạn tới tấp về Thiết kỵ Pháp . Loạt đạn dữ dội tới mức đè bẹp tinh thần của những Thiết kỵ dũng cảm nhất . Chớp thời cơ này , Trung đoàn Cossack Vệ sĩ ngay lập tức tràn xuống đánh thẳng vào sườn của Thiết kỵ Pháp , bẽ gãy đòn tấn công của Murat .

Ngay sau đó 10 kỵ đội dự bị Phổ ập đến, đã đẩy lùi mũi nhọn kỵ binh của Murat về lại vị trí ban đầu. Màn giao tranh khốc liệt kết thúc khi pháo binh Pháp bắn yểm trợ, chặn đứng cuộc truy kích của kỵ binh liên minh . Đến 3 giờ rưỡi chiều, những kỵ đội cuối cùng của Bordesoulle rút lui sau cao điểm, để lại một bãi chiến trường phủ đầy xác ngựa và người.

Mặc dù kỵ binh giao tranh ác liệt, bước tiến của các quân đoàn Pháp không bị trì hoãn. Khoảng 2 giờ, Quân đoàn Victor cùng hai sư đoàn Vệ binh của Oudinot vượt qua cao điểm phía tây Wachau, hướng về Auenhain. Ở cánh trái, quân của Lauriston từ Liebertwolkwitz tiến công vào Güldengossa và Universitätholz, trong khi Macdonald tấn công Seifertshain.

Tới 3 giờ 30 phút, trận chiến lên đến đỉnh điểm. Các đội hình của Pháp đã tiến sát trận tuyến của liên minh. Ở cánh phải, quân Áo và Nga rút về các cao điểm phía sau Großpösna, Seifertshain và Güldengossa. Tại Markkleeberg, quân Phổ vẫn giữ vững trận địa. Bất chấp các đợt công kích dữ dội của quân Pháp, lực lượng liên minh liên tục được tăng viện, đặc biệt khi các đơn vị Vệ binh Nga – Phổ ồ ạt tiến vào chiến trường. Quân Pháp bị đẩy lùi ở nhiều điểm. Ở Auenhain, quân của Victor đẩy lui địch nhưng nhanh chóng bị kỵ binh Áo phản kích, khiến cục diện một lần nữa nghiêng về phía liên minh.

Ở cánh trái, Macdonald chiếm được Kleinpösna nhưng bị chặn đứng ở Seifertshain. Quân Pháp không thể xuyên thủng phòng tuyến vững chắc của quân Áo, đành phải rút về Kolmberg khi trời tối. Tại Universitätsholz, quân Mortier cũng không thể đánh bật quân Nga. Ở Güldengossa, quân Lauriston bị quân Nga và Phổ phản công mãnh liệt, buộc phải tháo chạy.

Tình hình càng trở nên bất lợi cho Pháp khi quân Áo dưới quyền Bianchi vượt sông Pleiße, tiến công vào Markkleeberg và Wachau. Mặc dù Vệ binh của Oudinot chống trả quyết liệt, liên minh vẫn chiếm lại Markkleeberg, đẩy lùi quân Pháp về Döhlen. Quân dự bị Áo tiến vào trận tuyến, tiếp tục dồn ép cánh phải của quân Pháp. Napoléon buộc phải điều Vệ binh Cựu và quân đoàn Souham mới đến để ngăn chặn sự sụp đổ hoàn toàn.

Bên kia sông Pleiße, quân Áo tấn công quyết liệt nhưng thất bại. Hỏa lực Pháp chặn đứng mọi nỗ lực vượt sông. Hàng loạt binh sĩ Áo ngã xuống trước cầu Connewitz. Duy nhất tại Döhlen, họ chiếm được vài khẩu pháo và đẩy lui quân Ba Lan. Khoảng 5 giờ 30 phút, khi quân Bianchi tiến sâu vào cánh phải quân Pháp, quân Merveldt mới thấy cơ hội vượt sông. Họ nhận nhầm quân Sachsen là quân Áo (do cùng mặc quân phục màu trắng), liều lĩnh tiến sang bờ bên kia. Lập tức, lính Vệ binh Pháp xả súng, làm ngựa của Bá tước Merveldt gục ngã. Ông bị bắt sống. Quân Áo bị đẩy ngược trở lại, trong khi quân Pháp thậm chí còn tiến vào lâu đài Döhlen, nhưng không thể trụ lại trước lưỡi lê quân Áo.

Hi vọng giành chiến thắng của Napoléon nhanh chóng bị dập tắt , các kỵ đội Thiết kỵ của Pháp đã bị đánh bật và quay đầu rút lui . Cùng lúc đó, đợt tấn công của Maison bị đẩy lùi khỏi Güldengossa, trong khi các đơn vị khác cũng không thể tiến thêm được bước nào . Đến khoảng 5 giờ chiều, Napoléon đứng trước một quyết định sinh tử: liệu có nên tung dự bị cuối cùng vào trận? Bởi ông vẫn còn 9000 Vệ binh Già cùng phần lớn kỵ binh Vệ binh trong tay.

Tuy nhiên, tin tức đáng lo ngại liên tục kéo đến. Lực lượng dự bị của Nga và Áo đang tiến vào chiến trường và đã được triển khai . Thêm vào đó, một phần của Vệ binh Già buộc phải điều động về Döhlen để ứng cứu hướng tây. Điều đó khiến Napoléon không còn nghi ngờ gì nữa: trận chiến không thể tiếp tục. Ông buộc phải từ bỏ ý định tổng tấn công và ra lệnh ngừng mọi hoạt động tác chiến trên toàn chiến trường.

Trận đánh dần đi đến hồi kết khi màn đêm buông xuống. Nhưng ngay cả khi bóng tối bao phủ, tiếng súng từ các tiền đồn vẫn không hề lắng xuống. Những ngôi làng như Lößnig, Cröbern, Döhlen, Wachau, Güldengossa và Markkleeberg bốc cháy dữ dội, ánh lửa phản chiếu lên bầu trời đen kịt của vùng đồng bằng Leipzig. Những đống tro tàn ấy không chỉ là dấu tích của trận chiến, mà còn là hiện thân của nỗi đau và sự hủy diệt mà không một ngòi bút nào có thể lột tả trọn vẹn.

Sau một ngày giao tranh khốc liệt, cả hai bên đều kiệt sức. Các đơn vị hầu như vẫn giữ nguyên vị trí của họ trong những giờ cuối cùng của trận đánh. liên minh kiểm soát một phòng tuyến kéo dài từ Seifertshain, băng qua khu rừng Niederholz, xuyên qua Universitätswald, Güldengossa, Auenhain, rồi đến Markkleeberg. Còn quân Pháp thiết lập trận địa dọc theo tuyến Kleinpösna-Kolmberg-Niederholz-Liebertwolkwitz-Wachau và bờ đông sông Pleiße. Một cái nhìn tổng thể cho thấy cả hai bên đều không giành được ưu thế chiến lược rõ ràng.

Khi trận đánh tại Wachau diễn ra ác liệt, tướng Gyulai của Áo tấn công ở sườn trái của Tập đoàn quân Böhmen với nhiệm vụ cắt đứt đường rút lui của quân Pháp về phía tây, bằng cách kiểm soát tuyến đường quan trọng dẫn đến Lindenau.

Gyulai hiểu rõ rằng việc chiếm Leipzig từ hướng này là điều bất khả thi, nhưng ông vẫn có thể đánh vào Lindenau để buộc Napoléon phải giữ lại một phần lớn lực lượng tại đây, ngăn họ tham chiến ở hướng chính. Để thực hiện kế hoạch này, Gyulai chia quân thành ba cánh: một cánh tiến công từ hướng Leutsch, đánh vào Lindenau từ phía bắc; hai cánh còn lại xuất phát từ Schönau và Klein-Zschocher, đánh từ hướng nam và tây nam.

Đến 7 giờ sáng, cả ba cánh quân đều vào vị trí, nhưng Gyulai vẫn chưa ra lệnh tấn công ngay. Ông kiên nhẫn chờ đợi. Chỉ đến khi tiếng pháo vang lên từ Wachau vào lúc 8 giờ sáng, ông mới phát lệnh xung phong.


Lực lượng phòng thủ của Pháp tại khu vực này khá yếu, chủ yếu là quân của tướng Margaron, bố trí theo tuyến Lindenau-Plagwitz. Kỵ binh Áo, với quân số vượt trội, dễ dàng đẩy lùi đối phương, buộc họ rút về sau tuyến pháo binh. Klein-Zschocher nhanh chóng thất thủ, nhưng Plagwitz lại là một câu chuyện khác. Tại đây, hỏa lực dày đặc của quân Pháp đã đánh bại mọi đợt công kích của quân Áo.


Trong khi đó, cánh quân Áo từ Leutsch cũng gặp khó khăn, nhưng nhờ sự kiên trì, họ đã tiến được đến tận Lindenau. Đến khoảng 11 giờ trưa, một số đơn vị thậm chí đã tràn vào bên trong ngôi làng, dấy lên hy vọng giành thắng lợi.

Nhưng rồi, tất cả nỗ lực ấy đều trở thành công cốc. Đúng lúc ấy, tướng Bertrand dẫn hai sư đoàn cùng 26 khẩu pháo tiếp viện đến chiến trường. Ngay lập tức, ông tổ chức phản công. Pháo binh Pháp khai hỏa dữ dội từ hướng tây, quét qua đội hình quân Áo. Dưới làn đạn khốc liệt này, quân Áo không thể trụ vững và buộc phải rút lui về Leutsch.

Đến 5 giờ chiều, quân Pháp phản công với hy vọng chiếm lại các vị trí đã mất. Nhưng Gyulai đã củng cố phòng tuyến của mình. Cuộc phản kích thất bại, và trận chiến tại khu vực Lindenau kết thúc với một thế giằng co. Quân Áo đóng trại tại Markranstädt, trong khi các tiền đồn của họ được bố trí tại Klein-Zschocher, Schönau và Leutsch.

Trong khi những trận đánh ác liệt diễn ra ở phía nam và tây, một trận chiến khác cũng đang âm thầm hình thành ở phía bắc Leipzig. Sau trận vượt sông Elbe làm nên tên tuổi của Yorck gần Wartenburg thì Tập đoàn quân Schlesien đã hành quân thẳng xuống phía nam ,  giờ đây họ đã xuất hiện ngay sau lưng của Napoléon ở phía bắc Leipzig .



Thống chế Marmont, theo lệnh Napoléon, đã bố trí quân tại tuyến Breitenfeld-Lindenthal-Wahren, tạo thành một hệ thống phòng thủ vững chắc. Tuy nhiên, phạm vi phòng tuyến quá rộng so với quân số của ông. Khi yêu cầu tiếp viện, ông chỉ nhận được lời hứa sẽ có thêm quân từ Souham.

Sáng ngày 16, các trinh sát của Marmont phát hiện quân Phổ dưới quyền Blücher đang tiến đến từ Halle. Nhưng khi ông gửi tin báo về, Napoléon lại không tin rằng quân Phổ lại ở gần đến thế . Ông ra lệnh cho Marmont di chuyển về phía nam để sẵn sàng ứng chiến.

Marmont chưa kịp rút quân thì quân Phổ đã xuất hiện. Cùng lúc đó, thống chế Ney, chỉ huy toàn bộ lực lượng ở phía bắc Leipzig, cũng có mặt tại hiện trường. Cả hai nhanh chóng quyết định rằng họ không thể tuân theo lệnh của Hoàng đế. Rời bỏ vị trí lúc này đồng nghĩa với việc phơi lưng trước đòn đánh của Blücher. Vì vậy, Marmont và Ney thống nhất rằng Quân đoàn Marmont sẽ lập trận tuyến ngay tại chỗ, trong khi Quân đoàn Souham bố trí bên cánh phải để yểm trợ.


Napoléon, khi nhận được báo cáo này, đã bác bỏ quyết định của hai thống chế. Ông ra lệnh Quân đoàn Souham phải giữ vai trò dự bị thay vì tham chiến trực tiếp. Điều này khiến Ney chỉ có thể triển khai các lực lượng kỵ binh của Fournier, Defrance và sư đoàn yếu ớt của Dombrowski đến phòng thủ Wiederitzsch.

Cùng lúc đó, liên minh cũng đang bối rối. Blücher, nhận thấy sự chậm trễ của quân Thụy Điển nên buộc phải thay đổi kế hoạch. Đáng lẽ quân Thụy Điển sẽ tiến về Leipzig để phối hợp với quân Phổ, nhưng tin tức mới đến lúc 8 giờ sáng báo rằng họ chỉ tiến đến Landsberg và không thể yểm trợ Blücher.

Bất chấp điều đó, Blücher quyết định mở màn trận đánh. Ông muốn ít nhất cũng giữ chân một phần quân Pháp, không để họ kéo quân về phía nam. Lệnh tấn công được ban ra: Langeron đánh vào Freiroda và Radefeld, Yorck tiến vào Lindenthal, còn Sacken và St. Priest giữ vai trò dự bị.

Khoảng 10 giờ sáng , quân Phổ bắt đầu tấn công . Lực lượng chặn hậu của Marmont, vốn vẫn còn đóng tại Radefeld, lập tức rút lui. Nhưng thay vì rút về Hohen-Ossig như dự đoán của Blücher thì họ lại tiến về khu rừng nhỏ tại Lindenthal. Nhận thấy điều này, Blücher liền ra lệnh truy kích.

Khi đến Lützschena, Yorck sắp xếp lực lượng chuẩn bị tiến công Lindenthal. Lúc này, quân Nga đang từ từ tiến về Groß- và Klein-Wiederitzsch, trong khi ở cánh phải, tiền quân của Yorck dưới sự chỉ huy của Thiếu tá von Hiller tiến dọc theo sông Elster, vượt qua Stahmeln và Wahren để tiếp cận Möckern. Đến khoảng hai giờ chiều thì đã nhìn rõ đội hình của địch . Nhận thức được tầm quan trọng của Möckern, Yorck quyết định mở một đợt tấn công trực diện vào ngôi làng này, dù thực tế lẽ ra nên đánh vào cánh trái để tránh điểm mạnh nhất của quân Pháp.


Trong khi pháo binh đôi bên giao tranh ác liệt, bộ binh tiền quân của Yorck tiến vào Möckern nhưng nhanh chóng bị đánh bật ra với tổn thất nặng nề. Đợt tấn công thứ hai cũng kết thúc trong thất bại. Đến lần thứ ba, quân Phổ mới tiến sâu hơn vào làng, song vẫn bị quân Pháp tổ chức phản kích mạnh mẽ, đẩy lùi họ ra ngoài. Trận chiến trở nên vô cùng khốc liệt khi quân Pháp liên tục phản công nhằm giành lại thế chủ động. Chỉ khi bốn tiểu đoàn tiếp theo của Yorck đến tiếp viện, họ mới có thể đánh bật quân Pháp khỏi Möckern, nhưng khi đuổi theo đến mép làng, họ bị hỏa lực pháo binh dữ dội ngăn cản nên buộc phải rút lui từng bước. Quân Pháp tràn vào chiếm lại làng Möckern .


Marmont, từ đầu đã nhận định rằng cánh trái là điểm yếu nhất của mình, liền điều thêm bộ binh về hướng này và ra lệnh toàn bộ quân đoàn phải chuyển hướng để củng cố phòng tuyến tại Möckern. Vì vậy, quân Phổ liên tục đụng phải các lực lượng tiếp viện của Pháp.

Cùng lúc đó, Cụm Quân đoàn Langeron của Nga tấn công từ hướng Wiederitzsch-Birckholz. Sau một trận chiến ác liệt, họ đánh tan Sư đoàn Dombrowski của Ba Lan, buộc đối phương tháo chạy về Eutritzsch, đồng thời chiếm được một số pháo và bắt giữ hàng trăm tù binh. Tuy nhiên, sau một thời gian rối loạn, quân Ba Lan lại tổ chức phản công, đẩy lui quân Nga khỏi Wiederitzsch. Cuộc chiến tiếp tục diễn ra giằng co cho đến khi quân Nga một lần nữa giành lại các vị trí đã mất bằng lưỡi lê.

Đúng lúc này, từ xa xuất hiện một đội hình lớn di chuyển giữa Klein-Bodelwitz và Göbschelwitz. Đó thực ra là các đoàn xe hậu cần và đội hộ tống của Quân đoàn Souham đang tiến về Schönfeld, nhưng Langeron lại tưởng đó là một lực lượng mới của địch,nên lập tức dừng cuộc tiến quân để đối phó. Sự hiểu lầm này khiến quân Nga chững lại, còn tướng Delmas của Pháp, khi nhận ra nguy hiểm, đã tổ chức một cuộc rút lui gấp rút về Plösen, bỏ lại sáu khẩu pháo và nhiều xe tiếp tế. Đến khi trời tối, cả hai bên đều đã kiệt sức, và quân Pháp tại Wiederitzsch rút lui về Eutritzsch.

Yorck nhận ra rằng nếu tiếp tục chờ quân Langeron chiếm Wiederitzsch, lực lượng tiền quân của ông sẽ chịu thương vong vô ích. Do đó, ông quyết định tăng cường trận địa pháo lên thành 88 khẩu, đồng thời điều lữ đoàn Mecklenburg tiến sát Möckern để hỗ trợ Hiller. Đúng lúc này, tiền quân của ông lại mở đợt tấn công mới vào Möckern với kèn trống thúc giục.

Trận chiến nhanh chóng đạt đến đỉnh điểm. Lữ đoàn Mecklenburg thành công đẩy lùi bộ binh Pháp và tiến sát vào trận địa pháo binh của Marmont. Möckern bị tái chiếm, quân Pháp bị dồn về mép làng. Tuy nhiên, Marmont lại có trong tay lực lượng dự bị, và Sư đoàn Compans nhanh chóng phản công mạnh mẽ, đánh tan đội hình quân Phổ và đẩy lùi họ khỏi điểm cao chiến lược . Bên trong làng Möckern, trận chiến tiếp diễn với mức độ tàn khốc chưa từng có.  Không có khoan dung, chỉ có những lưỡi lê xuyên thẳng vào đối phương , cả 2 phe đều không bắt tù binh mà chém giết tới cùng .

Đến năm giờ chiều, tình hình trở nên nguy ngập khi chỉ còn lại lữ đoàn Steinmetz là chưa tham chiến. Nếu đợt tấn công tiếp theo thất bại, Yorck sẽ không còn quân dự bị để triển khai. Dưới sức ép khủng khiếp của hỏa lực Pháp, cuộc tấn công ban đầu của lữ đoàn này bị chặn đứng. Lần lượt, các đơn vị Phổ bị đánh bật khỏi các vị trí đã chiếm được. Trong khoảnh khắc nguy cấp, Yorck quyết định tung toàn bộ kỵ binh vào trận.

Mệnh lệnh được ban ra, và kỵ binh Phổ lập tức lao vào quân Pháp. Trận chiến trở thành một cơn lốc hỗn loạn khi kỵ binh hai bên đâm chém lẫn nhau. Đội hình của Marmont nhanh chóng tan vỡ. Những người Pháp trên đường tấn công bị đẩy lùi, trong khi phía sau họ là một đám đông hỗn loạn không thể kiểm soát. Kỵ binh Phổ chém giết không thương tiếc, đẩy quân địch vào thế tuyệt vọng.

 

Ảnh : Khoảnh khắc cuối cùng của Thiếu tá von Kosigk

Ảnh : Thiếu tá von Sohr  - chỉ huy Trung đoàn Khinh kỵ Brandenburg , số 3 , bị thương , cầm thanh đao bằng tay trái .

Ảnh : Trung đoàn Khinh kỵ Brandenburg , số 3 tại Möckern


Quân Phổ thu giữ 35 khẩu pháo, 2 lá cờ, 5 xe tiếp đạn và bắt giữ 400 tù binh. Bộ binh Phổ tiến lên, quét sạch quân địch khỏi Möckern, đẩy họ lùi về Gohlis. Cánh quân của Horn và Hünerbein tiếp tục đánh thẳng vào trung tâm và cánh phải của quân Pháp, buộc họ phải rút về Eutritzsch.

Dù kiệt sức, quân Phổ vẫn giữ vững trận địa trên chiến trường đẫm máu. Dưới màn đêm dày đặc, Marmont cùng tàn quân rút lui trong trật tự về bờ trái của Rietschkebach, tập hợp lại giữa Gohlis và Eutritzsch. Đối diện họ, Yorck và những người lính chiến thắng đóng trại trên bãi chiến trường ngập tràn thi thể và dấu vết của cuộc giao tranh kinh hoàng trong ngày hôm đó.

Khi mối đe dọa từ Düben đã không còn, Blücher lệnh cho Sacken và St. Priest tiến về hỗ trợ Yorck và Langeron. Nhưng khi họ đến nơi thì trận chiến đã kết thúc, vinh quang ngày hôm đó hoàn toàn thuộc về Quân đoàn của Yorck.

Quân Phổ bắt được 2 000 tù binh, thu giữ trượng 1 đại bàng , 2 lá cờ, 40 khẩu pháo và nhiều xe chở đạn dược. Đổi lại thiệt hại cũng rất khủng khiếp .

Trong số 20 800 binh sĩ của Yorck lúc sáng sớm, đến chiều tối chỉ còn lại 15 200 người. Bộ binh, vốn có 16 120 người, giờ đây chỉ còn chưa đầy 11 000. Trong số đó có 172 sĩ quan đã tử trận hoặc bị thương, trong đó có 22 sĩ quan tham mưu , 7 chỉ huy lữ đoàn và 3 chỉ huy trung đoàn .

Sáng ngày 17, một buổi lễ cầu nguyện trang nghiêm được tổ chức trên chiến trường. Toàn bộ quân đoàn tập hợp lại, nhiều người gần còn không có sĩ quan chỉ huy cùng với các lá quân kỳ rách nát, hàng ngũ xơ xác cầu nguyện . Sau buổi lễ, quân đoàn được tái tổ chức lại thành hai sư đoàn, dưới quyền của các tướng von Horn và von Hünerbein.

Langeron cũng chịu tổn thất nặng nề, mất khoảng 1 500 quân. Họ cũng giành được một số chiến lợi phẩm, bao gồm 1 lá cờ, 13 khẩu pháo, nhiều xe hậu cần và hàng trăm tù binh.

Về phía quân Pháp, không có con số thống kê chính xác về thương vong. Bản thân Marmont ước tính rằng họ mất từ 6 000 đến 7 000 quân. 184 sĩ quan Pháp đã tử trận, và danh sách những người bị thương bao gồm cả Marmont cùng hai chỉ huy sư đoàn dưới quyền là Compans và Friederichs.

Kết thúc ngày 16 tháng 8 , vị trí của các lực lượng trên chiến trường Leipzig là như sau :



Nhìn lại những diễn biến trận chiến vào ngày 16 tháng 10 , có thể thấy rằng nếu Schwarzenberg tuân thủ chặt chẽ kế hoạch ban đầu,thì lực lượng liên minh trên bờ phải sông Pleiße có lẽ đã chịu một thất bại thảm khốc. Việc chia tách giữa lực lượng Vệ binh Nga-Phổ và lực lượng dự bị của Áo, cùng với quyết định kịp thời đưa quân dự bị này sang bờ phải, mới giúp họ tránh khỏi nguy cơ đó. Thành công này không thể phủ nhận là nhờ vào sự can thiệp quyết đoán của Sa hoàng.

Ý tưởng mở một cuộc tấn công mạnh qua Connewitz để đánh vào sau lưng quân Pháp trên lý thuyết là đúng đắn, và nếu điều kiện địa hình cho phép triển khai lực lượng lớn, nó có thể dẫn đến một thắng lợi vang dội. Nhưng trên thực tế, kế hoạch này ngay từ đầu đã không khả thi. Schwarzenberg có thể biện hộ rằng ông không trực tiếp khảo sát địa hình giữa sông Elster và Pleiße, phải dựa vào những tấm bản đồ không chính xác thời bấy giờ, và tin tưởng vào kiến thức của tướng von Langenau, cựu tham mưu trưởng Sachsen, người mà thực chất cũng không nắm rõ địa hình khu vực.

Các quyết định của Wittgenstein cũng không thể được xem là hợp lý, vì chúng không hỗ trợ được kế hoạch tổng thể của Bộ Chỉ huy tối cao. Nếu ngay từ đầu, ông tấn công Markkleeberg và Wachau với lực lượng mạnh hơn, đẩy lui Victor và Poniatowski, thì con đường qua Connewitz đã có thể được khai thông từ phía sau. Thậm chí nếu vào buổi sáng, trước khi Macdonald đến, ông tấn công cánh trái sơ hở của quân Pháp từ đồi Kolmberge, thì chiến tuyến Wachau-Liebertwolkwitz đã không thể trụ vững. Nhưng tất cả những cơ hội đó đã không được nắm bắt.

Cánh trái của liên minh mở màn cuộc tấn công một cách rời rạc, bị chia cắt bởi những khoảng trống lớn và tiến công theo từng đợt riêng lẻ. Trong khi đó, đòn tấn công cần thiết từ cánh phải – nơi đặt kỳ vọng vào hai đội hình còn lại – lại bị trì hoãn. Đến khi lực lượng chủ chốt của cánh trái và trung tâm đã suy kiệt trong cuộc chiến vô vọng, thì viện binh của Macdonald đến tăng cường cho chiến tuyến của Pháp , làm cho những nỗ lực tấn công cuối cùng trở nên vô nghĩa. Chỉ có tinh thần chiến đấu kiên cường của binh sĩ, sự vững vàng của các sĩ quan cấp dưới, và một chuỗi may mắn bất ngờ mới giúp liên minh tránh khỏi một thất bại hoàn toàn.

Việc nhận xét chiến thuật của Napoléon trong trận chiến này là một điều khó . Chúng ta không có đầy đủ thông tin về các báo cáo mà ông nhận được trong ngày, cũng như những mệnh lệnh mà ông ban hành. Không có bản tường thuật chính thức từ các tướng lĩnh dưới quyền ông, cũng không có tài liệu đáng tin cậy . Tuy nhiên, có một điều rõ ràng: Napoléon đã bị bất ngờ trước đòn tấn công sớm của liên minh.

Ban đầu, ông dự định chủ động tấn công và bao vây cánh phải của đối phương. Nhưng đợt tấn công dữ dội của quân đoàn Kleist và Württemberg, cùng với sự chậm trễ của Macdonald, đã làm đảo lộn kế hoạch của ông. Bị buộc phải phản ứng, ông phải kéo quân đoàn Augereau và lực lượng dự bị – bao gồm cả Vệ binh Trẻ – về phía trung tâm và cánh phải để ứng phó với tình hình. Trong hoàn cảnh đó, kế hoạch bao vây liên minh chỉ có thể thành công nếu Marmont và Ney đến kịp để hỗ trợ Macdonald.

Sau khi đã tái bố trí lực lượng, Napoléon có trong tay một ưu thế áp đảo trước ba cánh quân yếu ớt của liên minh ở phía trước. Nếu vào lúc 11 giờ sáng, khi liên minh vẫn chưa có lực lượng dự bị tiếp viện, ông huy động pháo binh dự trữ, tập trung kỵ binh tại Wachau và tung Victor, Lauriston cùng Vệ binh Trẻ tấn công Auenhain và Güldengossa – như ông đã làm ba giờ sau đó – thì liên minh khó có thể trụ vững. Ba cánh quân yếu kém của họ chắc chắn sẽ bị đẩy lùi qua sông Göselbach, và các lực lượng dự bị đến sau cũng sẽ bị cuốn vào thất bại này.

Tuy nhiên, thay vì tận dụng cơ hội đó, Napoléon lại trì hoãn. Ông chờ đợi sự can thiệp của Macdonald, Marmont và Souham ở cánh trái – đây là một sai lầm lớn. Sự chậm trễ này, cộng với việc các quân đoàn kia không đến kịp, chính là nguyên nhân chính dẫn đến thất bại của ông trong ngày hôm đó.

Có vẻ như đến khoảng trưa, Napoléon đã từ bỏ ý định bao vây cánh phải của liên minh . Nhận thấy các đợt tấn công rời rạc của Wittgenstein, ông nghĩ đến việc đột phá từ hướng trung tâm để giành chiến thắng quyết định. Nếu thành công, điều này cũng có nghĩa là tập đoàn quân chủ lực của liên minh sẽ bị chặt làm đôi . Nhưng kỳ lạ thay, vị Hoàng đế vốn nổi tiếng với khả năng tận dụng thời cơ lại do dự một cách khó hiểu. Những trận đánh khốc liệt bên sông Pleiße và sự chậm trễ của Marmont dường như khiến ông lưỡng lự trong việc huy động toàn bộ lực lượng vào đợt tấn công chính diện.

Khi cuối cùng Napoléon ra lệnh tấn công vào lúc 2 giờ chiều, tình thế đã xoay chuyển bất lợi cho ông. Schwarzenberg đã nhận được tiếp viện, một phần đã có mặt trên chiến trường, phần còn lại đang tiến đến. Những đợt tấn công của kỵ binh vào cánh phải và trung tâm – đáng lẽ có thể giành thắng lợi một giờ trước đó – giờ đây bị đánh bật bởi lực lượng quá đông đảo của đối phương. Điều này cũng làm suy yếu tinh thần của các đơn vị bộ binh Pháp đang tiến công.

Đến cuối ngày, dù Napoléon vẫn giữ được chiến trường, nhưng đó chỉ là một chiến thắng nửa vời – mà trong hoàn cảnh của ông, một nửa chiến thắng cũng chẳng khác gì một thất bại hoàn toàn. Số phận của ông đã được định đoạt: về mặt quân sự, chỉ còn một con đường duy nhất dành cho ông – rút lui ngay lập tức khỏi Leipzig và từ bỏ toàn bộ Vương quốc Sachsen .

Biên chế ước tính của các lực lượng của liên minh cho ngày 17.10.1813 .

 

Màn đêm đã buông xuống trên chiến trường rộng lớn quanh Leipzig, nhưng sự tạm dừng trong cuộc giao tranh khốc liệt chỉ mang lại ít ỏi sự nghỉ ngơi cho những người lính. Thiếu thốn trăm bề, từ thuốc men, lương thực cho đến áo ấm, hàng ngàn binh sĩ gục ngã trong giá lạnh và mưa gió, những người lẽ ra có thể được cứu sống nếu tình hình khác đi.

Napoléon,  rời đến Meusdorf, nơi ông hạ trại cùng với Vệ binh Già. Chính tại đây, ông tiếp kiến Bá tước Merveldt, chỉ huy Cụm Quân đoàn của Áo bị bắt giữ trong trận đánh. Cũng tại nơi này, những bản báo cáo từ khắp chiến trường lần lượt được đưa đến trong đêm. Bức tranh toàn cảnh hiện ra trước mắt ông vô cùng ảm đạm: quân của Marmont và Dombrowski ở phía bắc Leipzig đã chịu tổn thất nặng nề, Poniatowski mất một phần ba quân số, còn Augereau tổn thất một nửa lực lượng. Victor và Lauriston đã kiệt quệ, Bertrand và Macdonald cầu viện gấp, đạn dược cạn kiệt, binh sĩ mệt mỏi rã rời. Trong khi đó, liên minh lại không ngừng được tiếp viện , những đạo quân mới từ bốn phương kéo đến như nấm sau mưa.

Napoléon hiểu rằng tình hình đã trở nên rõ ràng hơn vào buổi sáng ngày 17. Dù quân Pháp đã cầm cự được tại Wachau và giành một vài thắng lợi nhỏ, nhưng thất bại tại Möckern đã giáng một đòn chí mạng vào hy vọng của ông. Không thể mong chờ rằng kẻ địch sẽ bỏ cuộc như đã từng làm sau trận Dresden. Cuộc chiến sẽ tiếp tục, và nếu chiến sự kéo dài, cơ hội lật ngược tình thế là rất mong manh. Ngay cả khi không biết rõ về sự xuất hiện của tập đoàn quân của Bennigsen, Colloredo và Thái tử Thụy Điển, thì chỉ riêng việc Tập đoàn quân Schlesien đến Leipzig đã đủ khiến cán cân lực lượng nghiêng về phía liên minh. Trong khi đó, quân Pháp gần như không còn quân tiếp viện, ngoại trừ một số binh sĩ của Reynier. Những đơn vị từng tham chiến ngày 16 giờ đây đã bị hao mòn cả về thể xác lẫn tinh thần. Trận chiến tiếp theo sẽ không có cơ hội thắng lợi, và cách duy nhất để bảo toàn quân đội là lập tức rút lui.

Nếu quyết định này được đưa ra ngay trong ngày 17, toàn bộ các quân đoàn Pháp có thể tập trung quanh Leipzig và vượt qua Elster trước khi liên minh kịp áp sát thành phố. Một lực lượng chặn hậu, đủ mạnh để giữ chân quân địch tại các tuyến phòng thủ cũ của Leipzig, có thể cầm cự cho đến khi quân chủ lực vượt sông an toàn. Sau cùng, việc đánh sập cầu tại Lindenau sẽ khiến liên minh không thể truy kích ngay lập tức, và Napoléon có thể tái tổ chức phòng tuyến tại sông Saale.

Nhưng liệu ai có thể trách Napoléon vì đã không lập tức đưa ra quyết định này? Quân của ông vẫn chưa thực sự cảm nhận được sự thất bại. Việc giữ vững niềm tin chiến thắng, không chỉ với quân sĩ mà còn với cả thế giới, mang ý nghĩa không chỉ về mặt quân sự mà còn cả chính trị. Nếu rút lui ngay lúc này, ông chẳng khác nào thừa nhận thất bại và tự đóng dấu chấm hết cho hy vọng giành lại thế chủ động. Hơn thế nữa, một cuộc rút quân ngay lập tức đồng nghĩa với việc để mặc ba tập đoàn quân của địch hợp nhất, khiến phòng tuyến sông Saale trở nên vô dụng. Và khi đó, việc từ bỏ bờ tây sông Rhine (ie. rút lui về Pháp) chỉ còn là vấn đề thời gian.

Quan trọng hơn, số phận của 140 000 binh sĩ Pháp bị bỏ lại trong các pháo đài rải rác khắp Đức sẽ ra sao? Họ có thể tự tổ chức lại và quay về Pháp hay không? Điều này khó xảy ra. Bỏ rơi họ đồng nghĩa với việc từ bỏ cơ hội cuối cùng để tổ chức phòng tuyến vững chắc bên bờ Rhine.

Trong bối cảnh đó, Napoléon cân nhắc đến một khả năng khác: đàm phán. Ông giao cho Bá tước Merveldt sứ mệnh liên lạc với các lãnh đạo liên minh để thảo luận về một thỏa thuận đình chiến. Napoléon sẵn sàng từ bỏ Hannover, các thành phố Hanse, Ba Lan, Tây Ban Nha và Illyria để có được một nền hòa bình khả dĩ. Nhưng liệu ông có thực sự tin rằng những nhượng bộ này có thể giúp ông rút lui trong danh dự?

Dù vẫn hy vọng vào đàm phán, Napoléon không hề buông lỏng việc chuẩn bị cho cuộc chiến tiếp theo. Sáng ngày 17, toàn quân được báo động, sẵn sàng chiến đấu. Trong cơn mưa tầm tã, họ chờ đợi đợt tấn công tiếp theo của quân địch—nhưng điều đó đã không xảy ra.

Khi tin tức về tổn thất ngày 16, tình trạng thiếu đạn dược, sự xuất hiện của Tập đoàn quân Ba Lan và một đạo quân Bayern tại phía sau truyền đến, Napoléon cuối cùng cũng quyết định rút lui. Tuyến đường duy nhất khả thi là qua Weißenfels. Buổi tối hôm đó, ông ra lệnh cho quân đoàn Bertrand, được tăng viện bởi sư đoàn Guilleminot và lữ đoàn kỵ binh Quinette, tiến về hướng này. Cùng lúc, các đoàn xe hậu cần cũng được điều động rời đi trong đêm. Marschall Mortier nhận lệnh thay Bertrand bảo vệ khu vực Lindenau.

Thế nhưng, một điều khó hiểu là trong khi mọi kế hoạch rút lui đang dần hình thành, lại không có bất kỳ biện pháp nào được thực hiện để gia tăng số lượng cầu vượt sông Pleiße và Elster—một sai lầm sẽ sớm khiến quân Pháp phải trả giá đắt.

Trong khi đó, liên minh tràn ngập khí thế lạc quan. Các tướng lĩnh tin rằng với quân tiếp viện từ Bennigsen, Colloredo và Bubna sắp đến, chiến thắng chắc chắn nằm trong tay họ. Schwarzenberg ra lệnh duy trì đội hình cũ: Colloredo sẽ giữ hậu tuyến tại Magdeborn, Bennigsen đóng quân ở Naunhof. Nhưng vì Bennigsen đến muộn, Schwarzenberg quyết định hoãn cuộc tấn công đến 2 giờ chiều ngày 17.

Khi giờ hẹn đến, các tướng lĩnh họp chiến sự tại cao điểm phía sau Güldengossa. Vì quân Pháp vẫn án binh bất động, quân Colloredo vừa đến trong tình trạng kiệt sức, còn Bennigsen vẫn chưa xuất hiện, và vì không thể trông chờ vào Thái tử Thụy Điển, cuộc tấn công được hoãn lại thêm một ngày, đến sáng ngày 18 tháng 10.

Trong khi đó, tại hướng phía Bắc, Tập đoàn quân Schlesien của Blücher vẫn tin rằng giao tranh sẽ tiếp diễn vào ngày 17. Bởi không nhận được lệnh từ bộ tư lệnh tối cao, ông quyết định tấn công các đơn vị Pháp còn đóng ở phía bắc sông Parthe nhằm mở đường liên lạc với Tập đoàn quân chủ lực . Đến 10 giờ sáng, quân Pháp đã bị đẩy lùi khỏi tất cả các vị trí phía bắc Parthe, trừ Vorwerk Pfaffendorf. Nhưng khi Blücher định tiếp tục vượt sông để tiến công ,nhưng sau đó thì tin tức Schwarzenberg hoãn trận đánh được gửi đến khiến ông cũng quyết định tạm dừng. Vậy là kết thúc Trận Leipzig ngày 2.


Trong đêm trước trận đánh quyết định ngày 18 tháng 10, tất cả các đơn vị của Napoléon đóng quanh Leipzig được lệnh di chuyển gần hơn về phía thành phố. Những toán quân nhỏ vẫn được bố trí tại tuyến Wachau-Liebertwolkwitz, duy trì các đống lửa trại nhằm che giấu sự di chuyển của lực lượng chính khỏi con mắt của liên minh.

Lực lượng Pháp tái tổ chức phòng tuyến mới, kéo dài từ Connewitz đến Dölik dọc theo sông Pleiße, rồi men theo các làng Probstheida, Zuckelhausen, Holzhausen đến Zweinaundorf, tiếp tục qua Paunsdorf, Schönfeld và dọc theo dòng sông Parthe đến Gohlis. Bố trí binh lực trong đội hình này như sau:

Ở cánh phải, dưới sự chỉ huy của Murat, có các quân đoàn của Poniatowski, Augereau và Victor giữ tuyến từ Connewitz đến Probstheida. Lực lượng cận vệ Hoàng đế được bố trí phía sau tại Stötteritz, cùng với phần lớn kỵ binh.

Ở trung tâm, do Macdonald chỉ huy, Quân đoàn XI trấn giữ tuyến Zuckelhausen—Holzhausen—Steinberg. Phía sau, giữa Stötteritz và Probstheida, có Quân đoàn Lauriston và Quân đoàn kỵ binh Sébastiani, một phần lực lượng đóng tại Zweinaundorf và Mölkau.

Ở cánh trái, dưới quyền Ney, Sư đoàn Sachsen đóng tại Paunsdorf, nối tiếp bên trái là Sư đoàn Durutte và Quân đoàn Marmont. Phía sau, tại tuyến thứ hai giữa Schönfeld và Volkmarsdorf, là Quân đoàn Souham và một phần Kỵ binh Arrighi.

Trong thành phố Leipzig và dọc theo Pleiße đến Gohlis là Sư đoàn Dombrowski đồn trú tại Leipzig cùng Kỵ binh Lorge. Còn tại Lindenau, hai sư đoàn Vệ binh Trẻ của Mortier đóng giữ. Sau tổn thất trong các trận trước đó, Napoléon vẫn còn khoảng 160 000 quân và 630 khẩu pháo sẵn sàng chiến đấu.


Sau những ngày dài chìm trong mưa gió, buổi sáng ngày 18 tháng 10 mở ra với ánh mặt trời rực rỡ, chiếu sáng cả bầu trời Đức . Từ trước bình minh, các đạo quân của liên minh đã sẵn sàng tiến bước. Từng cánh quân, từng đoàn binh , từng hàng pháo được triển khai theo kế hoạch đã định trước. Văn bản mệnh lệnh tấn công của Schwarzenberg đã bị đánh mất trong kho lưu trữ , nhưng ý định của Bộ Chỉ huy Tối cao được thể hiện rõ ràng qua việc bố trí các đội hình vào lúc rạng sáng.

Lực lượng liên minh chia thành sáu cánh quân, mỗi cánh mang một nhiệm vụ  riêng biệt.

Cánh quân thứ nhất, do Thân vương Hessen-Homburg chỉ huy, bao gồm các quân đoàn Colloredo và Merveldt, các sư đoàn Bianchi, Weißenwolf và kỵ binh Nostik. Một phần trong cánh quân này, gồm Sư đoàn Lederer và một phần Sư đoàn Alois Liechtenstein, được giao nhiệm vụ phòng thủ Connewitz và hỗ trợ tấn công từ bờ trái sông Pleiße. Phần còn lại tiến từ Markkleeberg dọc theo con đường chính dẫn về Leipzig.

Cánh quân thứ hai, dưới quyền Tướng Barclay, bao gồm Quân đoàn Kleist, Wittgenstein, cùng các lực lượng Vệ binh và Dự bị Nga-Phổ, tấn công trực diện vào Wachau và Liebertwolkwitz. Sau khi chiếm được các ngôi làng này, họ sẽ tiến về Probstheida.

Cánh quân thứ ba, do Tướng Bennigsen chỉ huy,  là Tập đoàn quân Ba Lan, Sư đoàn Bubna, Quân đoàn Klenau, Lữ đoàn Zieten và đội Cossack của Platov. Họ có nhiệm vụ vu hồi cánh trái của quân Pháp, tiến từ Fuchshain và Seifertshain về phía Zuckelhausen và Holzhausen.

Cánh quân thứ tư, là Tập đoàn quân Bắc, được tăng cường bởi Cụm Quân đoàn Langeron và St. Priest. Họ sẽ vượt sông Parthe gần Taucha để dần kết nối với lực lượng chính.

Cánh quân thứ năm, bao gồm phần còn lại của Tập đoàn quân Schlesien, được giao nhiệm vụ tấn công đông bắc Leipzig.

Cánh quân thứ sáu, do Thống chế Gyulai chỉ huy, bao gồm Cụm Quân đoàn Gyulai, Sư đoàn Moritz Liechtenstein và các đơn vị biệt phái Mensdorff và Thielmann. Họ sẽ tiến từ Klein-Zschocher về phía Lindenau.

Sau những tổn thất nặng nề trong trận chiến ngày 16 tháng 10 , liên minh chỉ còn khoảng 298 000 binh sĩ và 1 360 khẩu pháo để quyết chiến với Napoléon.

 


Khi ánh mặt trời vừa lên cao, báo hiệu một ngày mới, liên minh bắt đầu tiến quân. Tin tức về việc Bá tước Merveldt đến Bộ Tư lệnh Tối cao vào rạng sáng không còn tác động gì đến quyết định của các tướng lĩnh. Mọi người đều thống nhất rằng lúc này không còn thời gian để đàm phán, bất cứ thư từ nào gửi tới Hoàng đế Napoléon cũng đều là thừa thãi.

Ở phía bên kia, Napoléon đã làm việc suốt năm giờ trước khi cuộc tấn công bắt đầu. Rời khỏi tổng hành dinh tại Stötteritz từ khi trời còn tối, ông trực tiếp đến Probstheida để kiểm tra phòng tuyến. Từ đó, ông đến Reudnitz để hội ý với Thống chế Ney, rồi sang Lindenau gặp Bertrand để bàn bạc về kế hoạch rút lui nếu cần thiết. Đến tám giờ sáng, ông quay lại Stötteritz, kiểm tra trận địa, rồi tiến đến nhà máy thuốc lá Quandt gần Probstheida, nơi ông quan sát trận chiến diễn ra gần như suốt cả ngày hôm đó.

Trong khi đó, Thân vương Hessen-Homburg, sau khi nhận được tin quân Pháp rút khỏi Wachau, lập tức chỉ huy Tiền quân - Sư đoàn Hardegg - tiến lên Döhlen. Các cao điểm giữa Döhlen và Wachau chỉ được quân Pháp giữ một cách hời hợt, và trước sức ép quá lớn, họ buộc phải rút lui về tuyến chính. Sau một trận giao tranh ác liệt, quân Áo chiếm được Döhlen.

Cánh phải của quân Hessen-Homburg, Sư đoàn Wimpfen, tiến quân qua Wachau và dừng lại trên các cao điểm phía bắc và đông làng để chờ các cánh quân lân cận. Lúc này, chỉ có vài cuộc đụng độ nhỏ với các toán quân chặn hậu của Pháp đang rút lui.

Trong khi đó, cánh trái - Sư đoàn Bianchi - tiến về Markkleeberg, rồi tiếp tục đánh thẳng vào Dölitz. Tại đây, họ chạm trán với một phần của Quân đoàn Augereau. Một cuộc tấn công bằng lưỡi lê quyết liệt đẩy quân Pháp khỏi Dölitz, buộc họ phải rút về Lößnig. Tuy nhiên, tại đây, quân Pháp kháng cự vô cùng mạnh mẽ, khiến bước tiến của liên minh bị chặn lại.

Từ trung tâm của cánh quân thứ nhất, một bộ phận của Sư đoàn Bianchi và Liechtenstein, được khích lệ bởi thắng lợi ở cánh trái, đã mở một cuộc tấn công táo bạo vào khu rừng nhỏ phía đông bắc Döhlen. Mặc dù địa hình bất lợi và phải hứng chịu tổn thất lớn, họ cuối cùng cũng giành được thắng lợi sau một trận chiến khốc liệt.

Những thất bại này khiến Napoléon lo lắng về nguy cơ bị cắt đứt khỏi sông Pleiße. Ông lập tức phái Thống chế Oudinot cùng Sư đoàn Decouz của Vệ binh Trẻ đến khu vực Lößniger Teichen để chiếm lại những vị trí đã mất. Khi Vệ binh Trẻ đến nơi, đó cũng là lúc quân Pháp tổng phản công. Dưới sự dẫn đầu của Vệ binh, cùng với quân của Poniatowski và Augereau, họ đánh bật quân Hessen-Homburg khỏi vị trí. Chính Thân vương Hessen-Homburg cũng bị thương nặng, buộc phải trao quyền chỉ huy lại cho Colloredo.

Dölitz nhanh chóng rơi vào tay quân Pháp, và họ tiếp tục tấn công dữ dội vào Döhlen. Tình thế nguy ngập đến mức Schwarzenberg, khi đến Dölitz vào thời điểm này, đã phải điều Quân đoàn Lựu binh của Rayevsky và Sư đoàn Thiết kỵ 3 sang hỗ trợ cánh trái. Đồng thời, ông cũng gửi lệnh cho Gyulai hành quân từ Lindenau đến Cröbern để tiếp ứng. Trong lúc chờ quân tiếp viện, Sư đoàn Weißenwolf được điều từ lực lượng dự bị vào tuyến đầu. Lữ đoàn này liên tiếp đẩy quân vào Dölitz trong những đợt giao tranh khốc liệt. Sau nhiều giờ chiến đấu đầy tổn thất, liên minh chiếm lại được ngôi làng, nhưng các nỗ lực tiến xa hơn về Lößnig vẫn thất bại.

Tình hình cánh phải của cánh quân thứ nhất cũng không sáng sủa hơn. Vệ binh của Oudinot khiến phòng tuyến quân Áo rung chuyển. Pháo binh Áo bị đánh từ bên sườn, buộc phải rút lui, và Döhlen lại rơi vào tay quân Pháp.

May mắn thay, quân dự bị của liên minh kịp đến chiến trường, giúp họ củng cố lại trận địa. Cuối cùng, dãy cao điểm trải dài từ Monarchenhügel đến Dölitz vẫn thuộc quyền kiểm soát của quân Áo.

Từ buổi trưa, sự mệt mỏi của cả hai bên khiến các đợt tấn công lớn gần như chấm dứt. Cuộc chiến dần trở thành màn đấu pháo kéo dài, gây thêm nhiều thương vong nhưng không làm thay đổi cục diện.

Trong màn khói đặc quánh của thuốc súng, những người lính pháo binh chạy ngược xuôi, lau mồ hôi pha lẫn bụi và máu trên khuôn mặt, nạp đạn thật nhanh trước khi bị phản pháo nghiền nát. Những con ngựa kéo pháo hí vang, quằn quại vì thương tích, trong khi những bánh xe pháo nghiến chặt trên bùn đất nhuốm đầy máu. Các sĩ quan hét lớn ra lệnh, vung gươm chỉ huy các khẩu đội giữ vững vị trí.

Từ phía đông, pháo binh Nga dưới quyền Langeron nã đạn dữ dội vào các vị trí phòng thủ của Pháp ở Probstheida. Những viên đạn nổ tung giữa đội hình bộ binh, xác lính Pháp bị hất tung lên không trung.

Napoléon, từ đài quan sát gần Probstheida, nhìn qua lớp khói mịt mù và nhận ra thế trận đang chống lại mình. Ông ra lệnh cho pháo binh cận vệ phản công. Những khẩu pháo Gribeauval 12-pounder, niềm tự hào của pháo binh Pháp, gầm thét đáp trả. Đạn lửa bay vút vào đội hình liên minh, cày tung mặt đất, tạo ra những hố sâu lẫn với máu và xác người.

Trận đấu pháo kéo dài nhiều giờ, mặt đất rung chuyển không ngừng. Những ngọn đồi biến thành đống đổ nát, những cánh rừng bốc cháy, và không khí đặc quánh mùi thuốc súng. Những người lính còn sống sót gần như điếc đặc bởi tiếng nổ liên hồi. Cuối cùng, khi hoàng hôn buông xuống, những khẩu pháo của quân Pháp dần thưa thớt. Đạn dược cạn kiệt, các vị trí phòng thủ bị phá hủy nghiêm trọng.


Đến đầu giờ chiều, quân của Gyulai cũng đến gần chiến trường nhưng chưa kịp tham chiến, còn lực lượng Nga được điều đến hỗ trợ lại bị rút về vị trí cũ.

Lúc tám giờ, cánh quân thứ hai dưới quyền Barclay rời khỏi vị trí tại Güldengossa—Universitätsholz, tiến về phía trước. Các quân đoàn Kleist và Wittgenstein dẫn đầu cuộc tấn công vào Wachau và Liebertwolkwitz. Quân Áo nhanh chóng bắt liên lạc với họ, trong khi cánh phải của quân Nga chiếm được Liebertwolkwitz mà không gặp phải sự kháng cự đáng kể. Khi đội hình tiến đến cách Probstheida tới tầm đạn pháo thì Barclay ra lệnh dừng lại, để chờ cánh quân thứ ba .

Bennigsen, chỉ huy cánh thứ ba , có nhiệm vụ mở rộng cánh trái và mở đường liên lạc với Blücher cho đến khi Tập đoàn quân Bắc kịp tham chiến . Ông chia quân thành bốn đội hình : một đánh vào Kleinpösna để đẩy lùi cánh trái của quân Pháp, hai  tấn công Kolmberg từ hai hướng, và một quét sạch quân địch khỏi Niederholz rồi hội quân với Barclay. Tuy nhiên, khi Sư đoàn Bubna báo tin quân Pháp đã rút khỏi Niederholz, Kolmberg, Kleinpösna và Baalsdorf,  đòn đánh này đã trở nên dễ dàng hơn nhiều so với dự kiến. Dẫu vậy, Bennigsen vẫn giữ nguyên kế hoạch tiến quân để đảm bảo liên lạc sớm nhất với Tập đoàn quân Bắc . Đến mười giờ, đội hình của ông đã trải dài từ Zuckelhausen đến Sommerfeld.

Nhằm cân bằng thế trận và hỗ trợ Barclay tấn công Probstheida, hai đội hình dưới quyền Klenau và Zieten được lệnh đánh chiếm Holzhausen và Zuckelhausen. Pháo binh dọn đường cho cuộc tấn công, và sau nhiều lần xung phong quyết liệt, quân Áo chiếm được Holzhauſen. Quân Nga cũng đánh bọc sườn và quét sạch quân Pháp khỏi Zuckelhausen. Tiếp theo, liên minh tiến về phía Steinberg, nơi Sư đoàn Gérard đã lập thành đội hình phòng ngữ vững chắc. Kỵ binh Sebastiani và Sư đoàn Kỵ binh Vệ binh Walther phản công mãnh liệt, nhưng quân Nga trụ vững, buộc quân Pháp phải bỏ Steinberg và rút về Probstheida. Từ các cao điểm vừa chiếm được, pháo binh liên minh lập tức bắn phá dữ dội vào phòng tuyến của Macdonald giữa Probstheida và Zweinaundorf.

Trên cánh phải của Bennigsen, Sư đoàn Bubna đã tiến sát Paunsdorf, nơi quân Pháp dưới quyền Reynier trấn giữ. Sau hai giờ pháo kích, quân Áo xông lên và chiếm được ngôi làng. Nhưng giữa trưa, Sư đoàn Durutte phản kích quyết liệt, giành lại Paunsdorf và đẩy quân Áo vào tình thế nguy ngập. May mắn thay, Bülow đến kịp lúc, giảm bớt áp lực cho cánh quân này.

Tuy nhiên, dù Bennigsen đã đẩy lùi quân Pháp khỏi một số vị trí tiền tiêu, nhưng Zweinaundorf, Mölkau và Paunsdorf vẫn nằm trong tay địch. Bennigsen không dám mạo hiểm mở một cuộc tấn công mới khi mà Tập đoàn quân Bắc vẫn chưa đến. Trong khi đó, quân của Thái tử Thụy Điển di chuyển rất chậm chạp, và Blücher lo ngại họ sẽ đến muộn. Ông ra lệnh cho Langeron băng qua sông tại Möckau, thay vì án binh bất động tại Möckau và Plösen như kế hoạch ban đầu. Langeron lập tức đối đầu với quân Pháp, pháo binh của ông nhanh chóng dập tắt hỏa lực từ những khẩu pháo tại Theklakirche, buộc bộ binh Pháp rút về Schönfeld.

Tại làng Schönfeld - dịch ra có nghĩa là ''cánh đồng đẹp'' , một trận đấu pháo khủng khiếp nhất trong lịch sử quân sự tính đến năm 1813 dần hình thành . Lúc này, Schönfeld được bảo vệ bởi Sư đoàn bộ binh 21 của tướng Lagrange với thành phần gồm có lực lượng thủy quân, những người vừa đẩy lùi bốn đợt tấn công của quân Phổ tại Möckern một ngày trước đó. Họ đã sẵn sàng cho một cuộc chiến đẫm máu khác.

Trận chiến mở màn với đợt tấn công của Quân đoàn bộ binh số 10 Nga do tướng Kapzevich chỉ huy. Khi Kapzevich tiến vào làng, ngựa của ông bị bắn chết giữa trận địa. Các Trung đoàn Jäger số 29, 37 và 45 của Nga tràn vào khu vực, nhưng bị đánh bật bởi bộ binh Pháp. Tuy nhiên, Trung đoàn bộ binh Staroskol đã chiếm được một trang trại lớn, tiêu diệt hoặc bắt sống toàn bộ 200 lính Pháp tại đó. Lực lượng thủy quân và Khinh binh Pháp lập tức phản công, quét sạch quân Nga ra khỏi làng, gây tổn thất nặng nề cho trung đoàn Staroskol. Quân Nga buộc phải rút lui để tái tổ chức.

Không bỏ cuộc, Kapzevich phối hợp với Quân đoàn St. Priest, mở đợt tấn công thứ hai. Quân Nga chia thành nhiều mũi, một nhóm tấn công trực diện qua đường chính và các khu vườn, nhóm còn lại đánh vào sư đoàn Friedrich của Pháp. Cuộc chiến trên đường phố diễn ra khốc liệt khi quân hai bên lao vào nhau bằng lưỡi lê. Nhà cửa bốc cháy dữ dội khi lửa từ các khẩu pháo lan rộng khắp ngôi làng. Ba lần quân Nga xông vào, ba lần họ bị đẩy lùi.

Khi trận chiến bộ binh vẫn đang giằng co, một trận địa khổng lồ bắt đầu được thiết lập. Những khẩu pháo hạng nặng 12-pounders được triển khai với tốc độ đáng kinh ngạc, tạo ra màn hỏa lực kinh hoàng giáng xuống quân Pháp , trận địa này gồm có :

-100 khẩu pháo của tướng Langeron (Nga)
-60 khẩu pháo của tướng Winzingerode (Nga)
-40 khẩu pháo của tướng Bülow (Phổ)
-20 khẩu pháo của quân Thụy Điển

Tổng cộng 220 khẩu pháo đồng loạt nhả đạn vào chiến tuyến Pháp. Tuy nhiên, quân Pháp ngay lập tức đáp trả bằng cách gom toàn bộ 137 khẩu pháo từ 3 quân đoàn của Marmont, Reynier và Souham.

Cường độ bắn phá của trận đấu pháo này khốc liệt tới mức toàn bộ mọi thứ nằm giữa hai trận địa đều bị quét sạch thành bụi . Mặt đất rung chuyển dưới sức mạnh của những loạt đạn pháo, quét sạch hoàn toàn bộ binh của cả 2 phe trên đường tiến công. Jean Barres, một sĩ quan Pháp, mô tả:

"Đạn pháo xuyên qua hàng ngũ chúng tôi từ đầu đến cuối, mỗi lần cuốn đi ít nhất 30 người. Các sĩ quan không làm gì khác ngoài việc chạy từ cánh phải sang cánh trái để lấp đầy khoảng trống, kéo những người bị thương ra khỏi hàng và ngăn quân lính hoảng loạn."

Dưới làn pháo kích dữ dội, quân Pháp dần mất kiểm soát trước sức ép ngày càng lớn của liên minh. Sư đoàn Friedrich của Pháp phải rút lui, trong khi quân Nga cũng chịu tổn thất nặng nề khi di chuyển qua khu vực phía đông Schönfeld.

Thấy tình hình nguy cấp, Trung đoàn số 50 Pháp tiến vào hỗ trợ thủy quân , nhưng lại bị bẻ gãy bởi hỏa lực của quân Nga và buộc phải rút lui. Tuy nhiên, họ nhanh chóng tập hợp lại phía sau và cùng với Sư đoàn Ricard mở đợt phản công, đẩy Kapzevich lùi về phòng tuyến ban đầu.

Nhưng quân Nga không dễ dàng từ bỏ. Một sĩ quan Nga viết lại:

"Ngôi làng chỉ rộng khoảng 200 mét, nhưng những bức tường đá kiên cố đã giúp quân Pháp cố thủ. Họ chặn mọi lối vào bằng hỏa lực súng trường từ những lỗ châu mai. Để tiêu diệt họ, tướng Kapzevich ra lệnh đưa 12 khẩu pháo hạng nặng bắn đạn cháy vào làng."

Lửa bùng lên khắp Schönfeld, nhưng quân Pháp vẫn ngoan cường bám trụ. Kapzevich hạ lệnh cho 6 khẩu pháo tiến sát vào làng và bắn đạn chùm để quét sạch những người phòng thủ. Quân Nga một lần nữa xông lên với lưỡi lê, hô vang "Ura!" khi trèo qua các bức tường. Tuy nhiên, ngay lúc đó, quân Pháp nhận được tiếp viện và bắn trả quyết liệt, đẩy lui quân Nga trong một trận giáp lá cà khốc liệt.

Toàn bộ ngôi làng biến thành một cứ điểm phòng thủ kiên cố. Mọi căn nhà đều trở thành một pháo đài, mỗi khu vườn, mỗi nghĩa trang đều bị chiếm đóng và bảo vệ bằng mọi giá.

Tướng Brayer dẫn quân tiếp viện đến, chiếm lĩnh một vị trí chỉ cách làng 200 bước chân. Quân Nga lại xông lên, nhưng bị đánh bại khi Trung đoàn số 59 Pháp bất ngờ đánh vào sườn họ. Tuy nhiên, quân Nga vẫn giữ được cây cầu quan trọng ở Schönfeld. Khi quân Pháp cố gắng giành lại cầu, một trận chiến ác liệt nổ ra. Sau nửa giờ giao tranh dữ dội, quân Pháp bắn hết đạn dược và buộc phải rút lui.

Tướng Ricard lúc này bị áp đảo bởi bộ binh và kỵ binh Nga, buộc phải rút khỏi Schönfeld. Tướng Langeron của Nga cũng lợi dụng thời cơ, tấn công và suýt chiếm được làng Reudnitz, nhưng đúng lúc đó, Napoléon xuất hiện cùng lực lượng Vệ binh của mình, đẩy lui cuộc tấn công của Nga. Khi Schönfeld thất thủ, Paunsdorf cũng rơi vào tay liên minh, mở đường cho cuộc tổng tiến công vào Leipzig từ hướng Bắc . Langeron sau đó vượt sông Parthe, thiết lập phòng tuyến giữa Möckau và Theklakirche, chờ quân chủ lực đến.

Trên cánh phía bắc, trận chiến trước cổng thành Halle cũng diễn ra quyết liệt . Blücher lệnh cho Sacken đánh chiếm các vị trí phòng thủ của Dombrowski, nhưng quân Ba Lan kháng cự ngoan cường. Quan sát thấy Sư đoàn Dombrowski chỉ có 1 500 quân, đại tá Gourgaud báo cáo lên Napoléon về tình thế nguy hiểm. Ngay lập tức, Napoléon điều Sư đoàn Pacthod của Vệ binh Trẻ đến chi viện. Đến 11 giờ trưa, quân Nga hoàn toàn bị chặn đứng.

Tình hình buộc Ney phải ra quyết định quan trọng: từ bỏ tuyến phòng thủ Parthe, rút Quân đoàn Marmont và Reynier về phòng tuyến Schönfeld—Paunsdorf. Đằng sau họ, Quân đoàn Souham đóng vai trò dự bị tại Volkmarsdorf. Vào khoảng 1-2 giờ chiều, pháo binh Langeron bắt đầu bắn phá Schönfeld từ Abtnaundorf. Ít lâu sau, Thái tử Thụy Điển ra lệnh cho các đơn vị của mình , khi ấy đang tiếp cận chiến trường : “Chiếm Schönfeld bằng mọi giá!”

Trong khi đó, tại cánh phía tây, quân Pháp bất ngờ phản công. Theo lệnh Napoléon, Bertrand mở đường máu qua cánh trái của liên minh, tấn công mạnh mẽ vào các đơn vị của Gyulai. Do sương mù dày đặc, Gyulai đã ước tính quá sức mạnh đối phương và rút quân về phía phải, để rồi lại nhận được lệnh từ Schwarzenberg di chuyển về Cröbern. Việc rút quân này vô tình giúp Bertrand kiểm soát con đường đến Weißenfels, mở ra lối thoát cho quân Pháp.

Tổng quan lúc 2 giờ chiều, dù các cánh liên minh đã đẩy lùi quân Pháp khỏi một số cứ điểm, nhưng họ vẫn chưa đạt được bước đột phá quyết định. Quân Pháp giữ vững các vị trí quan trọng như Lößnig, Probstheida, Mölkau, Zweinaundorf, Paunsdorf và Schönfeld. Blücher thất bại trong việc giành lợi thế phía bắc, Gyulai thua trận ở Lindenau, và con đường rút lui của Napoléon vẫn chưa bị cắt đứt.

Tại cánh nam, cánh quân thứ nhất tiếp tục vật lộn với phòng tuyến vững chắc của Pháp tại Connewitz. Dù đã chiếm được Dösen và Dölitz sau nhiều trận xáp lá cà khốc liệt, nhưng các đợt tấn công vào vị trí phòng ngự sau Lößniger Teiche đều thất bại. Ngay cả khi Lößnig rơi vào tay liên minh, họ vẫn không thể vượt qua sự kháng cự kiên cường của Augereau và Poniatowski. Đến chiều, trận chiến dần trở thành cuộc đấu súng kéo dài, trước khi ngừng hẳn khi màn đêm buông xuống.

Ở trung tâm, Probstheida trở thành điểm nóng nhất của trận chiến. Barclay biết rõ nơi đây được gia cố mạnh mẽ, với những bức tường đất dày và các khẩu đội pháo địch bố trí kín kẽ. Dẫu vậy, vào lúc 2 giờ, theo lệnh của Sa hoàng Alexander, ông buộc phải tấn công.

Lữ đoàn Pirch cùng các đơn vị Nga mở màn cuộc xung phong dữ dội, nhưng sau khi chiếm được một phần làng, họ bị Quân đoàn Victor phản kích đẩy lui. Lữ đoàn Prinz August cũng lao vào trận chiến, nhưng bị dội ngược bởi hỏa lực súng máy từ cửa làng. Lần thứ hai, họ chiếm được một nửa Probstheida, nhưng lại bị quân Lauriston và Sư đoàn Friant của Vệ binh Cựu đẩy bật ra. Trước tổn thất nặng nề, liên minh từ bỏ ý định chiếm Probstheida, tập trung vào các mặt trận khác để hy vọng bẻ gãy phòng tuyến Napoléon.

Nhưng vào chiều tối hôm ấy, Leipzig vẫn thuộc về Hoàng đế nước Pháp.


Trời đã về trưa, khi cánh quân thứ ba của Bennigsen, sau một hành trình dài và mệt mỏi, cuối cùng cũng nhìn thấy quân của Thái tử Thụy Điển từ xa . Đội hình của họ, vốn đã trở nên rời rạc do phải hành quân vòng sang cánh phải, nay được tiếp thêm sức mạnh với sự xuất hiện của Bülow và Sư đoàn Hessen-Homburg. Cuộc hội quân diễn ra nhanh chóng, và một kế hoạch tác chiến được thống nhất: Paunsdorf sẽ là ranh giới tấn công, tạo điều kiện cho Bennigsen củng cố lực lượng đối diện Zweinaundorf và Mölkau. Không lâu sau đó, Paunsdorf thất thủ trước quân Áo dưới quyền Bubna và quân Phổ, buộc Sư đoàn Durutte của Pháp phải rút về Sellerhausen trong hỗn loạn.

Nhưng trong cơn binh lửa này, một sự kiện bất ngờ đã diễn ra. Lữ đoàn kỵ binh Württemberg của Normann đã bất ngờ đào ngũ sang phe liên minh . Lợi dụng thời cơ này , hai lữ đoàn Sachsen dưới quyền Reynier cũng vứt bỏ lá cờ Pháp mà rời khỏi chiến trường  . Từ sáng, Tướng von Zeschau đã cảm thấy bất an về lòng trung thành của binh sĩ Sachsen và tìm kiếm chỉ thị từ Quốc Vương . Nhưng câu trả lời mơ hồ từ Quốc Vương không đủ sức thuyết phục các sĩ quan Sachsen, những người tin rằng Quốc Vương đã bị trói tay bởi người Pháp . Vậy nên họ quyết định tự mình hành động : 3 000 binh sĩ Sachsen, cùng 19 khẩu pháo, rời bỏ hàng ngũ Napoléon, nhưng họ vẫn giữ tính trung lập , không trực tiếp tham gia chiến sự để tránh gây thêm áp lực lên nhà vua của họ.

Trong khi đó, trận chiến trước Mölkau và Zweinaundorf trở nên quyết liệt hơn bao giờ hết. Một đợt tấn công dữ dội từ kỵ binh Vệ binh Pháp đã bị đẩy lùi, nhưng chiến trường vẫn giằng co cho đến tận chiều muộn. Khi mặt trời dần khuất, Tập đoàn quân Bắc của Vương Thái tử Thụy Điển bắt đầu tạo ra ảnh hưởng rõ rệt. Sư đoàn Hessen-Homburg và Bubna chiếm Paunsdorf và Mölkau sau những trận giao tranh ác liệt, trong khi quân Nga đoạt lấy Unter-Zweinaundorf.

Tuy nhiên, bước tiến của liên minh bị chặn đứng khi một trận chiến kỵ binh dữ dội nổ ra giữa lực lượng của Sébastiani, Sư đoàn Kỵ binh Vệ binh của Walther và kỵ binh Bennigsen. Khi Sébastiani buộc phải rút lui, quân Pháp cũng không còn lựa chọn nào khác ngoài việc rút về Stötteritz. Trong khi đó, quân Áo dưới quyền Klenau dễ dàng chiếm Ober-Zweinaundorf, nhưng gặp khó khăn lớn khi tiến đánh Stötteritz. Ngôi làng này có vị trí phòng thủ tuyệt vời, được bao bọc bởi tường đất, hàng rào và chiến hào, với pháo binh tập trung đông đảo. Dù vậy, tầm quan trọng chiến lược của Stötteritz khiến Klenau không thể chùn bước. Ông đích thân dẫn quân xung phong, nhưng bị đón chào bởi hỏa lực dữ dội từ pháo binh Pháp. Trước cơn mưa đạn, Klenau buộc phải rút lui về Zweinaundorf.

Không dừng lại ở đó, quân Pháp phản công. Dưới sự yểm trợ của pháo binh, Zweinaundorf bị đốt cháy và liên minh bị đẩy lùi. Tuy nhiên, khi bóng tối buông xuống, lực lượng Klenau hội quân giữa Zweinaundorf và Zuckelhausen, chuẩn bị cho trận chiến ngày mai.

Cánh quân của Vương Thái tử Thụy Điển, dù có ưu thế áp đảo nhưng vẫn chỉ đạt được những thắng lợi hạn chế. Họ đẩy lùi quân Pháp vài ngàn mét và chiếm được Schönfeld, Sellerhausen và Stünz. Trong khi đó, ở phía bắc Leipzig, quân Saken cố gắng chiếm Rosental và Pfaffendorf nhưng đều thất bại. Trận chiến ác liệt tại Pfaffendorf kéo dài đến đêm mà không mang lại kết quả rõ ràng.

Về phía quân Phổ, khi nhận tin quân Pháp có dấu hiệu rút lui về Merseburg và Weißenfels, Blücher lập tức ra lệnh cho Quân đoàn Yorck tiến quân xuyên đêm để chiếm các điểm vượt sông quan trọng. Dưới sự hộ tống của kỵ binh Cossack và lực lượng Sachsen vừa gia nhập, Quân đoàn Yorck tiến quân không ngừng nghỉ và đến sáng hôm sau đã có mặt tại Halle và Burgliebenau.

Ở mặt trận phía tây, quân Gyulai nhận được tin tức về cuộc triệt thoái của quân Pháp và quyết định không truy kích ngay. Ông chỉ điều động kỵ binh Mensdorff và Thielmann bám sát đoàn quân rút lui của Napoléon, trong khi phần lớn lực lượng rẽ sang Pegau.

Khi nhìn lại toàn bộ cục diện ngày 18 tháng 10 , có thể thấy rằng Napoléon vẫn giữ vững phòng tuyến quan trọng nhất của mình từ Connewitz đến Probstheida, đẩy lùi mọi cuộc tấn công của liên minh. Tuy nhiên, ông đã mất dần các tiền đồn phía đông, buộc phải rút về tuyến phòng thủ chính từ Stötteritz đến Crottendorf và Reudnitz. Ở phía tây, liên minh thất bại tại Lindenau, giúp quân Pháp có thể mở đường rút lui về sông Saale.

Trong suốt trận chiến, Napoléon đứng trên đồi Thonberg gần một nhà máy thuốc lá bị đạn xuyên thủng. Những suy tư của ông vào thời khắc này đã không được sử sách ghi lại. Chỉ biết rằng, hai lần trong ngày, ông đích thân đến làng Probstheida, động viên binh sĩ và chỉ đạo điều quân. Khi hay tin quân Sachsen đã đào ngũ, ông vội vã đến cánh trái, nơi ông ra lệnh cho Kỵ binh Vệ binh xung phong. Ngay từ buổi sáng, Napoléon đã âm thầm chuẩn bị cho khả năng rút lui. Đến 5 giờ chiều, kiệt sức sau một đêm không ngủ, ông ngồi trên một chiếc ghế gỗ cạnh đống lửa, chợp mắt trong giây lát. Một viên đạn pháo bất chợt rơi vào ngọn lửa, đánh thức ông khỏi giấc ngủ chập chờn. Bình tĩnh như thường lệ, ông ra lệnh cho cuộc rút quân chính thức bắt đầu và lên đường về Leipzig lúc 6 giờ 30, nghỉ đêm tại Hôtel de Prusse.

Trong khi đó, các vị quân vương liên minh—Sa hoàng Nga, Quốc vương Phổ, và  Hoàng đế Áo—quan sát trận chiến từ một ngọn đồi nhỏ gần Meusdorf, nơi ngày nay được gọi là "Monarchenhügel" (ngọn đồi của các vị quân vương) . Khi màn đêm buông xuống, Schwarzenberg tập hợp các tướng lĩnh để bàn kế hoạch tác chiến cho ngày mai. Trong khi đó, Hoàng đế Áo rút về Rötha, còn Sa hoàng Nga và Quốc vương Phổ vẫn nán lại chiến trường đến tận 8 giờ tối. Trái ngược với tuyên truyền sau này thì không hề có cảnh ba vị quân vương quỳ xuống tạ ơn Chúa vì chiến thắng của họ.

Kết thúc ngày 18 tháng 10 , trận Leipzig đã trở thành một trận nồi hầm (Kesselschlacht) của Napoléon .


Xét về lợi thế chiến lược vào ngày 18 tháng 10, các lực lượng liên minh có ưu thế áp đảo về quân số, hơn quân Pháp đến 135 000 người. Pháo binh của họ cũng gấp đôi so với tối đa 650 khẩu pháo mà Napoléon có trong tay. Lẽ ra, với những lợi thế ấy, chiến thắng đã phải nghiêng hẳn về phía liên minh. Nhưng thực tế không như vậy, bởi hàng loạt sai lầm chiến thuật và sự thiếu nhất quán trong chỉ huy đã khiến kết quả trận chiến không được như mong đợi.

Napoléon, dù vẫn còn giữ thế chủ động vào ngày 16 tháng 10, nhưng đến ngày 18, ông buộc phải rút hoàn toàn về thế phòng thủ, chiến đấu chỉ để bảo vệ đường rút lui. Đường liên lạc giữa quân đội Pháp với sông Elbe, vốn còn tồn tại vào ngày 17, đã bị cắt đứt từ sáng hôm sau. Đường thoái lui duy nhất của ông giờ chỉ còn con đường qua Lindenau về Erfurt. Nhưng với việc bị bao vây tứ phía, ông buộc phải kéo dài thêm phòng tuyến gần hai dặm để bảo vệ đường rút quân. Trong tình thế ấy, nếu liên minh chọc thủng vòng vây ở bất cứ điểm nào, toàn bộ quân đội Pháp sẽ lâm vào tình cảnh nguy kịch.

Hiểu rõ điều đó, lẽ ra liên minh phải tận dụng ưu thế quân số để tập trung đánh vào một điểm trọng yếu, cắt đứt đường thoái lui của Napoléon. Thế nhưng, thay vì tổ chức một cuộc công kích quyết liệt vào vị trí hiểm yếu nhất, thì họ lại dàn quân khắp mọi mặt trận, khiến lực lượng bị phân tán. Đến ngày 17, quân Pháp vẫn còn giữ vững các vị trí trọng yếu ở Dölik, Wachau, Liebertwolkwitz và Kolmberg, trong khi ở phía bắc Leipzig, quân Phổ dưới quyền chỉ huy của Blücher đã áp sát cửa ngõ của Hallischen Vorstadt, chỉ cách tuyến đường rút lui của quân Pháp một đoạn ngắn. Đây chính là cơ hội vàng để tiêu diệt hoàn toàn quân của Napoléon, nhưng nó đã không được tận dụng triệt để.

Một phần của sự thiếu hiệu quả này đến từ sự yếu kém trong hệ thống chỉ huy của liên minh . Họ không có một bộ chỉ huy cấp cụm tập đoàn quân để điều phối cùng lúc 4 tập đoàn quân tiến quân từ 3 hướng khác nhau , và ngay cả những vị quân vương cũng không dám ra lệnh trực tiếp cho Thái tử Thụy Điển phải hành quân gấp rút đến điểm mấu chốt. Nếu Thái tử hành quân từ Breitenfeld vào lúc năm giờ sáng và vượt sông Parthe tại điểm mà tướng Langeron được Blücher chỉ huy vượt qua, Tập đoàn quân Bắc cùng Tập đoàn quân Schlesien có thể đã chạm trán quân của thống chế Ney từ mười một giờ trưa. Trong tình huống đó, 90 000 quân sẽ dễ dàng đè bẹp 36 000 quân Pháp của Ney, buộc Napoléon phải điều toàn bộ lực lượng dự bị đến khu vực này, tạo điều kiện cho cuộc tấn công quyết định của Tập đoàn quân chủ lực vào Probstheida. Nhưng cơ hội ấy đã bị bỏ lỡ.

Chiến thuật của Schwarzenberg, tổng chỉ huy quân liên minh, chủ yếu dựa vào vị trí đóng quân của các đạo quân vào tối ngày 17. Dù hợp lý, nhưng chiến lược này lại chưa chú trọng đủ đến mục tiêu chính yếu: phá hủy đường rút lui của Napoléon. Nếu ông ta tập trung thêm quân cho Thái tử Hessen-Homburg và Vệ binh Nga-Phổ, có lẽ quân Pháp đã bị đánh bật khỏi phòng tuyến tại Lößnig, và Leipzig sẽ bị đe dọa nghiêm trọng. Điều này có thể buộc Napoléon phải điều động quân dự bị khỏi Probstheida, tạo điều kiện thuận lợi cho quân Wittgenstein và Kleist đánh chiếm được vị trí này.

Tuy nhiên, trong thực tế, sự thiếu phối hợp đã khiến nhiều cuộc tấn công của liên minh diễn ra không đồng bộ. Đặc biệt, Thái tử Hessen-Homburg đã tấn công quá sớm vào Dösen-Dölitz, làm rối loạn cánh trái của liên minh và buộc Schwarzenberg phải đưa ra những quyết định vội vàng. Việc rút quân của Gyulai khỏi Lindenau là một sai lầm nghiêm trọng, khiến nhiều người sau này nghi ngờ rằng các chính khách của Áo đã cố tình mở đường cho Napoléon rút lui về sông Rhine.

Trong khi đó, tại trung tâm, trận chiến ở Probstheida diễn ra ác liệt. Đây là mắt xích quan trọng nhất trong hệ thống phòng thủ của Napoléon. Nếu thất thủ, quân Pháp sẽ bị chia cắt và buộc phải rút về Leipzig. Vị trí này được bố trí phòng thủ rất tốt, nhưng nó không phải là bất khả xâm phạm. Nếu liên minh tận dụng ưu thế pháo binh, tập trung hỏa lực vào cả trận địa pháo và lực lượng dự bị của Pháp, thì chỉ cần vài giờ, phòng tuyến này có thể bị đè bẹp. Tuy nhiên, thay vì áp dụng chiến thuật hợp lý, họ lại tấn công một cách rời rạc, không phối hợp giữa bộ binh và pháo binh, khiến mọi nỗ lực đều thất bại.

Cánh quân của Bennigsen, sau khi chiếm được Zuckelhausen và Holzhausen, lẽ ra phải tiến đánh Stötteritz để đe dọa Probstheida từ phía sườn, nhưng vì phải trải quân quá rộng để ngăn chặn đường rút lui của quân Pháp, họ đã không thể tạo ra sức ép đủ lớn. Một lần nữa, sự chậm trễ của Thái tử Thụy Điển lại khiến liên minh bỏ lỡ cơ hội chiến thắng nhanh chóng.

Bất chấp những sai lầm trong chỉ huy, khi màn đêm buông xuống, cánh trái của quân Pháp đã bị đánh bại và đẩy lùi sát Leipzig. Ở trung tâm và cánh phải, họ chỉ trụ vững nhờ sự kháng cự quyết liệt. liên minh vẫn còn đến 100 000 lính và hơn 100 khẩu pháo chưa sử dụng, trong khi Napoléon chỉ còn khoảng 12 000 quân dự bị. Nếu những lực lượng này được tung vào đúng thời điểm, quân Pháp có lẽ đã bị đẩy về Leipzig ngay từ ngày 18.

Còn về Napoléon, quyết định tiếp tục chiến đấu vào ngày 18 không chỉ là một sai lầm quân sự mà còn là một sự mù quáng. Nếu ông ra lệnh rút quân ngay tối ngày 17, quân đội Pháp có thể đã rút an toàn sang bờ trái sông Elster, giữ vững đội hình và bảo toàn thêm 50 000 quân. Nhưng thay vào đó, ông vẫn cố chấp tin vào một cơ hội xoay chuyển tình thế, hoặc một thỏa thuận hòa bình với liên minh.

Tuy nhiên, dù thất bại là điều tất yếu, nghệ thuật cầm quân của Napoléon vẫn thể hiện rõ rệt. Ông chọn vị trí phòng thủ cực kỳ hợp lý, tận dụng địa hình một cách hoàn hảo. Pháo binh Pháp, dù ít hơn, vẫn hoạt động chính xác và hiệu quả, góp phần chặn đứng nhiều đợt tấn công. Kỵ binh, dù ngựa đã kiệt sức, vẫn chiến đấu dũng mãnh.


Khi ánh mặt trời đã lên cao, tiếng súng từ phía đông thành phố vang lên như một hồi chuông báo tử. Đó là dấu hiệu cho thấy quân của Bülow đã bắt đầu cuộc tấn công, không chờ đến khi Langeron xuất hiện. Thống chế Blücher, nhận ra thời cơ đã đến, lập tức hạ lệnh tiến quân.

Sacken được giao nhiệm vụ đánh chiếm đồn lũy Pfaffendorf, nhưng những đợt xung phong đầu tiên đều bị đẩy lùi. Chỉ khi tiếng súng vang lên sau lưng quân Pháp, báo hiệu một đợt tấn công khác, họ mới buộc phải rút lui về bờ trái sông Parthe. Lợi dụng thời cơ, Sacken chuyển hướng tiến về cầu Parthe. Nhưng ở đây, quân địch kháng cự quyết liệt, ngay cả khi viện binh từ Quân đoàn Kapsevich và St. Priest đến nơi thì cây cầu vẫn nằm trong tay người Pháp. Chỉ đến khi Bülow phá được phòng tuyến trong thành phố, tạo áp lực lên quân phòng thủ, các binh sĩ Nga mới có thể cùng quân Pháp vượt sông, xông vào cầu và cổng thành.

Khoảng giữa trưa, Blücher dẫn đầu quân sĩ tiến vào thành phố. Trong khi đó, một phần lực lượng của Sacken từ Gohlis tràn vào Rosental, tiến gần đến Ranstädter Steinweg – nơi quân Pháp đang rút lui về hướng Lindenau trong những đội hình dày đặc.

Dưới lệnh của Sa hoàng, Tập đoàn quân Bắc tạm dừng cuộc tấn công, chỉ mở lại khi Bennigsen tiến quân từ cánh trái. Thấy vậy, Thái tử Thụy Điển cũng ra lệnh cho Sư đoàn Borstell tiến lên. Dù chịu tổn thất nặng nề, Khinh binh của Borstell dần áp sát khu vực ngoại ô, một số đơn vị đã lọt được vào những khu vườn, nơi họ chạm trán với lính của Thống chế Marmont. Một trận cận chiến ác liệt nổ ra, khiến quân Phổ chỉ có thể giữ vững trận địa nhờ vào nỗ lực phi thường.

Trong khi đó, Tiểu đoàn Mirbach hướng thẳng đến cổng thành Grimmaishen. Cánh cổng này được bảo vệ bởi hai cột trụ lớn với lối nhỏ dành cho người đi bộ ở hai bên, tất cả đều bị chặn lại bằng chướng ngại vật. Bất chấp hỏa lực dày đặc từ các tòa nhà xung quanh, quân Phổ vẫn kiên trì dọn dẹp chướng ngại, từng người một lách qua các khe hở để lọt vào khu ngoại ô. Nhưng khi đến nơi, họ nhận ra mình quá ít quân để tiến sâu vào thành phố, nhất là khi bị hỏa lực quân Pháp từ mọi phía dồn ép.

Trước sự kháng cự kiên cường của quân Pháp, Thái tử Thụy Điển điều ba tiểu đoàn của Sư đoàn Hessen-Homburg đến tiếp viện. Lực lượng này tiến công từ một điểm yếu trong bức tường thành, nơi Tiểu đoàn Landwehr của Friccius đã đục được một lỗ hổng. Từng nhóm binh sĩ Phổ tràn qua, mở rộng khu vực chiếm đóng và cuối cùng mở toang cổng Grimmaishen từ bên trong.


Người Pháp không chấp nhận thất bại. Khi quân dự bị của họ đến nơi, một đợt phản công dữ dội bùng nổ tại Quảng trường Johannis, buộc liên minh phải rút lui về phía cổng thành. Đúng lúc đó, một tiểu đoàn Jäger Thụy Điển cùng hai khẩu pháo xuất hiện, đẩy lùi quân Pháp và giữ vững cổng thành Grimmaishen.

Cánh quân của Bülow tiếp tục gặp khó khăn ở Georgen-Vorwerk, bị đánh bật về Purzelgraben. Chỉ đến khi Borstell, thay mặt tướng Hessen-Homburg bị thương, đưa bốn tiểu đoàn tiếp viện, liên minh mới dồn ép được lính của Marmont, đẩy họ về hướng Quergasse. Từ đây, quân Phổ dần chiếm thế thượng phong, tiến sát khu vực giữa đường Grimmaishenischer Steinweg và Hintergasse.

Những cuộc chiến khốc liệt tiếp diễn ở cánh phải, đặc biệt quanh đảo Milchinsel và cổng thành Hintertor. Chỉ khi cánh trái giành được thắng lợi,liên minh mới có thể tiến sâu hơn. Để hỗ trợ, Thái tử Thụy Điển điều năm tiểu đoàn của Wingingerode tấn công cổng Hospitaltor, nơi họ liên kết với một tiểu đoàn của Bülow. Phát hiện cổng không có phòng thủ, họ nhanh chóng tràn vào, tiến sâu vào thành phố qua đường Johannisgasse.

Nhưng chưa kịp củng cố trận địa, một đợt tấn công kỵ binh bất ngờ đẩy quân Nga trở lại cổng Hospitaltor. Chỉ nhờ vào tinh thần vững vàng của một tiểu đoàn Phổ đi sau, họ mới lập lại đội hình và giành lại được mặt đường chính.

Ở phía trái, Bennigsen hành quân về cổng thành Sandtor, cổng thành Windmühlenschlag và cổng thành Peterstor. Cuộc tấn công nhanh chóng giành thắng lợi trên toàn tuyến. Ba sư đoàn Nga tiến vào trung tâm thành phố, tràn ra các quảng trường Allee, Roßplatz và Esplanade. Một phần quân Ba Lan đã buông vũ khí đầu hàng .

Đòn đánh của Bennigsen khiến Barclay và Colloredo không còn không gian triển khai đội hình. Họ buộc phải dừng lại. Vào lúc 2 giờ chiều, Kleist và Wittgenstein lập doanh trại gần cổng Peterstor, trong khi Colloredo được lệnh hành quân về Pegau.


Tới 12 giờ rưỡi trưa, chiến sự tại vùng ngoại ô đã ngã ngũ. Các lực lượng liên minh đã áp sát trung tâm thành phố. Trong khi đó, Napoléon, ban đầu lo ngại liên minh sẽ cắt đứt đường rút lui, dần bình tâm khi biết rằng Bertrand đã đến được Weißenfels.

Để kéo dài thời gian, Hoàng đế Pháp xúi giục hội đồng thành phố đàm phán với Sa hoàng. Đến 9 giờ tối, ông từ biệt Quốc vương Sachsen, có lẽ là để đánh lừa đồng minh trung thành nhất của mình về tình hình thực sự. Rồi với sự khó khăn không nhỏ khi phải len qua dòng quân hỗn loạn, ông tiến về cổng Ranstädter và rời đi theo hướng Lindenau.


Bất chấp những tin đồn về vẻ mặt thất thần, Napoléon vẫn giữ được phong thái điềm tĩnh. Ông không phải người dễ bị bẻ gãy tinh thần, ngay cả trong những tình huống tuyệt vọng nhất như cuộc vượt sông Berezina.

Khi liên minh kiểm soát được khu ngoại ô, mọi thứ rơi vào hỗn loạn. Quân Pháp ùn ùn kéo về Lindenau, đụng độ liên tục với quân địch đang đuổi theo. Tại Holzmarkt, quân Bülow bị chặn lại cho đến khi các binh sĩ Nga từ Tập đoàn quân Schlesien tràn đến từ cầu Parthe, bao vây quân Pháp từ hai hướng, đẩy họ về cổng Ranstädter.

Trận chiến tại cổng thành Grimmaishenische đã trở thành một cuộc tàn sát. Lính  của các Sư đoàn Charpentier và Marchand chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, bị vây hãm từ mọi phía. Tàn quân Hessen rút về cổng Georgenpförtchen, nhưng phần lớn bị dồn đến cổng Grimmaishenische, nơi họ rơi vào biển lửa của súng trường và pháo binh.

Những tiếng gào thét vang vọng cả thành phố. Khi cánh cổng sụp đổ, quân Pháp, kẻ chạy trốn lẫn kẻ truy đuổi, tràn vào nội đô. Đến lúc này, không còn chỗ nào để phòng thủ nữa. Tàn quân Hessen đầu hàng ở nhà thờ Nikolaikirche. Các binh sĩ Sachsen và Baden trên quảng trường chính cũng bỏ vũ khí

Trong khi tại khu vực Wasserkunst, cuộc chiến ác liệt giữa hai kẻ thù truyền kiếp, người Ba Lan và người Nga, vẫn tiếp diễn không khoan nhượng, các tiểu đoàn của Bülow tràn qua các con phố, hướng về những cổng phía tây của thành phố. Ở phía bắc, trước cổng Hallisches, quân Blücher sẵn sàng cho một đợt tấn công cuối cùng. Bỗng nhiên, mặt đất rung chuyển, không khí chấn động bởi một tiếng nổ đinh tai: cây cầu Funkenburg trên con đường dẫn đến Lindenau đã bị phá hủy.

Chúng ta nhớ rằng một số đơn vị nhỏ thuộc Cụm Quân đoàn Sacken đã tiến vào khu rừng Rosental, hướng về con đường Ranstädter Steinweg. Chỉ trong chốc lát, họ đã ở cách con đường dẫn đến Lindenau chỉ vài trăm bước chân – nơi những đoàn quân Pháp dày đặc đang rút lui để tìm kiếm sự an toàn ở bờ phải sông Elster. Ngay lập tức, quân của Sacken khai hỏa vào những kẻ đang tháo chạy.

Cây cầu đã được chuẩn bị để phá hủy ở đầu phía tây. Đại tá công binh Montfort được giao nhiệm vụ kích nổ sau khi những đơn vị cuối cùng của Pháp vượt qua. Tuy nhiên, vì không nắm rõ kế hoạch rút quân, ông ta đã rời vị trí để đến Lindenau tìm gặp Berthier nhằm hỏi trực tiếp, nhưng trong cơn hỗn loạn thì ông không thể quay trở lại. Một hạ sĩ công binh, được Montfort lệnh rằng phải kích nổ cây cầu nếu quân địch tiến đến, đã cho rằng thời điểm đó đã đến khi thấy lính Sacken xông lên. Không chần chừ, hắn châm ngòi nổ.


Hậu quả thật khủng khiếp. Những tảng đá, những thanh xà, những cỗ xe, ngựa và con người bị xé toạc, văng tứ tung, rơi xuống các khu vườn và quận lân cận. Dòng quân rút chạy bị chặn đứng. Những người ở phía trước bị vùi trong mưa lửa và xác người, trong khi những kẻ phía sau, bị che khuất bởi màn khói dày đặc, vẫn tiếp tục xô đẩy nhau về phía trước. Khi nhận ra thảm họa trước mắt, họ chỉ còn hai lựa chọn: hoặc lao xuống sông bơi qua để thoát thân, hoặc đầu hàng liên minh đang truy kích phía sau.

Trong khi đó, cuộc chiến trên đại lộ cạnh Wasserkunst vẫn diễn ra dữ dội. Phải đến khi một số tiểu đoàn Phổ đột phá từ nội thành qua cổng Thomas đến đại lộ này, họ mới cắt đứt đường rút lui của quân Pháp và Ba Lan. Giờ đây, con đường duy nhất còn lại cho kẻ bại trận là bơi qua sông Pleiße và Elster. Nhưng trong khi sông Pleiße còn có một số cây cầu nhỏ dẫn đến vườn Rudolf và Reichel, thì sông Elster hoàn toàn không có lối qua. Bị mắc kẹt giữa những nhánh sông chằng chịt, hàng nghìn binh sĩ phải đầu hàng. Những kẻ liều lĩnh hơn thì nhảy xuống nước tìm đường thoát thân. Một số, như Thống chế MacDonald, đã thành công; nhưng hàng trăm người, trong đó có Thống chế Poniatowski, đã bỏ mạng dưới dòng nước xiết.


Những cảnh tượng tương tự diễn ra ở phía bắc, tại quảng trường Fleischerplatz, nơi các đơn vị từ cổng Hallisches và nội thành rút lui trong hỗn loạn. Các xe chở hàng chồng chất lên nhau, tạo thành một mê cung không lối thoát. Dưới làn hỏa lực không ngừng từ quân Langeron, Sacken và Bülow, những kẻ sống sót lại một lần nữa phải đối mặt với lựa chọn: bơi qua sông hoặc đầu hàng. Cuối cùng, vào khoảng 1 giờ trưa, phần lớn quân Pháp buông súng.

Tiếng súng vẫn chưa dứt hẳn khi Sa hoàng Alexander và Quốc vương Friedrich Wilhelm, cùng đoàn tùy tùng rực rỡ, tiến vào thành phố vừa bị chiếm lĩnh. Quân liên minh , cũng như những tù binh Pháp, xếp hàng hai bên, và giữa những tiếng hô vang của binh sĩ là niềm vui vỡ òa của dân chúng. Tại quảng trường chợ, các vị vua hội ngộ với Thái tử Thụy Điển, Bennigsen, Blücher và Gneisenau. Họ thử tiến về cổng Ranstädter, nhưng đường phố tắc nghẽn đến mức buộc phải quay lại. Sau đó, họ đón tiếp Hoàng đế Franz của Áo và sau đó là buổi duyệt binh tại Reudnitz.



Trong cơn say chiến thắng, việc truy kích quân địch đã bị lãng quên – một điều có thể hiểu được về mặt con người, nhưng lại không thể tha thứ về mặt quân sự. Chỉ có Blücher là đã cho kỵ binh của Langeron và Sacken đuổi theo quân Pháp qua Schkeuditz từ 11 giờ trưa, với lệnh rằng bộ binh sẽ lập tức theo sau khi trật tự được vãn hồi. Đến tối, Bennigsen cũng cử kỵ binh và sư đoàn Paskiewitsch tiến qua sông Elster.

Sau cùng, chiến thắng đã đến, nhưng với cái giá quá đắt. Trong bốn ngày từ 14 đến 19 tháng 10, liên minh mất khoảng 1 800 sĩ quan và 52 000 binh sĩ. Trong đó Quân Phổ tổn thất 498 sĩ quan và 15 535 binh , quân Nga mất 865 sĩ quan và 21 740 binh sĩ, quân Áo thiệt hại 420 sĩ quan và 14 538 binh sĩ, còn quân Thụy Điển chỉ mất 9 sĩ quan và 169 binh sĩ.

Tổn thất của quân Pháp tuy ít hơn về số người chết và bị thương nhưng lại nặng nề hơn về số tù binh. Theo ước tính đáng tin cậy nhất, họ mất 37 000 người chết và bị thương, 15 000 bị bắt, 15 000 bị bỏ lại trong các bệnh viện dã chiến ở Leipzig, 5 000 bị lạc hoặc đào ngũ – tổng cộng lên đến 72 000 người. Liên minh thu giữ 28 lá cờ, 325 khẩu pháo, 900 xe đạn dược và 40 000 khẩu súng. Sáu tướng lĩnh Pháp tử trận, 12 người bị thương, 36 bị bắt; chỉ khoảng 80 000 người có đủ sức để vượt sông Saale vào các ngày 19 và 20. Ngay cả Quốc vương Sachsen cũng bị bắt và đưa về Berlin ngày 23 tháng 10.

Số phận của những người bị thương thật khủng khiếp. Mọi thứ cần thiết đều thiếu thốn: chỗ trú, thực phẩm, băng gạc và nhân viên y tế. Giữa cảnh khốn cùng này, hàng nghìn người có thể được cứu sống đã phải bỏ mạng vì đói, rét và thiếu thốn chăm sóc.

Một nhà sử học từng nhận xét: “Ngay từ ngày 18, ngay cả một danh tướng vĩ đại nhất thời đại cũng không thể thoát khỏi tình thế này nếu liên minh không cho phép. Không phải do lỗi của ông ta mà Leipzig không trở thành một Sedan thứ hai.” Thật khó để phủ nhận điều đó. Đáng lẽ, quân Pháp phải bị tiêu diệt hoàn toàn vào ngày 19 hoặc 20.

Dù không thể vượt lên để chặn đường quân Pháp tại sông Saale, liên minh vẫn có thể hành động quyết đoán hơn. Schwarzenberg bị chỉ trích vì không ra lệnh cho quân chủ lực tấn công sườn quân Pháp khi họ rút lui. Nhưng dù việc đó không khả thi, vẫn còn phương án khác: cử kỵ binh và pháo binh truy kích trong đêm 18, quấy rối và kìm chân quân địch, giúp chủ lực bắt kịp. Tiếc thay, cơ hội này đã bị bỏ lỡ. Và như thế, Napoléon đã có thể rút lui – không toàn vẹn, nhưng vẫn còn đủ sức để tiếp tục cuộc chiến cho tới tận năm sau .


15.Giải phóng Sachsen

Quân Pháp đã bị đánh bại, nhưng chưa bị tiêu diệt. Giờ đây, nhiệm vụ đặt ra cho liên minh là phải không ngừng truy đuổi đối phương, không cho họ cơ hội hồi phục hay tái tổ chức. Những cuộc hành quân khẩn trương, sự thiếu thốn lương thực cùng những gian khổ trên đường rút lui sẽ làm suy yếu nội bộ quân đội Pháp, đẩy họ vào vòng vây của Quân đoàn Áo-Bayern dưới quyền Wrede, lực lượng đang chặn đường tiến về sông Rhein củaNapoléon

Nhìn lại những gì đã diễn ra, vào rạng sáng ngày 19 tháng 10 , theo lệnh từ bộ chỉ huy tối cao, Cụm Quân đoàn II của Áo do Thống chế Lederer chỉ huy rời khỏi các vị trí đóng quân gần Leipzig. Đồng thời, Cụm Quân đoàn Gyulai cũng xuất phát từ Gaußzsch và Knauthain, tiến về Pegau, nơi họ hợp nhất với sư đoàn kỵ binh Nostitz. Tuy nhiên, ngay khi sẵn sàng tiếp tục hành trình đến Naumburg,  Schwarzenberg đã bất ngờ ra lệnh dừng lại. Những diễn biến chưa lường trước tại Leipzig có thể đòi hỏi sự hiện diện của tất cả các đơn vị. Vì vậy, Lederer và Nostitz quay trở lại, trong khi Gyulai ở lại Pegau chờ lệnh mới.

May mắn thay, vào lúc hai giờ chiều, tướng Langenau đến nơi, ra lệnh cho Gyulai tiếp tục hành quân đến Naumburg cùng với sư đoàn Moritz Liechtenstein. Trong khi đó, tin tức từ các đội tiền quân báo về cho hay sư đoàn Murray, đang đóng tại Weißenfels và Naumburg, đã phải rút lui về Zeitz do áp lực từ các đội hình lớn của Pháp . Vì thế, Gyulai ngay lập tức tiến quân đến Teuchern. Nhưng trên đường đi, tại Dobergaßt, họ gặp một chướng ngại không thể tránh khỏi: con đường duy nhất bị cản trở bởi hàng dài xe quân nhu của quân đoàn Kasa , khiến cuộc hành quân bị trì hoãn cho đến tối muộn.

Một tin tức an ủi đã đến trong đêm—tướng Thielmann và Mensdorff đã chiếm giữ Naumburg, đồng thời phát hiện một toán quân Pháp nhỏ còn sót lại, bỏ lại sau khi tướng Salins rút đi. Tuy nhiên, ngay từ sáng sớm, Gyulai vội vã tiến lên, đích thân dẫn quân đến Naumburg trước. Tại đây, ông biết được rằng quân Pháp từ Weißenfels đã cố gắng chiếm thành phố vào tối hôm trước, nhưng bị đội quân nhỏ bé của lữ đoàn Salins đã kiên cường đẩy lui. Đối phương dường như đã thay đổi hướng hành quân, rẽ về phía Freyburg. Khi phần lớn quân đoàn Gyulai và sư đoàn Liechtenstein đến nơi vào buổi tối, và đến nửa đêm, sư đoàn kỵ binh Nostitz cũng nhập vào đội hình, họ đã có đủ lực lượng để bảo vệ các con đường trọng yếu.


Bên cánh phải của liên minh, quân đoàn Yorck đã khởi hành từ tối ngày 18 tháng 10 , tiến về Halle. Sáng hôm sau,  đoàn Horn đã vào được Halle, trong khi Sư đoàn Hünerbein tiến đến Bruckdorf, cách đó bảy cây số. Trong lúc các trung đoàn kỵ binh trinh sát đến tận Weißenfels, lực lượng bộ binh vẫn đóng quân ở Halle. Buổi tối, Yorck nhận được tin từ Blücher rằng ông dự định vượt sông Elster tại Schkeuditz, sau đó tiến về Lützen.  Yorck vẫn chưa thể hội quân với Tập đoàn quân Schlesien


Yorck rời đi trước khi trận Leipzig ngã ngũ, và khi nhận tin rằng thành phố đã thất thủ, ông vẫn không rõ tình hình cụ thể của cả hai phe. Với những gì ông biết, quân Pháp có thể đã bị đánh bại, nhưng vẫn đang tổ chức một cuộc rút lui có trật tự về phía sông Saale. Vì thế, ông không vội lao vào vùng đồng bằng rộng lớn, nơi quân  Pháp có thể vẫn còn mạnh . Đến sáng ngày 20, kỵ binh của Yorck tiến về Weißenfels, tiếp theo là sư đoàn Horn, trong khi sư đoàn Hünerbein hướng đến Merseburg.

Khoảng chín giờ sáng, Yorck, đi đầu cùng kỵ binh của mình, đến Groß-Kayna và nhận được báo cáo rằng một đội hình Pháp đang di chuyển từ Weißenfels qua Markröhlitz, trong khi một đội hình khác hành quân dọc theo bờ sông Saale về phía Freyburg, cả hai được hộ tống bởi kỵ binh mạnh ở cánh phải. Ngay lập tức, Yorck ra lệnh cho lực lượng kỵ binh dự bị tấn công để làm chậm bước tiến của đối phương. Tuy nhiên, khi nhận thấy bộ binh của mình còn ở phía sau và quân địch có lực lượng áp đảo, ông buộc phải từ bỏ ý định tấn công. Cuộc đấu pháo kéo dài nhiều giờ, cho đến khi Yorck quyết định rút về Groß-Kayna. Trong khi đó, sư đoàn Horn đến Frankleben, còn Hünerbein do hiểu lầm mệnh lệnh nên đã vượt qua Merseburg, tiến về Lauchstädt.


Còn ở cánh trung tâm, khi cuộc tấn công vào Leipzig diễn ra, kỵ binh Sacken đã vượt sông Elster tại Schleußig. Buổi chiều hôm đó, sau khi thành phố thất thủ, bộ binh Sacken và Langeron tiếp tục tiến đến Schkeuditz. Sáng hôm sau, kỵ binh Wassiltschikow chạm trán với hậu quân Pháp, truy đuổi chúng từ Lützen đến Rippach. Một cuộc đấu pháo nhỏ nổ ra nhưng nhanh chóng kết thúc khi quân Pháp rút lui về Weißenfels vào buổi tối. Vasilchilkov đóng quân tại Röden, còn Sacken và Langeron đến Lützen.

Vệ binh Nga-Phổ và lực lượng dự bị rời Leipzig vào chiều ngày 19, tiến về Pegau. Sư đoàn Bubna đến Zwenkau vào tối muộn, trong khi phần còn lại của quân đội vẫn đóng quân quanh Leipzig, cùng với Tập đoàn quân Ba Lan và Tập đoàn quân Bắc.

Tại tổng hành dinh, một cuộc họp quan trọng diễn ra để quyết định kế hoạch truy kích Napoléon .  Cuối cùng, Schwarzenberg đưa ra chiến lược: Tập đoàn quân chủ lực liên minh sẽ truy đuổi phía trái của quân Pháp, trong khi Tập đoàn quân Schlesien đánh từ cánh phải. Trong khi đó Tập đoàn quân Bắc và Tập đoàn quân Lan, sẽ bám sát phía sau trung tâm quân Pháp. Ý đồ của họ là dồnNapoléon về phía Tập đoàn quân của Wrede, đặt ông ta giữa hai gọng kìm và tiêu diệt hoàn toàn quân đội Pháp.

Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là lực lượng của Pháp dưới quyền Davout ở miền Bắc nước Đức có tiếp tục cố thủ hay sẽ rút về Hà Lan. Do đó, việc sử dụng Tập đoàn quân Bắc để truy đuổi Napoléon vẫn chưa được quyết định, chỉ có quân đoàn Tauentzien, được tăng cường bởi quân Sachsen, được giao nhiệm vụ bao vây Torgau, Wittenberg và Magdeburg.

Theo kế hoạch này, Schwarzenberg ra lệnh cho Tập đoàn quân chủ lực liên minh xuất phát vào ngày 20 tháng 100 , hướng đến Erfurt—điểm đến có khả năng có sự hiện diện của Napoléon . Đạo quân chính được chia làm hai cánh: cánh thứ nhất, gồm Cụm Quân đoàn Gyulai, Wittgenstein, Kleist, cùng lực lượng dự bị và kỵ binh Nostitz, theo đường Naumburg—Eckartsberga—Buttelstedt. Đến tối, tiên phong của họ đã đến Naumburg, trong khi phần còn lại rải rác từ Teuchern đến Pegau. Cánh thứ hai, gồm phần quân Áo còn lại, đi theo ngã Zeitz—Eisenberg—Jena, đóng quân tại Zeitz vào buổi tối. Tập đoàn quân Ba Lan đến Schönau, chỉ còn Tập đoàn quân Bắc vẫn ở Leipzig cho đến ngày 22.

Ở phía bên kia chiến tuyến , vào ngày 18, quân Pháp dưới quyền  Bertrand đã để lại Sư đoàn Guilleminot tại Lützen để duy trì liên lạc với Đại quân. Trong khi đó, phần lớn lực lượng của ông đã đến Weißenfels vào buổi tối. Hôm sau, Bertrand điều Sư đoàn Morand tiến hành trinh sát Naumburg, nhưng vấp phải sự kháng cự mãnh liệt, khiến ông lầm tưởng rằng quân địch tại đây mạnh hơn thực tế. Do đó, ông quyết định rút lui về Weißenfels.

Đại quân Pháp vẫn còn đóng quân ở Lützen, trong khi Hoàng đế Napoléon cùng phần lớn Vệ binh nghỉ ngơi tại Markranstädt. Hai sư đoàn thuộc Vệ binh Trẻ dưới quyền Oudinot vẫn đang ở Lindenau. Vì cho rằng ngã đường qua đèo Kösen đã bị liên minh kiểm soát , quân Pháp bị buộc phải chọn tuyến vượt sông Saale tại Weißenfels và đi vòng qua Freyburg, dù con đường này xa hơn. Một toán quân của Bertrand đã đi trước đến Freyburg, phát hiện cây cầu bắc qua sông Unstrut đã bị đốt cháy, nhưng họ nhanh chóng dựng một cây cầu mới. Một cây cầu khác tại Zscheiplitz, tuy bị hư hại nhẹ, cũng nhanh chóng được sửa chữa, giúp quân Pháp có hai tuyến vượt sông chỉ trong vài giờ.

Sáng ngày 20, Bertrand tiến quân đến Freyburg, trong khi phần lớn Đại quân Pháp đến Weißenfels và vượt qua sông Saale dưới sự yểm trợ của các Quân đoàn II, VI và VII do Marmont chỉ huy. Tuy nhiên, đội hình hành quân của quân Pháp đã bắt đầu lỏng lẻo hơn so với ngày trước đó. Chỉ có quân của Bertrand, Vệ binh và kỵ binh là vẫn duy trì kỷ luật. Oudinot cũng rời Lindenau nhưng bị kỵ binh Sacken quấy rối, khiến ông chỉ có thể đến Weißenfels vào tối muộn. Napoléon ngủ qua đêm tại Martröhlik và ra lệnh điều quân đến Freyburg. Quân đoàn Bertrand và Quân đoàn Kỵ binh  5 được lệnh tiến đến Kösen để đánh bật quân địch đang trấn giữ khu vực này, mở đường cho cuộc vượt sông.

Vào ngày 21, khi đang triển khai hành quân về Edartsberga, Gyulai nhận tin báo từ tiền quân rằng quân Pháp đang tiến đến từ Freyburg. Ông vội vã thúc quân tiến đến Kösen, nơi tình hình đã trở nên nguy cấp. Quân Pháp lợi dụng màn sương dày đặc vào lúc rạng đông để kiểm soát các cao điểm bên bờ trái sông Saale, đẩy tiền quân Áo xuống khu vực gần cầu vượt sông Saale. Một trận chiến ác liệt nổ ra xung quanh cây cầu, kéo dài đến tối muộn, gây thiệt hại nặng nề cho cả hai bên. Cuối cùng, quân Áo đã thành công đẩy lùi quân Pháp trước khi họ kịp phá hủy cầu. Mặc dù thất bại trong việc chiếm giữ điểm vượt sông, quân Pháp vẫn ngăn được liên minh tiến về Edartsberga trong ngày hôm đó. Trận chiến khiến mỗi bên mất khoảng 1 000 người, quân Pháp còn bị bắt thêm 649 tù binh.



Cùng ngày, tại cánh phải của liên minh, Tướng Yorck, sau khi tập hợp quân đoàn của mình tại Peßkendorf, đã tiến về Freyburg . Lực lượng tiền quân do Bá tước Hendel von Donnersmarck chỉ huy tiến về Laucha. Do chưa rõ ý đồ của quân Pháp, Yorck chưa dám tấn công trực diện Freyburg, nơi đối phương đang phòng thủ vững chắc. Thay vào đó, ông quyết định đánh chiếm điểm vượt sông tại Zscheiplitz để hạn chế khả năng cơ động của đối phương.

Trong khi hành quân, Bá tước Hendel nhận tin báo rằng một đoàn tù binh lớn, được hộ tống bởi hai tiểu đoàn Pháp, vừa đi qua Baumersroda để đến Nebra. Ông lập tức chia quân, cử lực lượng tiên phong tiếp tục hành quân đến Laucha, còn bản thân dẫn hai trung đoàn kỵ binh truy kích. Gần Gleina, ông đuổi kịp đoàn áp giải, phá vỡ đội hình hộ tống và giải phóng khoảng 4 000 tù binh, chủ yếu là binh lính Áo bị bắt tại Dresden, Augustusburg và Leipzig. Một phần quân hộ tống Pháp, khoảng 400 người, bị bắt giữ, số còn lại chạy thoát về Laucha và phá hủy cây cầu tại đây.

Bá tước Hendel sau đó nhận lệnh của Yorck và tiếp tục tiến về Münchroda, nơi ông hội quân lúc 2 giờ chiều. Cùng lúc đó, quân Pháp rút lui khỏi Weißenfels theo hai cánh quân hướng đến Freyburg. Oudinot và lực lượng của ông yểm trợ cuộc rút lui, di chuyển chậm hơn để bảo vệ đội hình chính. Hành quân vào ban đêm trên địa hình đồi núi trơn trượt, cộng với sự kiệt sức của binh sĩ, khiến cuộc rút lui đầy gian khổ. Khi tiếng pháo từ Kösen vọng lại, tâm lý hoảng loạn lan rộng trong hàng ngũ Pháp.

Tại Zscheiplitz, Yorck mở cuộc tấn công lúc 2 giờ chiều, nhưng vấp phải sự kháng cự quyết liệt. Khi ba tiểu đoàn thuộc Sư đoàn Horn đến tiếp viện, liên minh mới đẩy lui được quân Pháp khỏi vị trí phòng thủ. Pháo binh được triển khai để ngăn cản cuộc vượt sông của đối phương. Quân Pháp buộc phải phản công, và sau khi tung vào trận năm tiểu đoàn, họ đã đẩy lùi liên minh. Giao tranh kéo dài đến 9 giờ tối, trước khi Yorck ra lệnh rút lui về Gleina, giữ nguyên lực lượng tiên phong tại Münchroda.

Trong khi đó, kỵ binh dự bị của Yorck đã giao tranh với hậu quân của Oudinot gần Markröhlig. Trận chiến kéo dài đến tối, không phân thắng bại. Quân Pháp giữ được vị trí đến đêm và tiếp tục rút lui an toàn về Freyburg. Tổng cộng vào ngày 21 tháng 10 , Yorck mất 17 sĩ quan và 827 binh sĩ.

Tại Weißenfels, quân của Sacken và Langeron chỉ vượt sông Saale vào buổi tối do cây cầu tại đây bị phá hủy.

Cùng lúc đó, Blücher nhận được sắc lệnh từ Quốc vương Phổ, trong đó ca ngợi những chiến thắng của ông và phong ông thành Thống chế:

"Bằng những chiến thắng liên tiếp, ngài đã lập công lao cho tổ quốc với tốc độ nhanh hơn cả tốc độ mà ta có thể trao tặng phần thưởng. Hãy nhận lấy danh hiệu Thống chế như một minh chứng cho lòng biết ơn của ta và tiếp tục dẫn dắt quân đội tới vinh quang và chiến thắng."

Đến tối ngày 21, liên minh đã tiến đến khu vực Naumburg, Stößen và Eisenberg, trong khi quân Ba Lan tiến đến Lüßen. Riêng Tập đoàn quân Bắc vẫn còn đóng quân tại Leipzig.

 

Vào ngày 22, quân Pháp hoàn tất cuộc vượt sông tại Freyburg. Napoléon, đến Edartsberga từ tối hôm trước, có thể hài lòng với kết quả hai ngày qua: ông đã thành công đưa sông Saale và Unstrut thành chướng ngại vật tự nhiên giữa mình và các Tập đoàn quân của Blücher, Schwarzenberg và Bennigsen. Nhờ đòn đánh của Bertrand tại Kösen, quân Áo không thể chiếm được Edartsberga trước quân Pháp. Đường rút lui về Erfurt giờ đây đã được mở.Tối đó, đại quân Pháp đóng trại giữa Buttelstedt và Ollendorf, Oudinot đóng tại Edartsberga, Bertrand đóng tại Liebstedt.

Như vậy chỉ 3 ngày sau trận Leipzig , nếu không tính các lực đang bị vây hãm trong các pháo đài thì toàn bộ Vương quốc Sachsen đã hoàn toàn sạch bóng quân Pháp .

16.Giải phóng Tây Đức , Liên bang sông Rhine sụp đổ

Vào buổi tối ngày 22, cánh trái của Tập đoàn quân chủ lực tiến về phía trước, với Sư đoàn Bubna đến Weimar và phần còn lại đến Jena. Ở cánh phải, Gyulai đụng độ hậu quân của Oudinot gần Edartsberga, nhưng cuộc giao tranh chỉ diễn ra nhỏ lẻ. Wittgenstein tiến đến Kösen, trong khi Kleist, do đường sá tắc nghẽn, chỉ có thể đến Naumburg.

Do lo ngại rằng St. Cyr có thể tìm cách phá vỡ vòng vây tại Dresden để hợp nhất với các lực lượng đồn trú khác dọc sông Elbe, Klenau đã được điều động đến Dresden để tăng cường quân bao vây tại đây. Trong khi đó, Bennigsen đã tiến đến Weißenfels, còn Tập đoàn quân Bắc cuối cùng cũng bắt đầu hành quân về Göttingen.

Ở cánh phải của liên minh , vào sáng ngày 22, Yorck chỉ để lại một lực lượng mỏng trấn giữ Frenburg và tiến hành giải tỏa con đường hẹp đang bị tắc nghẽn bởi đủ loại phương tiện. Tuy nhiên, thay vì ngay lập tức khôi phục những cây cầu bị quân Pháp đốt cháy, ông lại dành thời gian cải thiện tình trạng trang bị rách nát của binh sĩ. Khi Blücher cùng Quân đoàn Langeron đến Freyburg vào giữa trưa, ông tỏ ra rất bất mãn với Yorck .

Ngay lập tức, Blücher ra lệnh khôi phục các cầu vượt và buộc quân mình phải hành quân thần tốc để kịp thời chặn quân Pháp tại các lối hẹp gần Eisenach, hoặc nếu họ cố thủ tại Erfurt, thì sẽ đánh úp sau lưng địch. Nhưng việc xây lại cầu ở Freyburg gặp nhiều khó khăn, khiến Yorck phải chuyển hướng sang Laucha và Burgscheidungen, nơi kỵ binh của ông đã vượt sông. Tuy nhiên, chỉ có một phần của Sư đoàn Hünerbein có thể sang bờ bên kia, còn phần lớn quân đoàn không thể vượt qua sông Unstrut. Vì thế, kế hoạch hành quân đặt ra cho ngày 23 không thể thực hiện được .

Blücher ra lệnh ít nhất phải đảm bảo các mũi tiên phong đạt được vị trí chỉ định trong ngày, nhưng điều này cũng chỉ thành công một phần do đường sá lầy lội gây khó khăn lớn. Đặc biệt bởi vì tiền quân của Yorck đã bị kiệt sức. Dù kỵ binh đến được Sömmerda vào buổi tối, nhưng bộ binh mãi sáng hôm sau, thậm chí đến trưa, mới đến nơi. Kỵ binh dự bị của Yorck tiến đến Ostramonda, phần lớn quân chủ lực đóng ở Klein-Neuhausen và Roldisleben, còn Sacken dừng chân ở Bachra. Không rõ Langeron tiến đến đâu, nhưng chắc chắn ông ấy vẫn chưa hành quân đến lâu đài Vippart.

Cũng trong ngày hôm đó, Sa hoàng, vốn rất bất mãn với tốc độ di chuyển chậm chạp của quân đội, đã ra lệnh thành lập một đội tiên phong mới gồm kỵ binh Nga và Phổ, cùng một số khẩu đội pháo kỵ , giao cho Pahlen chỉ huy. Đơn vị này phải vượt qua Gyulai và truy kích quân địch quyết liệt. Khi đến Buttelstedt, họ đụng độ hậu quân Pháp, nhưng sau cùng địch rút lui thành hai đội hình . Đến tối, Pahlen chiếm giữ tuyến Neumart-Ramsla, trong khi lực lượng chủ lực cánh phải đến Nermsdorf, trải dài đến Edartsberga. Cánh trái của Tập đoàn quân chủ lực , với Bubna, tiến về Nohra, lực lượng chủ lực đến Weimar, còn Tập đoàn quân Ba Lan đến Nebra và Freyburg.

Ngày hôm sau, sau một cuộc hành quân ngắn đến Rastenberg, Tập đoàn quân Ba Lan nhận lệnh điều động: 12 000 quân sẽ tăng viện cho Quân đoàn Winzingerode, số còn lại (14 000 quân) sẽ tiến về sông Elbe.

Lúc này, có ý kiến cho rằng Napoléon, cùng với Đại quân sẽ đến khu vực Erfurt vào ngày 24, có thể cố thủ tại đây, sử dụng kho dự trữ của pháo đài để bổ sung lực lượng và tổ chức một trận đánh quyết định. Điều này khiến Schwarzenberg ra lệnh tập hợp lại hai cánh của Tập đoàn quân chủ lực, vốn bị dãy Ettersberge chia cắt, đồng thời chỉ thị cho Blücher hành quân từ Tennstedt đến Langensalza. Mục tiêu là bao vây quân Pháp tại Erfurt, đánh vào hai bên sườn và sau lưng nếu trận chiến xảy ra. Một cuộc trinh sát toàn diện được lên kế hoạch cho ngày 25 để xác định ý đồ của địch.

Trong khi liên minh  chuẩn bị đối phó với một trận đánh mới, bản thân Napoléon có lẽ không còn ý định thử vận may thêm lần nữa. Với một đội quân chỉ còn khoảng 70 000 đến 80 000 người và tinh thần chiến đấu suy sụp, ông chỉ mong củng cố lực lượng từ kho dự trữ ở Erfurt, nghỉ ngơi ngắn hạn rồi rút lui về phòng tuyến sông Rhine .

Do đó, ngay ngày 24, tiền quân Pháp đã hành quân đến Gotha và đến ngày 25, họ đến Eisenach. Cùng ngày, Murat đã rời khỏi Đại quân để trở về Vương quốc Napoli , bắt đầu đàm phán với liên minh . Đại quân Pháp theo sau, tiến đến Gotha, trong khi hậu quân gồm hai sư đoàn Vệ binh Trẻ và Quân đoàn Kỵ binh 1 dưới quyền Mortier cũng rút từ Erfurt về Gotha.

Vì vậy, khi tiên phong của Bubna vào chiều ngày 25 mở cuộc trinh sát về phía nam các điểm vượt sông Gera, họ chỉ phát hiện rằng quân Pháp đã rời Erfurt từ lâu. Pháo đài tại đây vẫn được phòng thủ vững chắc, với quân đồn trú kiên quyết giữ vững vị trí.

Sau khi nhận được báo cáo trinh sát vào buổi tối, Schwarzenberg quyết định không cho toàn quân vượt dãy Thüringer trên một con đường duy nhất, vốn đã cạn kiệt lương thực và bị dịch sốt rét hoành hành. Thay vào đó, ông tổ chức thành ba đội hình hành quân song song nhau.

Ngày 26, Quân đoàn Wittgenstein và Kleist hợp nhất tại Vieselbach, tiến về Erfurt làm cánh phải. Để phong tỏa pháo đài, lực lượng của Gorchakov , gồm Sư đoàn Helffreich, các lữ đoàn Klüx và của Thái tử August, cùng kỵ binh dự bị Phổ, được để lại. Sau đó, lực lượng này tiếp tục tiến đến Friemar.Đội hình trung tâm, gồm toàn bộ quân Áo, tiến đến Gugeleben. Trong khi đó, đội hình bên trái, gồm lực lượng dự bị Nga-Phổ, đến Kranichfeld.

Ngày 25, Tập đoàn quân Schlesien nhận được tin tức rằng quân Pháp đang hành quân theo ba đội hình , trong đó đội hình đầu tiên đã đến Eisenach vào ngày hôm trước, đội hình thứ hai đến nơi trong ngày, và đội hình thứ ba dự kiến sẽ đến vào ngày hôm sau. Ngay lập tức, Tập đoàn quân Schlesien vội vã tiến về Langensalza, và đến tối cùng ngày đã có mặt tại đó.

Sáng ngày 26, kỵ binh dự bị của ba Quân đoàn tiến về phía Hörselberge, sẵn sàng tập kích hậu quân Pháp đang rút về Eisenach. Một đội hình quân Pháp mạnh đang đóng trại tại Sattelstedt, bên kia sông Hörsel, bất ngờ bị pháo kích dữ dội, buộc phải tháo lui về Eichrodt. Tuy nhiên, do quân Pháp hành quân trong đội hình nghiêm ngặt, lại được bảo vệ tốt ở hai bên sườn, nên không thể đạt được thắng lợi quyết định. Ngay cả khi Sư đoàn Hünerbein đến sau cũng không thể chặn đường rút của địch. Có lẽ, nếu dốc toàn lực, kết quả đã khả quan hơn. Nhưng sau bốn ngày hành quân gian khổ dưới thời tiết khắc nghiệt, đường sá lầy lội, và những đêm đóng trại kiệt quệ, binh lính gần như suy sụp. Ngay cả các tướng lĩnh cũng không dám đặt thêm gánh nặng lên đôi vai những người lính đã kiệt sức. Trong hoàn cảnh ấy, ngay cả ý chí sắt đá của Blücher cũng đành bất lực.

Ngày hôm sau, Sacken tiếp tục truy kích quân địch, nhưng địch đã rời bỏ Eichrodt từ sáng sớm và rút khỏi Eisenach vào buổi sáng. Sau một số trận giao tranh với hậu quân Pháp, Sacken tiến vào Eisenach và truy kích địch đến tận Berka.

Trong khi đó, Yorck nhận lệnh tiến về Barchfeld để cắt đứt đường rút lui của Quân đoàn Bertrand, vốn đang hành quân từ Seebach và Schwarzhausen để hội quân với Dudinot tại Tiefenort, cách Vacha 10 km về phía đông. Tuy nhiên, tình trạng kiệt quệ của Quân đoàn khiến ông phải trì hoãn, thậm chí còn phải dừng chân lâu tại Eisenach. Nhờ đó, Bertrand có đủ thời gian hoàn thành cuộc hành quân ngang sườn và rút lui an toàn.

Từ thời điểm này,  nhịp độ tiến quân buộc phải chậm lại do mệt mỏi , khiến liên minh mất dấu quân địch và họ chỉ có thể tái lập liên lạc với quân Pháp ở bên kia đồng bằng Fulda. Đến tối ngày 30, Tập đoàn quân Schlesien đóng quân trên tuyến Rothkirchen–Burghausen–Hünfeld, với ba Quân đoàn bố trí ngang hàng trên một chiến tuyến rộng chỉ 7 km.

Trong khi đó, hai đội hình bên trái và giữa của Tập đoàn quân chủ lực tiếp tục tiến qua rừng Thüringen, còn đội hình bên phải đến Gotha vào ngày 27. Tuy nhiên, tại đây, họ nhận lệnh dừng lại để chuẩn bị bao vây Erfurt. Đến ngày 28, hai đội hình trái đã tiến đến Schmalkalden–Zella, và ngày 29, đến vùng Meiningen.

Mệnh lệnh của Wittgenstein vào ngày 27 cũng bị điều chỉnh: thay vì Quân đoàn Wittgenstein, chỉ có Quân đoàn Kleist được giao nhiệm vụ bao vây Erfurt. Còn Quân đoàn Wittgenstein sẽ tiến qua Berka và Hersfeld để đến Alsfeld, vì có phỏng đoán rằng Napoléon, để tránh đụng độ với Tập đoàn quân của Wrede, có thể chọn tuyến đường qua Gießen và Beglar để tiến về Koblenz.

Nhìn lại từ ngày 20 đến ngày 29 tháng Mười, có thể thấy rõ những khó khăn trong việc truy kích Napoléon. Ban đầu, ông ta chỉ hơn liên minh một bước, nhưng dù quân Pháp ngày càng rối loạn, phải vượt hai con sông lớn, và thậm chí dừng chân nghỉ hai ngày tại Erfurt, liên minh vẫn không thể bắt kịp. Điều này đã khiến nhiều nhà phê bình sau này chỉ trích gay gắt bộ chỉ huy liên minh.

Đại quân Pháp đã rút lui khỏi sông Pleiße và Elster trong đội hình nghiêm ngặt, với hậu quân ở Leipzig che chắn rất hiệu quả. Sự rối loạn trong đoàn quân Pháp chỉ xảy ra ở phía sau, còn những đơn vị đã vượt qua các cửa ải vẫn giữ vững trật tự. Vì thiếu cầu vượt sông, liên minh không thể lập tức truy kích. Hơn nữa, Quân đoàn Oudinot, với hai sư đoàn tinh nhuệ, đã bảo vệ chặt chẽ cửa ải Lindenau cho đến ngày 20, khiến bất kỳ nỗ lực truy kích nào đều trở nên bất khả thi. Nhờ đó, Napoléon có được lợi thế 18 giờ, và do đường rút lui của ông ta khá ngắn, trực tiếp từ Erfurt đến Mainz, nên liên minh không thể cắt đường rút của ông bằng lực lượng lớn.

Ngay cả khi Tập đoàn quân Schlesien cuối cùng cũng tiếp cận được đường chính dẫn đến Erfurt và hậu quân Pháp, thì cả người lẫn ngựa đều đã kiệt sức, . Trong khi đó, đội hình bên phải của Tập đoàn quân chủ lực chạm trán với Quân đoàn Bertrand tại cầu Kösen nhưng không thể đánh bại họ nên buộc phải chờ địch rút lui. Đội hình bên trái thì phải vượt qua Zeitz, Eisenberg và Jena, với tổng quãng đường hành quân gần 150 km trước khi đến được Erfurt, và điều này đồng nghĩa với việc họ không thể tác động gì tới Đại quân trước ngày 24 – thời điểm Napoléon đã có mặt dưới chân thành phố.

Từ đây, có thể rút ra kết luận rằng, một khi cơ hội truy kích lý tưởng đã bị bỏ lỡ – tức là khi liên minh không tận dụng đêm 18 để triển khai lực lượng mạnh nhằm cắt đường rút lui của địch – thì không còn cách nào để gây tổn thất nghiêm trọng cho Napoléon nữa. Dẫu vậy, đội quân của Pháp vẫn đang tan rã từng ngày, bởi những yếu tố như sự kiệt quệ, thiếu thốn lương thực, thành phần binh sĩ quá trẻ . Ngoài ra, các đơn vị Cossack và kỵ binh tuần tiễu liên tục quấy rối, buộc quân Pháp phải luôn duy trì cảnh giác, khiến bất kỳ ai đi lạc khỏi đội hình đều có thể bị tiêu diệt.

Vì vậy, dù không có những trận đánh lớn, cuộc truy kích vẫn mang lại hiệu quả đáng kể. Chỉ còn thiếu sự khắc nghiệt của mùa đông để quân đội Pháp năm 1813 phải chịu số phận tương tự như đoàn quân đã tan tác trên đất Nga một năm trước đó.

 

Từ trước trận Groß-Görschen, Áo đã nỗ lực lôi kéo Bayern về phe Liên minh.
Vương quốc Bayern là bang quốc mạnh nhất ở phía nam xứ Đức và là thành viên chủ chốt thuộc Liên bang sông Rhine cùng với Vương quốc Westfalen bù nhìn .


Những nỗ lực của Áo được hậu thuẫn mạnh mẽ bởi tâm lý bất mãn trong dân chúng. Kể từ sau thảm họa tại Nga, nơi 30 000 người con quả cảm của Bayern bỏ mạng giữa băng giá khắc nghiệt, lòng căm phẫn đối với hệ thống cai trị của Napoléon dâng trào khắp nơi. Các nhà ái quốc không ngừng khơi dậy tinh thần chống Pháp trên khắp xứ sở, thậm chí ngay cả Thái tử và Hoàng hậu cũng bày tỏ thiện cảm với phong trào này.

Tuy nhiên, Quốc vương thì vẫn do dự. Ngài bị ảnh hưởng bởi vị tể tướng trung thành với Napoléon, Bá tước Montgelas, người luôn khuyên bảo giữ nguyên lập trường. Quả thực, dưới chế độ của Hoàng đế Pháp, Bayern đã được hưởng nhiều lợi ích , chính Napoléon đã nâng Bayern từ Hầu quốc lên hàng Vương quốc vào năm 1806 .

 Quốc vương vì thế không tin vào khả năng chiến thắng của liên minh và đặc biệt ngờ vực lòng tham lãnh thổ của Áo, quốc gia mà Bayern đã bao lần phải chống lại để bảo vệ sự tồn tại của chính mình. Nhưng mặt khác, ngài cũng khéo léo từ chối những yêu cầu hỗ trợ quân sự từ Napoléon, giữ Bayern trong tình thế trung lập mong manh.

Tình thế thay đổi khi Áo chính thức tham gia Liên minh. Quốc vương khi ấy buộc phải tính đến việc thay đổi chính sách, nhưng trước hết cần củng cố sức mạnh quân sự để có thể mặc cả trong bất kỳ thỏa thuận nào. Việc một đạo quân Áo tiến sát biên giới Bayern tạo cơ hội để ngài viện cớ từ chối cung cấp thêm quân cho Napoléon, ngoại trừ Sư đoàn Raglovich. Đồng thời, Bayern bí mật bắt đầu tăng cường lực lượng.

Sau trận Dennewitz, Quốc vương cho rằng thời cơ đã đến, và Bá tước Wrede được giao quyền thương thảo với Áo. Sau bốn tuần đàm phán, vào ngày 8 tháng 10 , Hiệp ước Ried được ký kết. Theo đó, Bayern cam kết gia nhập Liên minh, đổi lại sẽ được bảo toàn lãnh thổ và chủ quyền, cùng một số điều chỉnh đường biên giới có lợi cho mình . Quân đội Bayern cũng được đảm bảo quyền tự chủ tối đa trong các chiến dịch quân sự. Dưới áp lực của Áo, Phổ và Nga cũng công nhận các điều khoản này.

Bayern chưa bao giờ hy vọng đạt được những điều kiện có lợi đến vậy. Chính vì thế, Hiệp ước Ried bị những người theo đuổi lý tưởng thống nhất nước Đức kịch liệt chỉ trích. Đối với họ, việc trao cho một kẻ bại trận – một quốc gia từng trung thành với Napoléon đến phút cuối cùng – những đặc quyền như vậy là không thể chấp nhận được .

Ngày 15 tháng 10, Bá tước Wrede chính thức tiếp quản quyền chỉ huy Tập đoàn quân Áo–Bayern. Lực lượng Áo, dưới quyền Thượng tướng kỵ binh Frimont, gồm 18 tiểu đoàn , 5.5 đại đội, 30 kỵ đội và 68 khẩu pháo, tổng cộng 23 338 người .

Trong cuộc viễn chinh tại Nga, Bayern gửi đi 30 000 quân, đến tháng 12 năm 1812 còn điều thêm 8 000 quân tiếp viện. Nhưng sau chiến dịch, 30 000 người đã tử trận, toàn bộ pháo binh và 578 xe quân dụng bị mất, không một con ngựa nào trong sáu trung đoàn kỵ binh trở về Đức. Đến tháng Giêng năm 1813, quân đội Bayern chỉ còn là những tàn quân đóng tại Danzig và Thorn, cùng vài nghìn tân binh, thương binh và binh sĩ đang hồi phục.

Trong bối cảnh đất nước kiệt quệ, thiếu hụt sĩ quan và hạ sĩ quan, việc xây dựng lại quân đội gặp muôn vàn khó khăn. Dù lệnh cưỡng bách quân dịch được thực thi một cách tàn nhẫn, Bayern cũng chỉ tập hợp được 14 000 quân trước ngày 1 tháng 3 . Trong số này, 5.600 quân dưới quyền tướng Raglovich được gửi đến Sachsen cuối tháng Ba, để lại khoảng 7 000–8 000 quân trong nước. Nếu muốn duy trì sức mạnh quân sự phù hợp với tham vọng chính trị của mình, Bayern buộc phải áp dụng mô hình nghĩa vụ quân sự giống như Pháp và Phổ.

May mắn thay, Bayern đã có sẵn một lực lượng dân quân chính là các "Binh đoàn cơ động'' (mobilen Legionen) , tương đương với Vệ binh quốc gia của Pháp . Dù theo hiến pháp, lực lượng này chỉ được triển khai trong lãnh thổ Bayern, nhưng ngày 28 tháng 2 , lệnh tổng động viên được ban hành. Tất cả nam giới từ 20 đến 40 tuổi, chưa nhập ngũ và không có gia đình ổn định, đều phải cầm vũ khí.

Dưới sự lãnh đạo của Wrede, đội quân chắp vá này nhanh chóng được tổ chức thành một lực lượng chiến đấu thực thụ. Đến tháng 6, Bayern đã có 32 tiểu đoàn với 18 379 quân, cùng một trung đoàn kỵ binh Vệ binh quốc gia gồm 780 ngựa. Họ được huấn luyện tại trại doanh trại gần München, dưới sự giám sát trực tiếp của Wrede. Lòng yêu nước và tinh thần quân sự của họ phát triển mạnh mẽ, đến mức 20 tiểu đoàn bộ binh và trung đoàn kỵ binh thuộc Vệ binh quốc gia đã tự nguyện ra chiến trường ngoài biên giới Bayern .

Song song với việc xây dựng Vệ binh quốc gia, quân đội chính quy cũng được mở rộng. Đến ngày 1 tháng 6 , lực lượng chính quy (không kể Sư đoàn Raglovich) đã đạt 12 869 quân. Nhờ có thời gian huấn luyện kỹ lưỡng cho đến giữa tháng 10 , họ có trình độ tác chiến vượt xa lực lượng Landwehr của Phổ, vốn mới được thành lập trong hoàn cảnh vội vàng. Nhờ nền kinh tế vững mạnh, Bayern cũng trang bị cho quân đội của mình tốt hơn so với Phổ.

Tới ngày 15 tháng 10 , quân đoàn Bayern có 30 tiểu đoàn bộ binh (trong đó 11 tiểu đoàn thuộc Vệ binh quốc gia), 28 kỵ đội  và 66 khẩu pháo, tổng cộng 28 500 quân chiến đấu. Kết hợp với lực lượng Áo, Tập đoàn quân Áo–Bayern gồm 48 tiểu đoàn, 58 kỵ đội , 134 khẩu pháo , tổng cộng 52 000 quân.



Người được trao quyền chỉ huy lực lượng này – Bá tước Wrede –rất xứng đáng với sự tín nhiệm của Áo. Sinh năm 1767 tại Heidelberg, ông đã có một sự nghiệp quân sự rực rỡ. Ban đầu theo đuổi ngành luật, nhưng năm 1787, ông trở thành đại diện của Bayern tại bộ chỉ huy quân đội Áo đóng trên sông Rhein. Từ đó, ông tham gia tất cả các chiến dịch lớn, học hỏi từ các danh tướng như Wurmser, Clerfait và Đại Công tước Karl.

Năm 1799, nhờ sự tiến cử của Đại Công tước Karl, Tuyển hầu tước Max Joseph bổ nhiệm Wrede làm đại tá thuộc quân đội Bayern . Ông lập tức chứng tỏ tài năng khi chỉ huy một đơn vị lính tình nguyện. Sau hòa bình, ông đóng vai trò quan trọng trong việc tái tổ chức quân đội Bayern. Từ năm 1805, Wrede tham gia mọi chiến dịch của Napoléon, được phong Thượng tướng của Pháp vào năm 1807 và Thượng tướng kỵ binh vào năm 1811.

Nhờ những chiến công xuất sắc, Napoléon ban cho ông huân chương Bắc Đẩu Bội tinh năm 1806, và tước hiệu Bá tước Đế chế Pháp vào năm 1809. Ông còn nhận được nhiều bổng lộc và lương hưu từ Pháp, khiến ông bị người Đức xem là tay sai trung thành của Napoléon .

Nhưng năm 1813, Wrede bất ngờ quay lưng lại với Napoléon. Lý do thực sự vẫn là một bí ẩn: có thể là do lòng tự ái bị tổn thương khi không được Napoléon phong Thống chế hay có thể là do nhận thấy sự suy vong của Đế chế Pháp, hoặc đơn giản là ông lo lắng cho tương lai của Vương quốc Bayern. Dù sao đi nữa, từ đây, Wrede trở thành một trong những kẻ thù quyết liệt nhất của Napoléon.



Sau khi ký kết Hiệp ước Ried, tướng Wrede lập tức gửi đến Schwarzenberg ba kế hoạch tác chiến. Phương án thứ nhất đề xuất hành quân đến vùng sông Saale để hội quân với Tập đoàn quân chủ lực , phương án thứ hai hướng đến Würzburg và Erfurt nhằm uy hiếp tuyến đường rút lui dự kiến của Napoléon, còn phương án thứ ba táo bạo hơn: đánh sâu vào lãnh thổ Pháp với mục tiêu bất ngờ đánh chiếm Kehl, Straßburg, Landau và Mainz. Tuy nhiên, Schwarzenberg bác bỏ cả ba, vì ông không muốn Quân đoàn Áo-Bayern hoạt động ngoài tầm ảnh hưởng của lực lượng chính trong trường hợp một trận quyết chiến bất lợi xảy ra. Ngày 13 tháng 10, ông lệnh cho Wrede hành quân đến Bamberg, chiếm Würzburg, củng cố phòng tuyến sông Main, sau đó đánh thọc vào tuyến liên lạc của địch tại Frankfurt hoặc Fulda.

Trong lúc đó, Wrede đã tiến quân về Landshut. Từ đây, ông đưa quân tràn vào biên giới Württemberg, qua Nördlingen, Dinkelsbühl, Ansbach tiến thẳng đến Würzburg.  Bằng lời đe dọa xem Württemberg là đất nước thù địch, Wrede đã khiến Vương quốc Württemberg buộc phải cung cấp thêm 4 000 quân và 600 ngựa vào ngày 23 tháng 10.  

Wrede cũng đe dọa Baden và Hessen nhằm buộc họ rời khỏi Liên bang sông Rhein. Tuy nhiên, thái độ cứng rắn, thậm chí có phần kiêu ngạo của ông đối với các đồng minh cũ đã làm dấy lên làn sóng thù địch của các bang quốc nam Đức với Bayern. Sự oán giận này kéo dài khá lâu và nếu quả thật Wrede có ý định thành lập một Liên Bang Nam Đức chống lại cả Áo và Phổ, thì chính cách hành xử của ông lại là trở ngại lớn nhất cho kế hoạch đó.

Tại Dinkelsbühl, Wrede nhận được tin về chiến thắng vĩ đại của liên minh tại Leipzig, đồng thời Schwarzenberg cũng yêu cầu ông nhanh chóng cắt đứt đường rút của địch về Mainz. Dù thông tin về vị trí và tình trạng quân Pháp còn khá mơ hồ, Wrede vẫn bắt tay vào nhiệm vụ một cách đầy quyết tâm. Trong vòng tám ngày, ông thúc quân hành quân 300 km trong điều kiện đường xá tồi tệ và thời tiết khắc nghiệt, đến Uffenheim vào ngày 24 tháng 10. Đội quân kiệt sức của ông rất cần được nghỉ ngơi, nhưng Wrede lại sử dụng thời gian này để tổ chức tấn công Würzburg. Dù các cuộc pháo kích và xung phong đều thất bại, song viên chỉ huy địch đồng ý ký thỏa thuận bàn giao thành phố cho ông, ngoại trừ pháo đài và khu vực phía Main. Tuy nhiên, chiến thắng này không mang lại lợi ích đáng kể nào, trong khi quân ông đã mất ba ngày quý giá mà vẫn không có cơ hội hồi phục sức lực.

Ngày 26 tháng 10, Wrede chia quân làm hai cánh tiến về Aschaffenburg. Cùng ngày, toán kỵ binh trinh sát của đại tá Scheibler tại Schweinfurt báo tin quân Pháp đã bắt đầu rút qua Fulda từ ngày 25 tháng 10. Thông tin này hoàn toàn chính xác, nhưng đáng tiếc Wrede lại bị lung lay bởi một mệnh lệnh từ Schwarzenberg vào ngày 28, cho rằng Napoléon có thể sẽ rút về Koblenz do sức ép từ quân Blücher ở Langensalza. Ngoài ra, các chỉ huy kỵ binh Cossack theo dõi quân Pháp cũng khẳng định rằng chỉ có khoảng 18 000 đến 20 000 quân di chuyển theo hướng Hanau. Vì vậy, Wrede tin chắc rằng Napoléon sẽ vượt sông Rhein tại Koblenz, bất chấp nhiều tin tức khác tiếp tục xác nhận rằng đại quân Pháp đã đóng trại tại Fulda trong đêm 27-28 tháng 10 và chính Hoàng đế đã có mặt ở đó. Phải đến khi tiếng hô "Vive l'Empereur!" vang lên trong trận đánh tại Hanau, Wrede mới nhận ra sai lầm của mình.

Trước tin quân Pháp đã xuất hiện ở Hanau, ngày 27 tháng 10, Wrede phái ba trung đoàn kỵ binh và Sư đoàn Lamotte đến đó trước. Tối ngày 28, Lamotte đến nơi, quét sạch quân địch ra khỏi thành phố. Ngày hôm sau, Lữ đoàn Deron tấn công một cánh quân Pháp khoảng 3 000 người vừa rời khỏi rừng Lamboi. Lực lượng này, bị vây từ hai phía bởi quân của Tchernichev và Kaisarov, buộc phải hạ vũ khí.

Chiều ngày 29, Wrede đích thân đến Hanau. Ông vẫn tin rằng chỉ đang đối đầu với một toán quân lẻ của quân Pháp, nên đã điều Sư đoàn Rechberg xuống Frankfurt để bảo vệ hướng Mainz, đồng thời giữ lại Lữ đoàn Württemberg ở Aschaffenburg trong trường hợp địch rẽ sang hướng đó.

Hanau, nơi sắp diễn ra trận đánh lớn vào ngày 30 và 31 tháng 10, nằm trong một khúc cong của sông Kinzig, giữa dòng chảy của con sông này và sông Main. Thành phố lúc bấy giờ vẫn còn những bức tường thành cổ đã lỗi thời cùng một hào nước hẹp dẫn từ sông Kinzig. Hai cây cầu quan trọng bắc qua sông là cầu Lamboi ở phía đông và cầu Kinzig ở phía tây bắc thành phố. Cách Hanau một phần tư dặm về phía đông và bắc là những khu rừng rậm rạp, nơi quân đội sắp sửa lao vào cuộc chiến sinh tử.

Rạng sáng ngày 30 tháng 10, Wrede thúc ngựa tiến lên tiền tuyến, đích thân quan sát chiến trường và triển khai đội hình tác chiến cho quân đoàn của mình. Ông bố trí các lực lượng của mình như sau:

Bên cánh phải, Sư đoàn Beckers được tăng cường bởi hai trung đoàn Áo, với tổng cộng 14 tiểu đoàn bộ binh và 8 khẩu pháo. Lực lượng này án ngữ tại cầu Lamboi, bố trí mặt trận đối diện rìa rừng Lamboi, trải dài hai bên sông Kinzig.

Ở trung tâm, Sư đoàn Lamotte với 9 tiểu đoàn và 4 kỵ đội  được triển khai, với cánh phải đóng tại Neudorf và cánh trái dọc theo đường cái dẫn đến Gelnhausen.

Trên cánh trái, 28 khẩu pháo của Áo và Bayern được bố trí hai bên đường cái Gelnhausen. Phía sau và kéo dài về bên trái đến tận suối Krebsbach, Wrede xếp thành hàng dọc 5 tiểu đoàn bộ binh Áo cùng 46 kỵ đội (20 của Bayern và 26 của Áo), sẵn sàng đánh chặn hoặc tung ra đòn đột kích khi cần thiết.

Lực lượng dự bị được đặt dọc theo con đường từ Hanau đến Niederrodenbach và trong chính thành phố Hanau, bao gồm 8 tiểu đoàn , 3 kỵ đội  và 22 khẩu pháo.

Tổng cộng trận này liên minh có 30 tiểu đoàn , 53 kỵ đội , 58 pháo và 2 trung đoàn Cossack . Tổng cộng khoảng 30 000 người .



Vị trí phòng thủ mà Wrede thiết lập hoàn toàn đi ngược với những nguyên tắc chiến thuật cơ bản nhất. Đội hình của ông bị sông Kinzig chia cắt làm hai, nếu vị trí trung tâm rơi vào thế hiểm thì  có thể bị dồn ép vào khúc sông không có cầu qua sông , điều này đồng nghĩa với sự hủy diệt hoàn toàn. Hơn thế nữa, khu rừng rậm rạp ở phía trước tạo điều kiện thuận lợi để quân địch tiếp cận bí mật mà không chịu tổn thất nào, từ đó bất ngờ phát động tấn công vào cánh phải hoặc cánh trái.

Sau khi bố trí xong đội hình ngày 30 tháng 10, Wrede trở lại Hanau. Dù các trinh sát liên tục báo tin rằng toàn bộ Đại quân của Napoléon đang tiến đến, ông vẫn giữ vững niềm tin rằng đây chỉ là cánh quân yếu của địch. Nhưng đến khi không thể phủ nhận thực tế nữa, ông quyết định chấp nhận giao chiến quyết liệt , đặc biệt khi Schwarzenberg từng cam đoan sẽ truy đuổi quân Pháp gắt gao.

Napoléon đến Schlüchtern vào ngày 28 tháng 10. Đến ngày 29, những đơn vị tiên phong của ông đã vượt qua hẻm núi hiểm trở Gelnhausen mà không gặp trở ngại nào. Chính tại đây, ông nhận được tin về sự hiện diện của Wrede tại Hanau. Với quân sĩ kiệt quệ vì những ngày hành quân gian khổ, rẽ sang những con đường nhỏ để tránh giao tranh chẳng khác nào làm tan rã cả đạo quân. Do đó, ông chỉ có một lựa chọn duy nhất: đột phá qua Hanau. Không chờ các đơn vị phía sau bắt kịp, ông tập hợp ngay lập tức tất cả lực lượng trong tầm tay. Đến ngày 30 tháng 10, ông chỉ có khoảng 9 000 bộ binh, 7 000 kỵ binh và 60 khẩu pháo sẵn sàng chiến đấu. Trong khi đó, các đơn vị vận tải, quân nhu và lực lượng không tham chiến được lệnh di chuyển qua Langenfeldbold đến Bruchköbel và Hochstadt, nhằm tiếp tục hành trình đến Frankfurt.

Vào khoảng 10 giờ sáng, Quân đoàn XI của Pháp, chỉ với 3 000 quân tiên phong tấn công Lữ đoàn Deron, đơn vị đóng chốt phía đông rừng Lamboi. Đối mặt với sức ép từ quân Pháp, Lữ đoàn Deron buộc phải rút lui. Quân Pháp tiến đến rìa phía tây khu rừng nhưng bị chặn đứng bởi hỏa lực pháo binh dữ dội của liên minh. Ngay cả khi Quân đoàn II của Napoléon nhập trận, quân Pháp vẫn chỉ có thể tiến lên rất chậm chạp, dẫn đến một cuộc đấu súng kéo dài nhiều giờ. Cuối cùng, liên minh buộc phải rời bỏ khu rừng.

Nhận thấy tình hình nguy cấp, Wrede ra lệnh cho Sư đoàn Beckers vượt sông qua cầu Lamboi, phản công vào rừng nhằm chiếm lại vị trí và ngăn chặn đà tiến quân của đối phương. Quân của Beckers thành công trong việc đẩy lùi quân Pháp vào rừng, chống đỡ nhiều cuộc tấn công dữ dội từ Quân đoàn kỵ binh Sebastiani, thậm chí còn chặn đứng sự mở rộng của quân Pháp trên cánh này.

Tuy nhiên, Napoléon đã tìm ra một con đường xuyên qua rừng, phía bắc tuyến đường chính đi Gelnhausen, nơi có thể di chuyển pháo binh vào vị trí mà không bị phát hiện. Khi hai tiểu đoàn Vệ binh Già quét sạch lực lượng khinh binh của Sư đoàn Lamotte khỏi khu rừng, pháo binh Pháp nhanh chóng tiến lên, từng khẩu một được triển khai giữa những tán cây thưa thớt. Chẳng bao lâu, một hàng dài 50 khẩu pháo trải rộng từ đường cái đến suối Fallbach, phía sau là toàn bộ kỵ binh Vệ binh Đế chế và Quân đoàn kỵ binh Sebastiani.

Pháo binh Pháp nhanh chóng áp đảo đối phương, buộc liên minh phải rút lui về phía sau sông Kinzig. Nắm bắt thời cơ, Kỵ binh Vệ binh của Pháp từ trong rừng xông lên tấn công các Chevauleger đang yểm trợ cho cuộc rút lui. Một trận chiến kỵ binh khốc liệt kéo dài, cuối cùng liên minh bị đẩy lùi về phía suối Fallbach. Cục diện trận chiến đã được định đoạt. Wrede nhận ra rằng tiếp tục chiến đấu sẽ chỉ dẫn đến thảm bại lớn hơn, do đó ông ra lệnh rút lui.

Ảnh : Kỵ binh Vệ binh của Napoléon giao tranh với Chevaulegers Taxis của Bayern

Tuy nhiên, do thiếu cầu vượt, cuộc rút quân trở thành một thảm họa. Các đơn vị của Sư đoàn Lamotte phải tháo chạy theo nhiều hướng khác nhau, hàng trăm binh sĩ chết đuối khi cố vượt sông Kinzig. Sư đoàn Beckers, trong nỗ lực bảo vệ cuộc rút lui của lực lượng trung tâm bằng một đòn phản công, bị đánh bật trở lại và chịu thương vong lớn khi buộc phải tháo chạy qua cầu Lamboi. Đến tối, quân đội Liên minh bại trận tập hợp lại dọc theo con đường Aschaffenburg, quay mặt về hướng bắc, chính thức nhường lại tuyến đường rút lui cho quân Pháp.

Napoléon hài lòng với thắng lợi này, nhưng ông không tổ chức truy kích vì thấy điều đó không cần thiết. Ông chỉ tập trung vào việc bảo đảm cho các đơn vị phía sau rút lui an toàn. Để thực hiện điều này, quân Pháp chiếm giữ cầu Lamboi và thành phố Hanau. Tướng Bertrand được giao nhiệm vụ trấn giữ Hanau và kiểm soát các cây cầu bắc qua sông Kinzig, trong khi Thống chế Marmont được lệnh bảo vệ tuyến đường rút lui. Đêm đó và suốt ngày 31 tháng 10, các lực lượng Pháp tiếp tục rút lui mà không gặp trở ngại nào. Cuối cùng, Marmont cũng rút đi, chỉ để lại Bertrand bảo vệ Mortier đang hành quân về phía Hochstadt.

Dù hiểu rằng Napoléon chỉ đang tìm cách rút lui an toàn qua sông Rhine, Wrede quyết định tổ chức một cuộc phản công vào chiều ngày 31 tháng 10, hy vọng giáng một đòn vào hậu quân Pháp. Ông ra lệnh tổng tiến công với hai mũi nhọn: một cánh tấn công cầu Lamboi, cánh kia đánh thẳng vào thành phố Hanau. Sau khi pháo binh còn lại bắn yểm trợ, các đơn vị bộ binh tiến lên. Nhưng đợt tấn công vào cầu Lamboi hoàn toàn thất bại, còn cánh quân tấn công Hanau tuy xâm nhập được vào thành phố, nhưng khi Wrede bị thương nặng trong trận chiến, họ buộc phải rút lui mà không đạt được kết quả đáng kể nào. Màn đêm buông xuống, chấm dứt trận chiến. Bertrand rời thành phố mà không bị quấy rối, hoàn thành cuộc rút lui của quân Pháp.

Trong bốn ngày truy đuổi và giao tranh, liên minh chịu tổn thất 194 sĩ quan và 9 087 binh sĩ chết hoặc bị thương. Tổn thất của quân Pháp ước tính tương đương, nhưng họ cũng mất 5 tướng lĩnh, 280 sĩ quan và 10 000 binh sĩ bị bắt. Tuy vậy, Napoléon vẫn viết về Paris rằng cờ chiến lợi phẩm thu được tại Hanau, cùng với cờ từ Wachau và Leipzig, đang trên đường về thủ đô —dù rất có thể, những lá cờ ấy chẳng bao giờ đến nơi.

Sau trận chiến, Wrede được thay thế bởi tướng Áo Fresnel, người dẫn quân đến Frankfurt vào ngày 1 tháng 11 mà không đụng độ thêm với quân Pháp. Napoléon và quân đội của ông vượt sông Rhine vào ngày 2 tháng 11, để lại một lực lượng chặn hậu nhỏ tại Hochheim, với hai sư đoàn Vệ binh Trẻ của Mortier đóng tại Kastel.

Mặc dù Wrede đã cố gắng hết sức để chặn đường Napoléon, nhiều quyết định của ông bị chỉ trích nặng nề, từ việc lãng phí thời gian ở Würzburg, sai lầm khi tiến đến Hanau thay vì Gelnhausen, đến việc bố trí đội hình phòng thủ sai lầm tại Hanau. Tuy nhiên, trận chiến này đã chứng minh rằng Bayern nghiêm túc với cam kết của họ đối với liên minh trong việc chống Napoléon—một sự thật quan trọng hơn cả những sai lầm chiến thuật của Wrede.

Vào ngày 6 tháng 11, khi Quân đoàn Bertrand vẫn còn đóng tại Hochheim, tiên phong Áo dưới quyền Bubna đã đuổi kịp họ tới sông Rhine . Người Pháp đang gấp rút củng cố vị trí phòng thủ của mình, buộc Schwarzenberg phải ra lệnh cho Thống chế Bá tước Gyulai tấn công Hochheim vào ngày 9 tháng 11. Cuộc tấn công này là một chiến thắng vang dội cho quân Áo. Với lòng dũng cảm phi thường, họ đã đánh chiếm các công sự và thành phố Hochheim, đẩy đối phương chịu tổn thất nặng nề về phía Kastel. Sư đoàn Bubna sau đó bắt đầu tổ chức vây hãm Kastel.

Với chiến thắng này, nhiệm vụ truy đuổi của Tập đoàn quân chủ lực thức dừng lại . Các đội hình triển khai đóng quân ở các vị trí như sau : quân Áo ở Hochheim và khu vực lân cận, quân Nga quanh Frankfurt, Offenbach, Miltenberg và Friedberg, còn quân Áo-Bayern tập trung quanh Darmstadt và Mannheim, nghỉ ngơi cho đến ngày 18 tháng 11. Vào ngày này, một sự tái phân bổ các khu vực đóng quân được ban hành: Tập đoàn quân Böhmen đóng tại Thượng và Trung Rhein, Tập đoàn quân Schlesien đóng từ Trung Rhein đến sông Lahn, còn Tập đoàn quân Bắc giữ vị trí dọc Hạ Rhein.

Trong khi đó, ngày 5 tháng 11, Blücher nhận tin ở Gießen rằng quân Pháp tuy đã mở đường thoát thân tại Hanau, nhưng tàn quân thì chỉ còn khoảng 60 000 người và đang trên bờ vực tan rã. Các báo cáo đều xác nhận không có lực lượng dự bị nào được tập hợp tại biên giới Pháp, các pháo đài trên bờ trái sông Rhein bị bỏ bê, thiếu vũ khí, lương thực và quân trú phòng. Nhận thấy cơ hội này, Thống chế Blücher quyết định hành động nhanh chóng. Ông lên kế hoạch vượt sông Rhein tại Mülheim, tiến qua Aachen và Lüttich, hướng đến Bruxelles , chiếm lấy các pháo đài trong lúc đối phương còn bối rối, đồng thời cắt đứt đường tiếp tế từ Hà Lan, đặc biệt là các xưởng vũ khí quan trọng ở Lüttich và Namur. Ông cũng hy vọng rằng thành công này sẽ thúc đẩy các quân vương liên minh nhanh chóng mở chiến dịch xâm lược Pháp. Blücher dự kiến sẽ vượt qua sông Rhein vào ngày 15 tháng 11 và tiến vào Bruxelles vào ngày 25 tháng 11. Ông cử Gneisenau đến đại bản doanh ở Frankfurt để xin phê chuẩn kế hoạch.

Tuy nhiên, đại bản doanh có quan điểm khác. Họ muốn dành thời gian để quân lực nghỉ ngơi và tái trang bị trước khi tiếp tục chiến dịch, cho rằng sông Rhein là tuyến phòng thủ an toàn nhất. Vì vậy, Blücher nhận lệnh hủy bỏ cuộc hành quân về Hạ Rhein, thay vào đó, tiến lên thượng lưu, thay thế quân Áo trước Kastel và đóng quân dọc sông Rhein từ Mannheim đến Köln. Lệnh này đến tay ông ngày 11 tháng 11 tại Altenkirchen, và đến ngày 12, ông bắt đầu hành quân xuống phía nam . Ngày 15, Quân đoàn Yocrk và Sacken đến Wiesbaden, hôm sau, Sacken thay thế quân Áo vây hãm Kastel. Đến cuối năm, các đơn vị phân bố như sau: Cụm Quân đoàn Sacken đóng tại Darmstadt và vùng lân cận, Cụm Quân đoàn Langeron ở Frankfurt, Quân đoàn York ở Wiesbaden và phía bắc, còn Quân đoàn St. Priest đóng tại Ehrenbreitstein.

Từ Tập đoàn quân Ba Lan, một phần quân lực được lệnh hội quân với quân của Thái tử Thụy Điển, trong khi 14 000 quân khác có nhiệm vụ ngăn chặn quân đồn trú Pháp hợp nhất và tăng cường phong tỏa Magdeburg. Ở Halle, Bennigsen nhận tin rằng St. Cyr vẫn án binh bất động tại Dresden, còn Quân đoàn Klenau đã đến thành phố này, nhờ đó ông có thể tập trung vào Magdeburg. Quân Pháp tại đây bắt đầu đốt phá vùng lân cận và đe dọa phá hủy các mỏ muối quý giá tại Groß-Salze và Schönebeck. Ngày 7 tháng 11, Bennigsen tiến quân đến vị trí phòng thủ của địch giữa Dodendorf và Frohse, nhưng không thể cô lập hoàn toàn pháo đài. Dẫu vậy, trận đánh ngày 8 tháng 11 tại Schönebeck kết thúc có lợi cho ông, bảo vệ được các mỏ muối. Quân Ba Lan đóng lại khu vực này đến ngày 10 tháng 12, sau đó, theo lệnh Sa hoàng, họ hành quân đến vây hãm Hamburg, nhường chỗ tại Magdeburg cho tướng von Hirschfeld.

Về phần Tập đoàn quân Bắc, họ rời Leipzig ngày 22 tháng 10, tiến qua Merseburg và Mühlhausen, đến Göttingen vào ngày 1 tháng 11. Nhưng hướng đi của lực lượng này vẫn chưa rõ ràng vì điều đó còn phụ thuộc vào động thái của Davout. Giữa Thái tử Thụy Điển và Sa hoàng Alexander còn có bất đồng: Sa hoàng muốn Thái tử cùng tiến quân vào Pháp và chiếm Hà Lan, trong khi Thái tử lại xem đây là cơ hội để thực hiện tham vọng riêng—chinh phục Na Uy từ tay Đan Mạch. Không thể công khai chống đối Sa hoàng, Thái tử tìm cách trì hoãn bằng việc lấy cớ Davout còn trấn giữ Hamburg, rồi điều quân lên phía bắc. Điều này dẫn đến việc phân tách Tập đoàn quân Bắc tại Göttingen: Bülow được lệnh tiến về Minden và Münster để giải phóng các tỉnh cũ của Phổ , đồng thời tái tổ chức quân đoàn của mình; Quân đoàn Winzingerode được điều động về Bremen, còn Thái tử cùng quân Thụy Điển và 7 000 quân Nga tách khỏi Quân đoàn Winzingerode, tiến lên hướng Hannover-Hildesheim-Braunschweig ngày 6 tháng 11.

Khi Thái tử Thụy Điển vẫn đang tranh luận với Sa hoàng về chiến lược, các cánh quân của ông tiếp tục tiến công. Strogonov và Voronsov chiếm lĩnh bờ trái sông Elbe từ Lüneburg đến Biển Bắc, Winzingerode tiến qua Oldenburg đến biên giới Hà Lan, còn Bülow, ngày 9 tháng 11, triển khai một lực lượng nhỏ do Thiếu tá Friccius chỉ huy để chiếm Đông Friesland —vùng đất cũ của Phổ. Đến giữa tháng 11, Tập đoàn quân Bắc gần như đã giải phóng toàn bộ Tây Bắc Đức khỏi chính quyền Pháp , trừ Wesel. Ngày 19 tháng 11, Thái tử ra lệnh cho Bülow tiến quân đến Rhein, còn Winzingerode được phép tiến vào Hà Lan. Cuối cùng, vào ngày 24 tháng 11, Sa hoàng Alexander chấp thuận chiến dịch chống Đan Mạch, cho phép Thái tử toàn quyền sử dụng quân Nga, và ngay lập tức, Thái tử ra lệnh vượt sông Elbe.

17.Chiến dịch tại Holstein

Từ cuối tháng Chín, tình hình giữa Davout và Wallmoden hầu như không có thay đổi đáng kể. Tuy nhiên, ngày 21 tháng 10, tin tức về trận Leipzig đến tai Wallmoden, báo hiệu một bước ngoặt lớn trong cục diện chiến trường miền Bắc. Davout giờ đây chỉ còn ba con đường: hoặc tìm cách hội quân với đại quân của Hoàng đế Pháp, hoặc kết nối với các pháo đài của Pháp tại Magdeburg để tiếp tục cuộc chiến, hoặc cố thủ ở Holstein với các thành trì Hamburg, Glücksburg và Rendsburg làm điểm tựa. Wallmoden nghiêng về phương án cuối cùng và đề nghị Thái tử Thụy Điển chỉ để lại 15 000 quân ở Mecklenburg để trông chừng Davout, trong khi phần còn lại sẽ đánh chiếm Bremen, một thành phố quan trọng. Nhưng Thái tử vẫn chần chừ, khiến toàn bộ chiến tuyến rơi vào tình trạng trì trệ.

Chỉ đến khi Davout rút khỏi vị trí tại Ratzeburg vào ngày 13 tháng 11 , Wallmoden mới có thể hành động. Tướng Pháp ban đầu rút về phía sau sông Stecknitz, rồi từ đây, sau khi tách khỏi quân Đan Mạch, quay lại cố thủ tại Hamburg vào ngày 3 tháng Mười Hai. Suốt từ ngày 18 tháng 8, Davout không nhận được bất kỳ chỉ thị nào từ Hoàng đế Napoléon. Chỉ khi nhận được lệnh rút về Hà Lan vào ngày 11 tháng 11 , ông mới hay tin về thất bại của quân Pháp tại Leipzig. Nhưng giờ thì đã quá muộn, đường rút lui đã bị cắt đứt. Trước tình thế không còn lựa chọn, Davout quyết định cố thủ tại Hamburg, chờ đợi cơ hội nếu quân Pháp ở các pháo đài dọc sông Elbe có thể phá vây và hội quân với ông.

Trong khi đó, Wallmoden tiếp tục truy đuổi nhưng không dám tấn công trước khi Thái tử Thụy Điển đến hội quân. Đến ngày 26 tháng 11 , Thái tử vượt sông Elbe gần Boizenburg, hợp nhất lực lượng với Wallmoden, nâng quân số lên 45 000 người, đủ sức tấn công Davout. Kế hoạch được định ra: nếu Davout rút vào Hamburg, thành phố này sẽ bị vây hãm, và sau đó chiến dịch chống Đan Mạch sẽ được phát động. Nhưng Davout không chờ đợi mà chủ động rút về Hamburg trước khi liên minh kịp ra tay.

Trước tin tức quân Đan Mạch đã rút về Oldesloe và Lübeck, quân cỉa Wallmoden được điều đến Oldesloe, trong khi quân Thụy Điển tiến về Lübeck. Chiến dịch Holstein của Thái tử chính thức bắt đầu. Lực lượng Đan Mạch, sau khi chia tay với Davout, chỉ còn khoảng 12 000 người, lại trong tình trạng suy kiệt, nên khó có thể kháng cự. Ngày 4 tháng 12, quân Cossack của Tettenborn nhanh chóng vượt qua sông Eider, còn Wallmoden đánh chiếm Oldesloe vào ngày 5, nhưng chưa tấn công ngay do chờ đợi quân chủ lực. Cùng ngày, Thái tử xuất hiện trước Lübeck. Để đổi lấy quyền rút quân an toàn, Đan Mạch đầu hàng, khiến phòng tuyến tại Oldesloe bị hở sườn. Trước tình thế này, tướng Đan Mạch, Friedrich von Hessen, quyết định rút về Kiel rồi Rendsburg.

Ngày 7 tháng 12 , hậu quân Đan Mạch bị kỵ binh Thụy Điển của Skjöldebrand truy kích và gây tổn thất nặng tại Bornhöved. Tác động tâm lý của thất bại này khiến Friedrich ngay hôm sau buộc phải đề nghị đình chiến với Thái tử Thụy Điển. Tuy nhiên, do đã thu thập được bức thư cho thấy tình trạng tuyệt vọng của Friedrich, Thái tử từ chối thương thuyết. Tướng Đan Mạch cố gắng rút về Rendsburg để bảo vệ thành phố quan trọng này, nhưng Wallmoden đã chặn trước tại Klubensielt. Trận Sehestedt ngày 10 tháng 12 kết thúc với thắng lợi cho Đan Mạch, khi quân tiếp viện từ Thái tử đến quá muộn để thay đổi cục diện.






Nhưng bất chấp thắng lợi này, tình hình chung của Đan Mạch vẫn ngày càng bất lợi. Cuối cùng vào ngày 14 tháng 1 năm 1814, Quốc vương Friedrich VI buộc phải ký Hòa ước Kiel, nhượng toàn bộ Na Uy cho Thụy Điển và Helgoland cho Anh – một cái giá đắt cho lòng trung thành mù quáng với Napoléon.

Nhìn lại hành động của Thái tử Thụy Điển từ sau trận Leipzig, có thể thấy ông kiên định theo đuổi mục tiêu chinh phục Na Uy. Ông đã vượt qua sự phản đối ban đầu của Sa hoàng Alexander, đánh bại Đan Mạch với tổn thất tối thiểu – chỉ mất 80 kỵ binh trong trận Bornhöved. Chiến dịch chống Đan Mạch diễn ra nhanh gọn, hiệu quả và gần như không có sai sót chiến lược. Không có gì ngạc nhiên khi giới báo chí và văn sĩ Thụy Điển ca ngợi ông, củng cố vững chắc ngôi vương của ông tại Thụy Điển.

Trở lại Hạ nguồn sông Rhine , Bülow đã tiến đến Minden vào ngày 7 tháng 11, kiểm soát toàn bộ Westfalen và Đông Friesland. Ông dành vài ngày cho quân nghỉ ngơi trước khi tiến chậm rãi về Dülmen và Borken. Lúc này, Bülow chưa nghĩ đến việc xâm lược Hà Lan mà chủ yếu lo củng cố quân nhu và huấn luyện các Landwehr từ vùng mới giải phóng . Nhưng đến giữa tháng 11 , khi hay tin cánh quân Cossack của Winzingerode đã vượt qua Groningen, Drenthe và Overijssel mà không gặp phải kháng cự, thậm chí bất ngờ chiếm được Zwolle vào ngày 12, Bülow nhận ra thời cơ hiếm có. Ngày 19, khi nhận lệnh từ Thái tử Thụy Điển cho phép tiến quân đến sông Rhein và sông Yssel , ông lập tức ra lệnh tổng tiến công vào Hà Lan, mở màn cho chiến dịch mùa đông năm 1814.


18.Giải phóng Tirol và chiến dịch tại Ý

Sau trận Großgörschen trong chiến dịch mùa xuân , Hoàng đế Napoleon cử Phó vương Ý, Eugène de Beauharnais, trở lại Milan để vũ trang một lực lượng tại Bắc Ý và gây sức ép lên Áo từ hướng Nam. Mặc dù gặp nhiều khó khăn trong việc huy động binh lực, đến tháng 8 , Eugène đã xây dựng được một lực lượng 50 000 người, dàn trải từ Villach và Tarvis đến tận Karlstadt, Fiume, Trieste và Pordenone. Tướng Áo, Hiller, chỉ huy Tập đoàn quân Nội Áo gồm 32 000 người, trong đó khoảng 17 000 đóng dọc tuyến Klagenfurt-Völkermarkt, còn lại chia nhỏ trấn giữ Radstadt và Agram. Vào gày 18 tháng 8 , quân Ý tiến về Laibach, nhưng quân Áo đã nhanh chân hơn, mở cuộc phản công chiếm Villach và vượt đèo Loibl. Eugène đối phó bằng cách cho hai sư đoàn tiếp tục tiến về Laibach, còn chủ lực chuyển hướng về phía Isonzo để chiếm lại Villach. Dù thắng trận tại Feistritz và tái kiểm soát đèo Loibl, Eugène lại chịu thất bại nặng ở phía Nam khi quân Áo dưới quyền Radivojevich tiến công từ Agram, chiếm Karlstadt, Fiume và kích động dân Croatia nổi dậy chống Pháp. Eugène phản công bằng cách điều quân từ Laibach và Adelsberg, nhưng không may bị quân Áo đánh bại tại Uttik và tại Jeltschane. Đến giữa tháng 9 , quân Áo kiểm soát tuyến Spital–Trieste, trong khi quân Pháp lùi về phòng thủ tại Finkenstein–Feistritz–Aßling–Laibach. Chiến sự tại Bắc Ý vẫn chưa ngã ngũ, nhưng ưu thế dần nghiêng về phía Áo.

Ngày 14, Eugen một lần nữa phát động tấn công, nhưng vận rủi vẫn không rời bỏ ông. Sư đoàn Palombini, trên đường tiến về Jeltschane, đã để tướng Nogent rút lui khéo léo về Castua và sau đó tiến vào Istrien, nơi quân Ý không thể truy kích do người Anh đã kiểm soát vùng biển. Ngày 19, một cuộc tấn công phối hợp giữa Palombini và Marcognet từ Zirkwik và Laibach nhằm vào Weichselburg được lên kế hoạch, nhưng vào ngày 25, một đơn vị của Palombini chịu thất bại nặng nề tại Groß-Laschiz. Chính Palombini, khi đối mặt với một toán quân Áo nhỏ tiến từ Karlstadt qua Möttling và Soderschiß, đã nhầm tưởng đó là tiền quân của một quân đoàn lớn hơn và vội vã rút về Adelsberg, hứng chịu tổn thất nghiêm trọng ở hậu quân. Vì thế, Marcognet cũng buộc phải rời khỏi Weichselburg.

Trong khi đó, quân Áo gặt hái những thắng lợi quan trọng. Ngày 18, họ đánh bại Sư đoàn Gratien tại Hermajor, chiếm được các điểm vượt sông Drau tại Hollenburg và Rosegg, công phá vị trí phòng thủ của Feistritz và tái chiếm đèo Loibl. Như vậy, phòng tuyến dọc sông Drau lại rơi vào tay quân Áo. Chỉ ở Tirol, tình hình mới khả quan hơn cho quân Pháp khi Sư đoàn dự bị Bonfanti từ Trient tiến lên đã đánh tan các lực lượng địch tại Brixen và Brunneck, đẩy họ lùi về Toblach.

Đến cuối tháng 9, toàn bộ Istrien đã vùng lên khởi nghĩa. Tướng Nugent, bằng cuộc tiến quân về Triest, đã đe dọa trực tiếp con đường rút lui của Phó vương, trong khi Bayern cũng đang trên đà gia nhập liên minh chống Pháp. Trước tình thế ngày càng nguy ngập, Eugen không còn lựa chọn nào khác ngoài việc rút quân về phía sau sông Isonzo, với cánh trái thậm chí phải lùi sâu hơn nữa đến thượng lưu sông Tagliamento. Đến ngày 11 tháng 10 , lực lượng của ông đóng từ cửa sông Isonzo qua Gradisca-Romans đến Gemona-Benzone, còn quân Áo với lực lượng chủ lực tập trung tại Villach, cánh trái của họ vươn đến Görz trên bờ trái sông Isonzo. Ở Tirol, quân Ý cũng phải rút về Trient trước áp lực từ quân tăng viện Áo.

Tướng Hiller không truy kích trực tiếp Phó vương mà chọn hành quân xuyên Tirol, dọc theo sông Etsch, tiến sâu vào đất Ý. Cách tiếp cận này khiến phòng tuyến của Eugen tại Isonzo không thể giữ vững, đồng thời giúp quân Áo tránh phải vượt qua quá nhiều con sông tại Friaul. Khi Bayern ký hiệp ước Ried, cuộc hành quân của Hiller không còn gặp nguy hiểm. Ngày 26, lực lượng chính của ông đến Trient, trong khi tiền quân đánh bại đối phương tại Calliano và đẩy lùi họ về Rivoli. Một cánh quân bên sườn trái yểm trợ cuộc tiến quân từ hướng Ampezzo và Pieve di Cadore, đến Bassano qua thung lũng Brenta vào ngày 24. Quân Áo cũng để lại một số đơn vị dọc sông Isonzo và tại Resciutta để đảm bảo an ninh và quan sát quân Ý .

Eugen hoàn toàn không hay biết gì về những diễn biến này. Khi cuối cùng ông nhận ra nguy cơ bị đánh tập hậu bởi cánh quân từ Tirol, ông cố gắng giữ vững vị trí càng lâu càng tốt nhằm không làm gián đoạn quá trình tiếp tế cho Venice cũng như công tác tuyển mộ thêm 15 000 quân từ Vương quốc Ý. Chỉ đến ngày 17, ông mới bắt đầu triệt thoái về sông Etsch, và đến ngày 6 tháng Mười 11 , quân Ý dàn trận theo tuyến Legnago-Verona-Rivoli-La Corona-Saló bên bờ hồ Garda. Quân Áo không thể gây nhiều tổn thất cho cuộc rút lui của ông; đến ngày 8, họ mới tới sông Alpon, trong khi Hiller khi ấy đã có tiền quân đến trước Ala, còn lực lượng chính đang chuẩn bị từ Trient tiến về Vicenza. Không hay biết điều này, Eugen ngày 9 tháng 11  quyết định mở một đợt phản công vào Ala, nhưng chỉ thu được kết quả ít ỏi và buộc phải rút lui khi Radivojevich, nhờ sự yểm trợ từ Hiller, vượt sông Alpon và tiến đến tận Caldiero. Eugen nhanh chóng đẩy lui đối phương ra khỏi vị trí này, nhưng rồi chính ông cũng phải rút về Verona.

Cuộc chiến kết thúc với việc quân Áo chiếm thành trì Triest, tướng Nugent đổ bộ vào vịnh Goro và kiểm soát Ferrara. Hiller tạm dừng chiến dịch, chờ viện binh từ Đức trước khi vượt sông Etsch.

Cuộc giao tranh giữa Tập đoàn quân Nội Áo  và Phó vương Eugène de Beauharnais ở miền Bắc xứ Ý không ảnh hưởng đáng kể đến cục diện đại chiến tại Đức, vì vậy các trận chiến tại nơi đây không được góp chung vào Chiến dịch mùa thu 1813  mà được gọi là Chiến dịch tại Ý 1813-1814 .

Tuy nhiên, xét từ góc độ quân sự, đây là một chiến dịch đáng để nghiên cứu sâu hơn. Hai đạo quân nhỏ bé có quy mô chỉ bằng vài lữ đoàn , đối đầu nhau giữa những rặng núi hiểm trở, trong một cuộc chiến không có những trận đánh quy mô lớn mà chỉ toàn những cuộc giao tranh nhỏ lẻ , thậm chí có rất ít các tấm bản đồ và mô tả cách dàn quân chi tiết của các trận giao tranh này được ghi chép lại . Nhưng chính trong những trận chiến quy mô nhỏ này, quân Áo đã thể hiện nghệ thuật tác chiến xuất sắc. Dưới sự chỉ huy của những vị tướng biết kết hợp giữa táo bạo, chủ động với sự cẩn trọng và bình tĩnh, họ đã giành được những thắng lợi ngoài mong đợi dù chỉ với lực lượng ít ỏi. Đối diện với họ là một đạo quân mạnh hơn về số lượng, chiến đấu ngay trên chính đất nước mình, lại được chỉ huy bởi một tướng lĩnh tuy không thiên tài nhưng giàu kinh nghiệm. Thất bại của Phó vương Eugène có thể được lý giải bởi sự thiếu tin cậy của binh sĩ dưới quyền ông, năng lực yếu kém của các cấp chỉ huy, cùng tinh thần chống đối của dân chúng tại các khu vực diễn ra giao tranh

19.Tàn cuộc

Sau khi tàn quân của Napoléon rút qua sông Rhein, thì vẫn còn 160 000 binh sĩ Pháp đang cố thủ trong 16 pháo đài quan trọng dọc khắp Đức , phần lớn trong số đó đã cố thủ từ đầu năm 1813 . Tình thế giờ đây đã trở nên cực kỳ bi thảm : bị cô lập trong nhiều tháng, họ chiến đấu trong tuyệt vọng chống lại nạn đói khát, bệnh tật, đạn pháo kẻ thù và cả sự phản kháng của dân cư địa phương. Không chỉ đối mặt với hiểm nguy từ quân bao vây, những người lính trong thành còn phải chịu đựng sự thù địch từ chính những người dân, những kẻ căm ghét sự hiện diện của họ.

Câu hỏi đặt ra là: liệu những đội quân đồn trú này có thể phá vòng vây, hợp nhất thành một đạo quân đủ mạnh để mở đầu máu rút về Pháp hay không? Nhiều người cho rằng điều này không thể xảy ra. Nhưng thực ra, không phải tất cả đều không có hy vọng. Những pháo đài như Modlin, Zamoscz và Glogau nằm quá xa và bị phong tỏa quá chặt để có thể thoát ra. Dù vậy, ở những nơi khác, vẫn có cơ hội nếu các chỉ huy đồn trú đủ quyết đoán và dũng cảm.

Tại Danzig, Tướng Rapp vẫn còn hơn 25.000 quân vào tháng 10 , nhưng việc tiến quân đến Küstrin hay Stettin là một nhiệm vụ bất khả thi. Tuy nhiên, tình thế của Thống chế St. Cyr tại Dresden lại khác. Với 30 000 quân, ông hoàn toàn có khả năng nghiền nát lực lượng bao vây yếu ớt của liên minh. Nếu ông hành quân dọc theo sông Elbe, hợp nhất với 16 000 quân ở Torgau, 3 000 ở Wittenberg và 18 000 ở Magdeburg, ông có thể tập trung lại thành một tập đoàn quân với quy mô gần 70 000 người. Nếu họ hội quân với Davout tại Hamburg, người khi đó đang chỉ huy 36 000 quân, thì một lực lượng đáng gờm có thể được tạo thành.

Ngược lại, nếu Davout chủ động tiến về phía nam để gặp St. Cyr, hai cánh quân có thể hội quân ở Magdeburg. Nhưng liệu điều này có thực sự khả thi?

Sự phối hợp giữa hai thống chế này chỉ có thể xảy ra nếu họ nhận được tin tức kịp thời về thất bại tại Leipzig và tình hình rút lui của Napoléon. Nhưng điều này đã không diễn ra. Hơn nữa, đường liên lạc giữa Hamburg và Dresden đã bị cắt đứt bởi các đội quân bao vây của liên minh . Một cuộc hành quân như vậy sẽ phụ thuộc hoàn toàn vào may rủi.

Tuy nhiên, nếu có một chỉ huy táo bạo, quyết đoán, và sẵn sàng đặt cược tất cả, kế hoạch này vẫn có thể thực hiện được. Davout chính là một người như vậy—ông có đủ can đảm, kinh nghiệm và một đội quân trung thành. Nhưng Davout đã nhận lệnh trước đó  từ Napoléon: giữ vững Hamburg bằng mọi giá. Những công sự kiên cố và nguồn tiếp tế dồi dào của thành phố khiến ông tin rằng có thể cố thủ cho đến khi đạt được một thỏa thuận hòa bình có lợi. Hơn nữa, nếu muốn quay về Pháp, con đường hợp lý hơn là rút về Hà Lan hoặc sông Wesel, thay vì đi ngang qua Đức về phía sông Rhein.

Về phía St. Cyr, thì tình hình hoàn toàn khác. Ông biết rõ pháo đài Dresden không thể trụ vững lâu dài, nhất là khi nguồn lương thực đã cạn kiệt và vị trí chiến lược của nó không còn quan trọng sau khi đại quân của Napoléon rút lui. Thực tế, trong một bức thư gửi ngày 10 tháng 10 , Hoàng đế còn cho phép ông rút về Torgau nếu tình thế đòi hỏi.

Nếu St. Cyr hành động kịp thời, ông hoàn toàn có thể phá vây và đến Torgau chỉ sau hai ngày hành quân. Khi đó, với quân số tăng thêm 16 000 người, ông có thể dễ dàng tiếp tục đến Wittenberg, rồi Magdeburg, và cuối cùng là Hamburg. Liên minh chắc chắn sẽ cố gắng truy đuổi, nhưng với sự phân tán của họ và việc thiếu các cây cầu qua sông Elbe, họ khó có thể ngăn cản cuộc hội quân của St. Cyr.

Nhưng ông đã không đưa ra quyết định đó. Việc St. Cyr không tận dụng cơ hội rút quân là một sai lầm nghiêm trọng.

Cuối năm 1813, các pháo đài Dresden, Torgau, Stettin, Zamoscz, Modlin và Danzig lần lượt thất thủ. pháo đài khác như Wittenberg, Magdeburg, Hamburg, Erfurt, Würzburg, Wesel, Kastel, Kehl, Küstrin và Glogau thì quân đồn trú sẽ tiếp tục cố thủ tới tận năm 1814. Đây không chỉ là những cuộc vây hãm đơn thuần, mà còn là dấu chấm hết cho những tham vọng của Napoléon tại Đức .

Sau khi Bennigsen, Colloredo và Bubna rời khỏi Dresden để tham gia trận đánh quyết định tại Leipzig, lực lượng còn lại trước thành phố chỉ còn khoảng 15 000 quân Nga kiệt sức dưới quyền Bá tước Tolstoy. Lợi dụng tình thế, ngày 17 tháng 10, Thống chế St. Cyr chỉ huy một cuộc đột kích, đánh bại đối phương một cách dễ dàng, đẩy lùi họ đến tận Dohna và gây tổn thất nặng nề. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau, quân Nga nhận được viện binh từ một đơn vị dưới quyền Thống chế Chasteler và Quân đoàn Klenau, nâng tổng quân số của quân vây hãm lên hơn 45 000 người từ ngày 26 tháng 10. Trước sức ép này, St. Cyr buộc phải lui về phòng tuyến của mình.

Trong thành phố, tình hình ngày càng trở nên bi thảm. Lương thực và đạn dược cạn kiệt, các bệnh viện chật ních bệnh nhân, mỗi ngày có từ 200 đến 300 binh sĩ chết vì đói và bệnh tật.

Ngày 21 tháng 10, tin tức về thất bại của Napoléon tại Leipzig truyền đến, buộc các sĩ quan phải triệu tập một hội đồng chiến tranh. Tướng Lobau chủ trương rút lui về Torgau, nhưng St. Cyr phản đối. Cuối cùng, họ thống nhất rằng 14 000 quân sẽ cố gắng mở đường máu, trong khi số còn lại tiếp tục cố thủ ở Dresden. Quyết định nửa vời này dẫn đến hậu quả thảm khốc. Ngày 6 tháng 11, Lobau tìm cách phá vây nhưng bị đánh bật trở lại thành phố, đặt dấu chấm hết cho mọi hy vọng. Ngày 11 tháng 11, St. Cyr ký hiệp ước đầu hàng, chấp nhận điều kiện bị giải giáp và đưa về Pháp với cam kết sẽ không tham chiến nữa.

Tổng số quân Pháp bị bắt tại Dresden gồm 1 thống chế, 13 tướng sư đoàn, 20 tướng lữ đoàn, 1 759 sĩ quan và 27 714 binh sĩ, chưa kể 6 030 thương binh và bệnh nhân nằm trong các bệnh viện. Liên minh cũng thu được 245 khẩu pháo, 40 000 khẩu súng và vô số trang bị khác.

Ngày 12 tháng 11, quân Pháp bắt đầu rời Dresden, kéo dài đến ngày 17. Nhưng khi cánh quân đầu tiên đến Altenburg, một tin tức chấn động giáng xuống họ như sét đánh giữa trời quang:  Schwarzenberg cùng các quân chủ liên minh từ chối công nhận điều khoản đầu hàng. Họ ra tối hậu thư: hoặc quân Pháp đầu hàng vô điều kiện, hoặc quay lại Dresden tiếp tục chiến đấu. Đối với St. Cyr và binh lính của ông, lựa chọn này đồng nghĩa với việc bị đẩy vào ngõ cụt. Không còn con đường nào khác, họ buộc phải chấp nhận bị đưa vào trại tù binh ở Áo. St. Cyr lên án mạnh mẽ hành động thất tín của liên minh. Dù xét về mặt pháp lý, họ có quyền từ chối đầu hàng , nhưng về mặt đạo đức và thông lệ chiến tranh, hành động này khó mà biện minh được.

Sau khi Dresden thất thủ, một phần quân Nga rời đi để tham gia bao vây Magdeburg và Hamburg, Quân đoàn Klenau được chia ra, một sư đoàn nhập vào Tập đoàn quân chủ lực , phần còn lại hành quân về Ý, còn quân của Chasteler quay về Bohemia.

Việc St. Cyr đầu hàng không chỉ là một thất bại riêng lẽ mà còn là án tử cho pháo đài Torgau. Dù các công sự hai bên bờ sông Elbe vẫn vững chắc, nhưng với số lượng quân đồn trú quá đông so với khả năng tiếp tế, thành phố nhanh chóng rơi vào khủng hoảng.

Cuối tháng 10, số quân trong thành lên đến 24 000 người, nhưng chỉ 16 000 là có khả năng chiến đấu. Tướng chỉ huy, Bá tước Narbonne, là một người can đảm và quyết đoán.

Ngày 2 tháng 11, quân Phổ dưới quyền tướng Tauenzien hoàn tất việc vây quanh thành . Tuy nhiên, họ phải đợi tiếp viện từ Berlin và Spandau mới có thể bắt đầu nã pháo. Ngày 12 tháng 11, quân Pháp mất đồn lũy Zinna, trận pháo kích dữ dội đến mức đồn này chỉ còn là một đống tro tàn. Ngày 22, họ mất tiếp Teichschanze, mở đường cho cuộc pháo kích trực tiếp vào thành phố.

Bên trong Torgau, tình hình trở thành một cơn ác mộng. Bệnh dịch bùng phát dữ dội, các bệnh viện quá tải đến mức bệnh nhân phải nằm trong những túp lều tạm bợ giữa mùa đông khắc nghiệt, không có củi sưởi hay chăn đắp. Số binh sĩ tử vong tăng vọt, từ 250 người mỗi ngày đầu tháng 11 lên 336 người vào cuối tháng. Tổng cộng, hơn 15 000 người đã bỏ mạng vì đói và bệnh tật. Ngay cả Bá tước Narbonne cũng không thoát khỏi số phận bi thảm, qua đời vì bệnh thương hàn ngày 17 tháng 11.

Người kế nhiệm ông, tướng Dutaillis, là một chỉ huy cứng rắn. Nhưng trong hoàn cảnh này, ngay cả một người như ông cũng không thể khước từ lời đề nghị đầu hàng của tướng Tauenzien. Cuộc đàm phán kéo dài từ ngày 13 tháng 12, nhưng do quân Pháp đòi hỏi được tự do rút lui, nên mãi đến ngày 26 mới có kết quả.

Theo điều khoản đầu hàng, quân Pháp được phép rời thành trong đội hình chỉnh tề, kéo cờ và mang vũ khí cho đến khi đến khu vực trung lập. Sau đó, họ phải đặt súng xuống và chấp nhận bị giải giáp. Những biện pháp phòng dịch nghiêm ngặt được thực thi nhằm ngăn chặn bệnh dịch lan ra.

Ngày 10 tháng 1 năm 1814, nhóm binh sĩ cuối cùng rời khỏi Torgau, quân Pháp chỉ còn lại 4 246 người. 651 binh sĩ thương tật được phép trở về Pháp, trong khi 3 437 bệnh nhân vẫn ở lại trong các bệnh viện.

Pháo đài đầu tiên trên sông Oder buộc phải đầu hàng là Stettin. Cuối giai đoạn ngừng bắn vào mùa hè , nhiệm vụ vây hãm nơi đây được giao cho Thiếu tướng von Ploek, với một lực lượng gồm 16 tiểu đoàn, 4 kỵ đội và 24 khẩu pháo – tổng cộng khoảng 14 600 quân. Tuy nhiên, về sau một phần đáng kể trong số này đã được rút đi để tăng viện cho Tập đoàn quân chủ lực, khiến sức mạnh của quân bao vây suy giảm. Việc thiếu pháo hạng nặng khiến một cuộc công thành quy mô không thể thực hiện, và chiến thuật chủ yếu chỉ giới hạn ở việc quấy rối quân trú phòng bằng những báo động giả liên tục, nã đạn pháo từ xa, đồng thời chờ đợi nạn đói và dịch bệnh trong thành làm suy kiệt đối phương.

Đến cuối tháng 11, tình hình của quân đồn trú – khoảng 8 000 người – đã trở nên không thể chịu đựng nổi. Vì thế, tướng Grandeau, chỉ huy pháo đài, buộc phải thương lượng đầu hàng. Ngày 30 tháng 11, hai bên ký kết một thỏa thuận: 257 sĩ quan và 7 280 binh sĩ còn lại trong thành bị giải về phía hữu ngạn sông Wechsels , toàn bộ đều trở thành tù binh chiến tranh; riêng 1 400 binh sĩ Hà Lan được phép trở về quê hương. Trong thành, quân vây hãm thu giữ 350 khẩu pháo cùng số lượng lớn quân nhu.

Pháo đài Modlin, từng là một kho hậu cần của quân Pháp trong chiến dịch năm 1812, cũng lâm vào cảnh tương tự. Lực lượng đồn trú gồm khoảng 6 500 binh sĩ Pháp, Đức và Litva, đặt dưới quyền chỉ huy của tướng Dąndels. Dù có nguồn lương thực dồi dào, song phần lớn trong số này đã hư hỏng do bảo quản kém. Các công sự của pháo đài vẫn chưa hoàn thiện, trong khi tình trạng thiếu thốn nơi ở đã khiến dịch bệnh bùng phát vào mùa thu, cướp đi sinh mạng của một phần ba quân đồn trú.

Ban đầu, quân bao vây chủ yếu là các đơn vị Ba Lan dưới quyền Bennigsen, sau đó được tăng cường bởi 9000 quân Nga dưới quyền tướng Kleinmichel. Điều này dẫn đến một tình trạng chiến sự gần như đình trệ, với những cuộc giao tranh rời rạc không mang tính quyết định. Ngày 1 tháng 12, tướng Dąndels đầu hàng với điều kiện: quân Pháp bị đưa về Grodno làm tù binh, binh sĩ Litva được trả về quê hương, trong khi các đơn vị Sachsen và Würzburg được phép rút lui có vũ trang về Đức. Tổng cộng, quân vây hãm thu giữ 120 khẩu pháo.

Trái ngược với Stettin và Modlin, cuộc vây hãm tại Danzig diễn ra vô cùng ác liệt. Dưới sự chỉ huy của Thống chế Rapp, pháo đài này trở thành một trong những vị trí phòng thủ kiên cố nhất vào thời đó . Tận dụng địa thế tự nhiên, Rapp đã củng cố Danzig thành một thành trì vững chắc, dù không thể khắc phục hoàn toàn những sai sót từ trước.

Lực lượng trú phòng lên tới 35 000 người, gồm những binh sĩ từng chinh chiến tại Nga – giàu kinh nghiệm nhưng tàn tạ vì chiến tranh. Dịch bệnh nhanh chóng hoành hành, khiến tổn thất tăng cao. Thế nhưng, với tài chỉ huy xuất sắc, Rapp vẫn giữ vững được kỷ luật quân đội, thậm chí khiến cả những đơn vị từ Liên bang sông Rhine vốn không đáng tin cậy cũng chiến đấu ngoan cường.

Từ tháng 4, quân vây hãm do Công tước Alexander von Württemberg chỉ huy, với lực lượng ban đầu chỉ khoảng 12 000 người. Trong những tháng sau đó, họ được tăng viện bởi quân Nga, Phổ, cùng pháo binh từ Anh. Nhờ vậy, đến mùa thu, một cuộc vây hãm thực sự mới có thể triển khai, với trọng tâm là mặt phía tây của thành phố.

Những trận giao tranh dữ dội nổ ra. Hạm đội Nga – Anh nhiều lần nã pháo vào các công sự nhưng không gây được thiệt hại đáng kể. Trong khi đó, các đợt tấn công trên bộ giành được một số vị trí chiến lược trong tiền tuyến, song quân trú phòng vẫn cầm cự được. Tuy nhiên, vào cuối tháng 9, một trận lũ lớn bất ngờ xảy ra, gây tổn thất nặng nề cho hệ thống phòng thủ của Danzig, đồng thời làm dịch bệnh trầm trọng hơn.

Vào ngày 10 và 11 tháng 10, trong một trận chiến kéo dài 14 tiếng, quân Nga đánh chiếm thành công cao điểm chiến lược kiểm soát toàn bộ mặt tây của Danzig. Điều này cho phép quân vây hãm  nã pháo trực tiếp vào thành phố, đốt cháy hai phần ba kho lương thực của quân trú phòng. Khi quân Nga tiếp tục tiến công và chiếm giữ các khu vực ngoại vi, tình hình của Rapp ngày càng tuyệt vọng.

Quân số của ông nay chỉ còn khoảng 12 000 người, trong khi thực phẩm gần như đã cạn kiệt. Ngày 2 tháng 11, thành phố rơi vào tình trạng cùng quẫn: binh lính bắt đầu ăn thịt chó, mèo và chuột để sống sót. Rapp đề xuất một thỏa thuận đầu hàng có điều kiện: quân trú phòng được phép rút lui có vũ trang về Pháp. Đề nghị này được chấp nhận, và kế hoạch rút quân dự kiến bắt đầu vào ngày 1 tháng 1.

Tuy nhiên, vào đêm Giáng sinh, một tin tức kinh hoàng ập đến: Sa hoàng Alexander không công nhận thỏa thuận. Ông ra lệnh rằng toàn bộ quân Pháp và Ý phải bị đưa sang Nga làm tù binh. Công tước von Württemberg buộc phải trình tối hậu thư cho Rapp: nếu không chấp nhận điều kiện này, ông có thể tái chiếm các công sự đã bàn giao và tiếp tục chiến đấu.

Với quân số suy giảm nghiêm trọng và thực phẩm chỉ đủ dùng trong tám ngày, Rapp không còn lựa chọn nào khác. Ngày 29 tháng 12, ông buộc phải ký thỏa thuận mới: binh sĩ Pháp và Ý sẽ bị đưa sang Nga, trong khi lính Ba Lan được phép về quê nhà.

Vào ngày 2 tháng 1 năm 1814, sau 11 tháng bị vây hãm, quân Pháp rời khỏi Danzig. Khi ấy, chỉ còn lại 6 400 lính Pháp và 1 600 lính Napoli; 1 500 thương binh bị bỏ lại trong các bệnh viện. Theo báo cáo, từ tháng 1 năm 1813 đến thời điểm đầu hàng, hơn 19 000 quân đồn trú đã thiệt mạng vì chiến đấu, dịch bệnh và đói khát.

20.Tổng kết

Năm 1813 đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử châu Âu khi các cường quốc liên minh, sau nhiều năm khuất phục dưới gót sắt của Napoléon, cuối cùng đã vùng lên chống lại ông. Cuộc chiến tranh này, thường được gọi là Chiến tranh Giải phóng, không chỉ là một cuộc xung đột quân sự đơn thuần mà còn là kết quả của sự ''thức tỉnh'' về chính trị và tinh thần đối với nhiều dân tộc, đặc biệt là người Đức , mở đầu bởi Phổ , khi họ bắt đầu những cuộc cải cách mạnh về xã hội , chính trị và quân sự từ năm 1807 .  

Thảm họa của cuộc viễn chinh nước Nga năm 1812 là đòn giáng mạnh vào quyền lực của Napoleon. Đạo quân Grande Armée hùng mạnh một thời đã tan rã trước mùa đông khắc nghiệt và chiến thuật tiêu thổ kháng chiến của quân Nga. Chỉ một phần nhỏ trong số 600.000 binh sĩ ban đầu có thể trở về, và nước Pháp đối mặt với một cuộc khủng hoảng quân sự chưa từng có.

Lợi dụng thời cơ này, Vương quốc Phổ, vốn bị Napoleon áp đặt ách cai trị nặng nề và nhục nhã sau thất bại năm 1806, đã đứng lên khởi nghĩa. Ngày 16 tháng 3 năm 1813, vua Friedrich Wilhelm III tuyên chiến với Pháp. Áo, sau nhiều năm do dự, cũng tham gia liên minh vào mùa hè năm đó. Nga, với đội quân dày dạn kinh nghiệm sau chiến thắng năm 1812, quyết tâm truy đuổi Napoléon đến cùng.

Vào mùa xuân năm 1813, Napoléon bằng toàn bộ khả năng của mình đã gấp rút tập hợp một đội quân mới. Dù thiếu hụt nhân lực và kinh nghiệm, ông vẫn giành được những thắng lợi quan trọng trong hai trận chiến lớn tại Lützen  Bautzen , khiến quân Nga và Phổ phải rút lui về tận cưa ngõ Ba Lan . Tuy nhiên, những chiến thắng này không còn mang tính chất quyết định như trước kia. Bởi liên minh vẫn tiếp tục chiến tranh và càng ngày càng có nhiều nước gia nhập liên minh .

Tháng 6, một bản đình chiến ngắn ngủi được ký kết, tạo điều kiện cho cả hai bên củng cố lực lượng.

Sau khi Áo tuyên chiến với Pháp vào tháng 8, Napoleon đối mặt với một liên minh hùng mạnh gồm Nga, Phổ, Áo và Thụy Điển. Các đạo quân của liên minh, dù có nhiều chỉ huy với chiến lược khác nhau, đã thống nhất một kế hoạch chung: tránh đối đầu trực tiếp với Napoleon, đánh bại các cánh quân của ông trước, rồi dồn lực lượng để tiêu diệt ông sau.

Đỉnh cao của chiến dịch diễn ra vào tháng 10 tại Leipzig . Tại đây, khoảng 190 000 quân Pháp đối mặt với hơn 300 000 quân liên minh. Sau bốn ngày giao tranh ác liệt, Napoléon buộc phải rút lui khỏi Đức .

Quân Pháp rút về phía tây sông Rhein, bỏ lại Liên bang sông Rhine cho liên minh. Hệ thống các chính quyền chư hầu của Napoléon ở Tây Đức lần lượt sụp đổ , Liên bang Rhein tan rã và các tiểu quốc Đức nhanh chóng quay lưng lại với ông. Cuối năm 1813 liên minh đã bắt đầu tràn sang biên giới Pháp ở nhiều nơi và sẵn sàng cho chiến dịch xâm lược vào nội địa nước Pháp .

Câu hỏi bây giờ đối với các quân vương liên minh là : Liệu sẽ mở chiến dịch xâm lược Pháp hay là hòa hoãn với Napoléon ?

Vào ngày 1 tháng 1 năm 1814 , tại một làng nhỏ tên Kaub bên bờ sông , các đơn vị của Blücher bắt đầu vượt sông bằng một cầu phao . Trước mắt họ là dòng sông Rhine hùng vĩ chảy từ dãy Alpen đến biển Bắc . Bên kia bờ sông không còn là Đức mà là một vùng đất xa lạ bí ẩn đối với các binh sĩ thuộc Tập đoàn quân Schlesien  .

 





Vào ngày 10 tháng 3 năm 1813 , trùng vào ngày sinh nhật của cố Nữ hoàng Luise được người Phổ yêu mến , Friedrich Wilhelm III đã lập huân chương Thập tự sắt (Eisernen Kreuzes) . Đây là phần thưởng dành cho các binh sĩ và người không chiến đấu trong công cuộc giải phóng đất nước . Mặt trước của huân chương có khắc dấu vương miện Hoàng gia trên chữ FW , có nghĩa là Friedrich Wilhelm , ở bên dưới khắc năm 1813 trên nền 3 cành sồi . Huân chương này được chia thành 3 hạng , dải ruy băng của hạng II có màu đen viền trắng dành cho quân nhân và màu trắng viền đen dành cho người không chiến đấu còn hạng I thì đeo ở  bên ngực trái giống các huân chương chữ thập khác  . Đối với Đại thập tự (Groß-Kreuz) thì hạng này chỉ dành cho các sĩ quan chỉ huy thành công chiến dịch , trong năm 1813 thì chỉ có 5 người được nhận huân chương này bao gồm :

-Thượng tướng Gebhard Leberecht von Blücher (31.8.1813)
-Thượng tướng Friedrich Wilhelm Bülow (15.9.1813)
-Vương Thái tử Karl Johann xứ Thụy Điển (1813)
-Thượng tướng Bogislav Friedrich Emanuel von Tauentzien (26.1.1814)
-Thượng tướng Johann David Ludwig von Yorck (31.3.1814)

Tính đến tháng 3 năm 1814 thì đã có 9146 người được nhận Thập tự sắt hạng II ,trong đó cả Sa hoàng Alexander cùng nhiều tướng lĩnh liên minh khác . Và tính đến hết năm 1817 thì tổng cộng đã có 670 người được nhận Thập tự sắt hạng I .

Huân chương cao quý nhất của Phổ khi ấy là Pour le Mérite ,trong chiến tranh giải phóng thì có rất ít người được nhận phần thưởng này , trong số đó có Thiếu tá Ludwig von Lützow - chỉ huy Quân đoàn tự do Lützow .

30.12.1812 : Hòa ước Tauroggen được kí kết , quân đoàn của Yorck ngừng bắn với quân Nga

1.1.1813 : Các đơn vị đầu tiên của Nga tràn qua biên giới Phổ (Bộ binh của Đô đốc Chichagov và Cossack của Platov)

7.1.1813 : Napoléon chấp nhận vai trò hòa giải của Áo trong chiến tranh Pháp-Nga

11.1.1813 : Nghị định của Thượng viện Pháp thông qua việc gọi thêm 350 000 quân , trong đó gồm 100 000 quân thuộc nhóm 1809-1812 và 150 000 quân cho Vệ binh quốc gia

25.1.1813 : Quốc vương Friedrich Wilhelm III của Phổ rời Berlin để chạy trốn đến Breslau .

8.2.1813 : Quân đội Hoàng gia Phổ thành lập các đơn vị freiwilliger Jäger đầu tiên

9.2.1813 : Vương quốc Phổ ban hành lệnh tổng động viên . Các đơn vị Landwehr đầu tiên được thành lập . Quân Nga tiến vào Warszawa , giải tán Đại công quốc Warszawa .

28.2.1813 : Hiệp ước Kalisch được kí kết , Phổ tham gia liên minh chống Pháp

4.3.1813 : Quân Nga tiến vào Berlin

10.3.1813 : Quốc vương Friedrich Wilhelm III lập huân chương Thập tự sắt .

16.3.1813 : Phổ tuyên chiến với Pháp . Chiến dịch mùa xuân bắt đầu .

17.3.1813 : Quân Pháp rút khỏi Dresden

22.3.1813 : Friedrich Wilhelm trở về Berlin

26.3.1813 : Cossack-Streifkorps đột kích vào Lüneburg

27.3.1813 : Quân Nga tiến vào Dresden . Quốc vương Sachsen chạy trốn sang Bayern .

30.3.1813 : Quân Phổ tiến vào Dresden

3.4.1813 : Quân Nga tiến vào Leipzig . Thượng viện Pháp thông qua việc gọi thêm 180 000 quân .

5.4.1813 : Giao tranh tại Möckern

8.4.1813 : Quân Nga bắt đầu vượt sông Saale

15.4.1813 : Napoléon lên đường đến mặt trận

24.4.1813 : Friedrich Wilhelm III cùng Alexander I tiến vào Dresden

25.4.1813 : Napoléon nắm quyền chỉ huy quân đội tại Erfurt

27.4.1813 : Quân Pháp tiến vào Lüneburg

29.4.1813 : Giao tranh tại Weißenfels

2.5.1813 : Trận Lützen-Größgörschen . Giao tranh tại Halle

5.5.1813 : Giao tranh tại Gersdorf

8.5.1813 : Napoléon tiến vào Dresden

10.5.1813 : Quân Pháp vượt sông Elbe

12.5.1813 : Quốc vương Sachsen trở lại Dresden

18.5.1813 : Quân Thụy Điển đổ bộ lên bán đảo Stralsund

20.5.1813 : Trận Bautzen-Wurschen ngày 1

21.5.1813 : Trận Bautzen-Wurschen ngày 2

22.5.1813 : Trận Reichenbach-Markersdorf

24.5.1813 : Đan Mạch tham chiến , làm đồng minh của Napoléon .

26.5.1813 : Giao tranh tại Haynau

27.5.1813 : Tập đoàn quân Nga-Phổ rút về Breslau.

28.5.1813 : Giao tranh tại tập Nettelnburg

29.5.1813 : Quân của Thống chế Davout tiến vào Hamburg

30.5.1813 : Bá tước Wallmoden trở thành chỉ huy chung của các lực lượng liên minh tại Bắc Đức . Giao tranh tại Halberstadt

1.6.1813 : Quân Pháp tiến vào Hamburg

3.6.1813 : Quân Pháp tiến vào Lübeck

4.6.1813 : Giao tranh tại Luckau . Thỏa thuận đình chiến tại Pleiswitz . Kết thúc chiến dịch mùa xuân

14.6.1813 : Hiệp ước Reichenbach giữa Nga và Anh

17.6.1813 : Quân đoàn tự do của Lützow bị đánh tan

29.6.1813 : Blücher nhận quyền chỉ huy Tập đoàn quân Schlesien

29.7.1813 : Napoléon bắt đầu đàm phán với Metternich tại Prag

11.8.1813 : Thời gian ngừng bắn kết thúc . Bắt đầu chiến dịch mùa thu

12.8.1813 : Áo tuyên chiến với Pháp

23.8.1813 : Trận Großbeeren

26.8.1813 : Trận Dresden ngày 1

27.8.1813 : Trận Dresden ngày 2

29.8.1813 : Trận Kulm ngày 1

30.8.1813 : Trận Kulm ngày 2

6.9.1813 : Trận Dennewitz

16.9.1813 : Trận Göhrde

28.9.1813 : Giao tranh tại Altenburg

3.10.1813 : Trận Wartenburg

8.10.1813 : Hiệp ước Ried , Bayern tham gia Liên minh thứ sáu

9.10.1813 : Napoléon gọi nhập ngũ nhóm 1815

14.10.1813 : Giao tranh tại Liebertwolkwitz

16.10.1813 : Trận Leipzig ngày 1

17.10.1813 : Trận Leipzig ngày 2

18.10.1813 : Trận Leipzig ngày 3

19.10.1813 : Trận Leipzig ngày 4

30.10.1813 : Trận Hanau ngày 1

31.10.1813 : Trận Hanau ngày 2

4.11.1813 : Liên minh thứ sáu tuyên bố giải thể Liên bang sông Rhine

9.11.1813 : Giao tranh tại Hochheim

2.11.1813 : Đại quân của Pháp bắt đầu rút qua sông Rhine

3.11.1813 : Vương quốc Württemberg tham gia Liên minh thứ sáu

9.11.1813 : Napoléon về Paris

11.11.1813 : Pháo đài Dresden đầu hàng

16.11.1813 : Khởi nghĩa chống Pháp ở Amsterdam

22.11.1813 : Quân Nga tiến vào Amsterdam

25.11.1813 : Đại công quốc Baden tham gia Liên minh thứ sáu

30.11.1813 : Thân vương xứ Orange có mặt ở Hà Lan

2.12.1813 : Đơn vị đầu tiên của liên minh vượt qua sông Rhine

15.12.1813 : Hòa ước giữa Nga và Đan Mạch

21.12.1813 : Liên minh tiến vào Thụy Sĩ

23.12.1813 : Tiền quân Áo xuất hiện tại đồng bằng Alsace của Pháp

30.12.1813 : Quân Áo chiếm Geneva

1.1.1814 : Quân Phổ bắt đầu vượt sông Rhine . Bắt đầu chiến dịch mùa đông 1814





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét