Một buổi sáng với sương mù dày đặc vào ngày 14 tháng 10 năm 1806 , tại một ngôi làng tại Sachsen có tên là Vierzehnheilligen ,có nghĩa là ''Mười bốn vị thánh giúp'' đặt tên theo một nhà thờ lớn ở đó , Sư đoàn Grawert triển khai thành đội hình tấn công hệt như lúc đang luyện tập ở doanh trại : 2 tiểu đoàn lựu binh bên phải (Sack Nr.33/42 ; Hahn Nr.29/32) , bên trái lần lượt là 4 trung đoàn hỏa mai (Hohenlohe Nr.32 ; Sanitz Nr.50 ; Zastrow Nr.39 ; Grawert Nr.37) . Nằm sau lưng Sư đoàn Grawert là 5 tiểu đoàn của Lữ đoàn Dyherrn .
Công tước Hohenlohe lệnh cho lực lượng này tấn công vào lúc 11 giờ trưa nhằm giành lại làng Vierzehnheilligen , trước đó đã rơi vào tay quân Pháp . Các tiểu đoàn Jäger di chuyển ở phía trước đội hình để đẩy lùi khinh binh Pháp , tuy nhiên lại bị các đơn vị Chasseurs nấp sau công trình và hàng rào nã đạn quyết liệt nên họ phải lùi về sau đội hình . Lực lượng cố thủ ngôi làng được tăng cường bởi Trung đoàn khinh binh 21 , toàn bộ trung đoàn này không lập thành bất cứ đội hình nào mà họ chia thành nhiều nhóm nhỏ đánh tản rộng . 10 tiểu đoàn ở hàng phía trước của Phổ liền dừng lại để nã một vài loạt vô lê về phía ngôi làng , nhưng chẳng có tác dụng gì vì khinh binh Pháp chỉ đơn giản là nấp sau các công trình để tránh đạn . Khoảng 10 phút sau thì Vierzehnheilligen gần như đã bị bắn tan tành bởi hỏa lực đạn pháo từ hai bên ,
Trung đoàn Long kỵ Krafft , Nr.11 lao thẳng vào làng khiến khinh binh Pháp bỏ chạy tán loạn . Dù đang có lợi thế nhưng Hohenlohe nhất quyết không cho bộ binh tiến vào làng vì trước đó đã có lệnh không được tiếp chiến từ Quốc Vương .
Giữa cảnh tượng hỗn loạn thì có một trung đoàn từ Lữ đoàn kỵ binh Holtzendorff rút lui thẳng về đội hình bộ binh của Grawert , theo truyền thống của quân đội Phổ thì hành động "hèn nhát" này chỉ có thể chặn đứng lại bởi một loạt đạn pháo từ sau lưng .
''Thưa ngài , ngài định cho chúng tôi bắn thẳng vào đồng đội à?'' - một sĩ quan lên tiếng
Thế là họ cứ để kỵ binh bỏ chạy mất tăm hơi khỏi chiến trường .
''Lúc này, chúng tôi đã mất niềm tin vào kỵ binh của mình. Họ bị giữ lại trong phần còn lại của ngày. Họ không được bố trí với một mục đích rõ ràng hay một kế hoạch cụ thể, và không có một sĩ quan nào được giao quyền chỉ huy toàn bộ kỵ binh. Chúng tôi bắt đầu chịu tổn thất đáng kể, trong khi phần lớn quân địch vẫn ẩn mình. Một màn sương dày đặc che phủ khiến vị trí của họ gần như vô hình đối với chúng tôi.
Những tay súng của địch lợi dụng từng hố đất, từng rãnh mương làm nơi ẩn nấp. Đội hình của chúng tôi bắn từng loạt đạn liên tiếp, nhưng thường không có mục tiêu rõ ràng để nhắm tới. Quân địch đã chiếm giữ các tòa nhà trong làng, khiến việc tiếp cận trở nên bất khả thi. Chúng tôi dàn hàng cách các khẩu đội pháo của họ chỉ vài trăm bước chân.
Đạn chùm quét qua hàng của chúng tôi, để lại những khoảng trống tan hoang không thể lấp đầy. Cánh đồng trước lối vào ngôi làng trở thành một biển máu kinh hoàng. Mục tiêu chính của quân địch là các sĩ quan, nhưng họ vẫn giữ vững vị trí, chờ tới mệnh lệnh rút lui được đưa ra thì mới dám hành động.'''
1.Khởi nguyên
Vào ngày 12 tháng 11 năm 1755 tại Bordenau - một ngôi làng nhỏ ở miền Tây Bắc xứ Hannover , Gerhard Johann David Scharnhorst cất tiếng khóc chào đời . Ông là con cả của Ernst Wilhelm Scharnhorst và Friedericke Wilhemine Tegtmeyer . Ngày ấy tại vùng Hannover thì dòng họ Tegtmeyer sở hữu rất nhiều ruộng đất nên gia đình Scharnhorst được kế thừa một điền trang tại Bordenau và vì vậy họ không phải đóng thuế . Cha của Scharnhorst muốn tận dụng sự thăng tiến này để cho con mình làm sĩ quan quân đội , ông đã thuê một đại úy đã về hưu từ làng Schwarmstedt làm gia sư môn toán cho Scharnhorst . Tới năm 17 tuổi thì Scharnhorst đã vượt qua bài kiểm tra để tham gia học viện quân sự gần thành Bückenburg của Bá tước Wilhelm tại Công quốc Schaumburg-Lippe .
Thời ấy thì Công quốc Schaumburg-Lippe là bang quốc nhỏ thứ 4 thuộc Đế chế La Mã Thần Thánh với chỉ 3 thị trấn và tổng dân số đạt 20 000 người . Bá tước Wilhelm - quốc chủ nước ấy sinh ra ở London , đi học tại Genève và Montpellier nơi ông tiếp thu những tri thức tự do vào thời ấy . Khi trở thành một quân vương vào năm 1748 thì ông liền cho cải cách lại đất nước của mình , bao gồm cả việc đem các tri thức và nghệ sĩ về thành Bückenburg để biến nơi đây thành một trung tâm văn hóa-nghệ thuật .
Trong chiến tranh 7 năm (1757-1763) thì Bá tước Wilhelm được bổ nhiệm làm chỉ huy pháo binh của các lực lượng Anh , Hannover và Schaumburg-Lippe liên minh với Phổ . Sau khi giành các chiến thắng quan trọng tại Minden vào năm 1759 thì vào năm 1762 ông đã được phong làm Thống chế Bồ Đào Nha , chỉ huy các đơn vị Bồ phòng thủ trước Pháp và Tây Ban Nha . Sau chiến tranh thì Wilhelm trở về Schaumburg-Lippe và thành lập một học viện quân sự tại pháo đài Wilhelmstein , từ năm 1767 thì nơi đây đã được dùng làm trường pháo binh và trường công binh . Scharnhorst nhập học tại trường vào ngày 19.4.1773 , tại đây thì ông đã được dạy toàn bộ các kiến thức đại cương còn thiếu sót (thời ấy thì chỉ có quý tộc mới có cơ hội được tiếp cận với tri thức) để làm nền tảng cho các khóa huấn luyện nâng cao tiếp theo cho mình . Chính Bá tước Wilhelm đã tự mình lựa chọn các môn học và bài giảng để dạy cho các học trò của mình . Triết lí của Wilhelm khi đó là kết hợp giữa giảng dạy lí thuyết và các lớp thực hành , chủ yếu tập trung vào chuyên ngành pháo binh và khoa học công binh . Trong quá trình học tập thì các học trò của Wilhelm được học qua các môn quân sự như lịch sử quân sự , lập kế hoạch chiến dịch , các chiến thuật , kỹ thuật thiện xạ , nghệ thuật pháo đài , cơ học quân sự , do thám, vẽ địa hình cũng như các môn đại cương như toán học , vật lí , hóa học , kiến trúc , kinh tế , địa lí và ngoại ngữ . Ý tưởng của Wilhelm là một sĩ quan tri thức toàn diện , không chỉ hiểu rõ chuyên môn của mình mà còn phải hiểu được chuyên môn ấy có sự liên kết như nào đối với các lĩnh vực khác , đồng thời áp dụng những kiến thức từ những lĩnh vực ấy vào chuyên môn của mình . Bá tước Wilhelm còn có một tài khác là ông rất giỏi kích thích sự tò mò cho các học trò của mình nên trong mắt Scharnhorst thì Wilhelm là một nhân vật có ảnh hưởng cực kỳ lớn đối với ông thời còn trẻ - người đã dẫn dắt Scharnhorst vào con đường tri thức .
"Người ta hiếm khi tìm thấy trong một con người sự nhân hậu của trái tim và sự vĩ đại của trí tuệ kết hợp với nhau. Sự hòa nhã, lòng tốt và lòng nhân ái của ông đã khiến ông trở thành người cha chung và người bảo trợ của đất nước mình. Ông chưa bao giờ để các thần dân sống trong nghèo khổ mà không được giúp đỡ; ông không bao giờ bỏ mặc những góa phụ và trẻ mồ côi mà không quan tâm... Trong học viện quân sự của mình, ông vừa là hiệu trưởng, giảng viên, ân nhân, vừa là người giáo dục và người bạn của các sĩ quan." - Scharnhorst nói về thầy của mình trong tờ ,,Neues Millitärisches Journal" .
Tuy nhiên mọi thứ đã hoàn toàn thay đổi khi Bá tước Wilhelm qua đời vào ngày 10.9.1777 , và học viện quân sự tại Schaumburg-Lippe bị đóng cửa . Scharnhorst sau đó trở về quê nhà và gia nhập Trung đoàn Long kỵ 8 thuộc quân đội Hannover với quân hàm Thiếu úy (Fähnrich) . Chỉ huy trung đoàn là Thiếu tướng Emmerich Otto August von Estorff , người được Scharnhorst xem là người thầy thứ hai . Estorff cũng có chung niềm tin với Bá tước Wilhelm , đó là việc giáo dục nghề nghiệp cần phải lấy kiến thức đại cương làm nền tảng để đảm bảo thành công trong sự nghiệp . Chính vì thế mà vào năm 1770 thì Estorff đã thành lập một trường học dành cho các sĩ quan trẻ trong trung đoàn của mình . Estorff chọn Scharnhorst làm thầy dạy các môn toán học , chiến thuật , kỹ thuật và sau này dạy cả các môn phác họa , lịch sử và địa lí . Chính tại đây thì sự nghiệp của Scharnhorst sẽ thăng tiến nhanh chóng khi tiếng tăm của ông là một thầy dạy giỏi đã vang ra toàn xứ Hannover . Khi quân đội Hannover thành lập trường pháo binh tại thủ đô thì Scharnhorst lập tức được điều chuyển tới đây để dạy các môn như ông từng dạy trước đó . Hiệu trưởng của trường là Trung tá Victor Lebrecht von Trew , người cũng có cùng quan điểm với Estoff và Wilhelm khi cho rằng cần phải tăng cường thêm cả kiến thức khoa học và kỹ thuật cho các sĩ quan . Ngay khi vừa đến làm việc tại trường thì Scharnhorst đã góp ý cho Trew nhằm thay đổi nội dung các khóa học và cách thức làm bài kiểm tra , ông thường làm điều này bằng cách thường xuyên nộp các bản thông điệp và các bản đề xuất cho cấp trên - điều ông sẽ liên tục làm sau này.
Theo các bản đề xuất này thì Scharnhorst nhấn mạnh về việc giảng dạy các môn toán ứng dụng , vật lý , hóa học cũng như lịch sử quân sự và ngoại ngữ (đặc biệt là tiếng Pháp) . Đây là những môn mà chính ông đã từng được học tại thời ở pháo đài Wilhelmstein và sẽ là những môn học chính của Học viện chiến tranh tại Berlin sau này . Vào thời đó có nhiều phản đối rằng việc giáo dục khoa học kỹ thuật sẽ ảnh hưởng đến các kỹ năng quân sự , nhưng Scharnhorst vẫn kiên quyết với triết lí của mình, theo đó thì một sĩ quan giỏi toàn diện sẽ có thể áp dụng sự hiểu biết rộng rãi của mình để điều chỉnh các quyết định chuyên môn của mình . Còn việc giáo dục kỹ năng chuyên môn sẽ không phải do một giảng viên lặp đi lặp lại các bài học mà sẽ do các học viên sĩ quan tự mình học bằng các kỹ năng đại cương , lấy ví dụ như học tiếng Pháp là để đọc các bài luận cũng như nghiên cứu quân sự nước ngoài. Nếu để ý thì đây chính là triết lí giáo dục của nhiều trường đại học hiện nay.
Theo đề xuất của Scharnhorst thì toàn bộ khóa học sẽ kéo dài 3 năm và kết thúc bằng một bài kiểm tra với hiệu trưởng cùng các tướng lĩnh cấp cao của quân đội làm giám khảo . Và nếu một sĩ quan sau khi đã hoàn thành qua chương trình đào tạo thì cơ hội thăng tiến của người này sẽ cao hơn . Bằng cách này thì không những danh tiếng của trường càng tăng mà truyền thống thăng tiến dựa theo uy thế xã hội cũng sẽ dần bị thay thế bằng quá trình thăng tiến bằng năng lực . Ngoài ra ông còn muốn mở rộng trường pháo binh thành một học viện chiến tranh để đào tạo cho toàn bộ các sĩ quan trong ngũ chứ không chỉ là cho sĩ quan pháo binh .
Trong suốt thời gian giảng dạy tại trường thì vào những lúc rảnh rỗi , Scharnhorst lại viết các bài luận để đăng trên 4 cuốn Militair Bibliothek từ năm 1782 đến năm 1784 . Nội dung của các sách này chủ yếu là bình luận về các tác phẩm về nghề nghiệp quân sự , cũng như thông tin về quân đội các nước Đức và Châu Âu vào thời điểm đó . Khoảng 2800 bản đã được bán khắp Đế chế , từ Wien tới Berlin , Hamburg , Dresden , Leipzig ,... Tiếp nối thành công của mình , Scharnhorst tiếp tục đăng các bài luận của mình vào sách Bibliothek für Offizier vào năm 1785 , nội dung các bài luận vẫn giống như trong bộ sách cũ nhưng có thêm phần dịch các tài liệu huấn luyện của quân đội các nước . Tổng cộng 4 tập đã được xuất bản , sau đó thì Scharnhorst lại đổi tiêu đề sách thành Neues Militärisches Journal với tổng cộng 13 tập được xuất bản từ năm 1788 tới năm 1805 . Trong các bài luận của mình thì 2 người được Scharnhorst nhắc tới nhiều nhất là Friedrich Đại Đế và Bá tước Wilhelm xứ Schaumburg-Lippen . Riêng các năm 1793 và 1794 thì ông không đăng sách bởi ông bận tham gia chiến tranh cùng với Liên minh thứ nhất tại Pháp .
Ngoài các bài luận thì ông cũng viết bộ sách giáo khoa cho trường pháo binh ở Hannover - ,,Handbuch für Offiziere in den awendbaren Theilen der Kriegsenschaften" với tổng cộng 3 tập . Tới năm 1792 thì cuốn ,,Militärisches Taschenbuch , zum Gebrauch im Felde" được xuất bản với đối tượng đọc được nhắm tới là các sĩ quan trẻ nhằm học hỏi các kỹ năng thực tế trên chiến trường . Đây là cuốn sách nổi tiếng thứ hai của Scharnhorst và theo lời của Clausewitz "Đây là cuốn sách tuyệt vời nhất viết về chiến tranh thực tế" . Như vậy phần lớn thời gian trong suốt 15 năm đầu sự nghiệp quân ngũ của Scharnhorst là giảng dạy và nghiên cứu lí thuyết , nên dù không có nhiều kinh nghiệm thực tế nhưng toàn đế chế đều biết đến ông như là một trong các nhà học thuật quân sự tiêu biểu vào thời ấy .
Cơ hội chinh chiến đầu tiên của Scharnhorst đến vào năm 1793 khi sau sự kiện Cách mạng Pháp , các đơn vị của Hannover cùng với Liên minh thứ nhất tấn công lực lượng Cộng hòa . Khi ấy thì Scharnhorst được chọn làm sĩ quan cố vấn chính cho Thiếu tướng Rudolf von Hammerstein . Thắng lợi lớn nhất trong chiến dịch ấy là khi khoảng 1 500 trong tổng số 2000 quân Hannover phá khỏi vòng vây của 20 000 quân dưới quyền Moreau vào đêm 30.4.1794 . Trong báo cáo gửi đến Bá tước Wallmoden thì Hammerstein đã nhường lại toàn bộ công lao dành cho Scharnhorst và gợi ý Quốc vương Anh trao tặng phần thưởng nào đó cho Scharnhorst . Khoảng 2 tháng sau đó thì Scharnhorst liền được thăng lên Thiếu tá và làm quân nhu trưởng thứ hai cho Bá tước Wallmoden .
Sau khi quan sát thực tế chiến trường vào các năm 1793-1794 , thì ông liền dành phần lớn thời gian để bàn về nước Pháp trong 6 tập cuối của Bibliothek für Offizier với tựa nhỏ đề ,,Vài dòng suy nghĩ về thời đại ngày nay , nhất là Cách mạng Pháp 1792 của tác giả Bibliothek für Offizier " . Nội dung các bài luận không chỉ gói gọn về quân sự Pháp mà còn về chính trị mà mô hình xã hội của Pháp sau cách mạng . Những ấn tượng chính của Scharnhorst trong chiến dịch của liên minh thứ nhất là sự yếu kém rõ rệt của quân đội Hannover so với quân đội Pháp , nhất là những mệnh lệnh "vô lí" đến từ các sĩ quan "chưa được giáo dục" , ông muốn trở thành chỉ huy để thay thế họ và tự tin mình có thể làm được . Tuy nhiên vấn đề của quân đội Hannover (và quân đội của các nước quân chủ vào thời ấy) là việc tuyển chọn , thăng tiến phải dựa vào uy thế trong xã hội
"Một lần nữa , một cậu nhóc quý tộc 12 tuổi sẽ được bổ nhiệm làm chỉ huy Trung đoàn Diepenbroik , còn Gust , người có đủ năng lực để làm việc này thì lại bị gạt sang một bên vì nó không có danh hiệu nào . Bọn quý tộc đang kéo chúng ta lại , thế nhưng chúng ta lại chiến đấu cho họ ."
Ông cho rằng thất bại của Liên minh trong chiến tranh chống cách mạng là bởi vì các chỉ huy Liên minh không hề hiểu rõ đặc điểm địa hình , các tuyến đường để cơ động hợp lí . Chính vì thế mà Scharnhorst đã đề xuất cho Bá tước Wallmoden nhằm tổ chức một ban hỗ trợ gồm các sĩ quan chuyên về do thám địa hình , lập kế hoạch hành quân , bố trí doanh trại và giám sát các cánh quân để hỗ trợ cho người chỉ huy . Đây chính là nguồn gốc của hệ thống tham mưu chiến trường (Truppengeneralstab) . Kết thúc chiến dịch thì Scharnhorst vẫn tiếp tục nhiệm vụ của mình trong bộ tổng quân nhu quân đội Hannover . Suốt thời gian đó thì ông liên tục thúc đẩy các lãnh đạo nhằm thực hiện các thay đổi dựa theo mô hình của Pháp cùng với một vài sĩ quan khác , kết luận của ông là Hannover cần phải thay đổi bộ máy quân sự để bắt kịp với Pháp , những đề xuất thay đổi chính bao gồm bắt đầu việc giáo dục tri thức cho toàn bộ lực lượng sĩ quan và hạ sĩ quan , thăng hàm bằng các bài kiểm tra , loại bỏ hiện tượng con ông cháu cha , chủ nghĩa thiên vị , tổ chức lại lực lượng chiến đấu thành các sư đoàn hiệp đồng binh chủng và tổ chức một cơ quan tham mưu vào thời bình . Tuy nhiên để thực hiện được những điều này thì không những quân đội Hannover mà còn là toàn bộ cả hầu quốc đều phải thực hiện một cuộc cải cách toàn diện về chính trị và xã hội , điều mà giới quý tộc Hannover phản đối quyết liệt để bảo vệ di sản và uy thế của mình . Nhận ra mình không còn có thể thăng tiến trong quân đội Hannover nữa , Scharnhorst quyết định đàm phán với quân đội Phổ .
Trước đó từ năm 1797 , Quốc Vương Friedrich Wilhelm III đã mời Scharnhorst sang Phổ làm việc nhưng Scharnhorst đã từ chối bởi vào lúc đó ông đang có mức lương cao hơn tại Hannover . Tuy nhiên vào năm 1800 thì góc nhìn của Scharnhorst đã thay đổi , khi ấy thì ông không thể thăng tiến trong hàng ngũ Hannover được nữa còn quân đội Phổ thì lại là lực lượng vũ trang có tầm ảnh hưởng lớn nhất tại Đức ,ngoài ra trong hàng ngũ của lực lượng này thì cơ hội thăng tiến vẫn rộng mở hơn so với tại Hannover . Scharnhorst viết thư yêu cầu được nhận hàm trung tá pháo binh cùng mức lương đủ để nuôi gia đình và cuối cùng là được nâng lên hàng quý tộc . Sau khi Friedrich Wilhelm đồng ý với các điều kiện này thì Scharnhorst liền rời ngũ tại Hannover vào ngày 30.12.1800 . Khoảng 5 tháng sau đó thì ông đã chính thức làm việc tại Berlin .
Ban đầu khi đặt chân đến Vương quốc Phổ vào mùa xuân năm 1801 thì Scharnhorst gặp rất nhiều trở ngại , phần lớn đến từ các đồng nghiệp của mình . Trong con mắt của họ thì Scharnhorst là một ông già trung niên có cái lưng hơi gù , có giọng nói nhẹ nhàng , ngập ngùng và nói một thứ giọng đặc từ vùng Hannover xa xôi rất khó nghe trong tai người Phổ . Khi thực hiện các bài đội hình đội ngũ thì tư thế của Scharnhorst không hề cứng và dứt khoát như bao người khác . Nhìn chung thì Scharnhorst không hề giống với hình mẫu của một sĩ quan Phổ chút nào và bất kỳ một hạ sĩ quan trẻ nào cũng sẽ làm tốt hơn ông .Tại Berlin thì người ta xem ông chỉ là một học giả quân sự , một người thiếu quyết đoán , thiếu thực dụng và là một tay viết sách chẳng liên quan gì đến quân sự . Trong lúc đó thì một vài các văn bản đề xuất đã được trình lên cho Quốc Vương cùng các sĩ quan cấp cao về vấn đề giáo dục quân ngũ để bắt kịp với quân đội Pháp . Các bản đề xuất thì thực chất là bản copy của các văn bản đề xuất mà ông từng đưa ra cho quân đội Hannover và tất nhiên là chúng cũng nhanh chóng bị từ chối .Cũng giống như tại Hannover và Brunschweig thì các tướng lĩnh cấp cao của Phổ đều đã từng chiến đấu dưới quyền của Friedrich Đại Đế và cực kỳ ngưỡng mộ ông , chính vì thế mà họ vẫn luôn bám chặt vào phương pháp chiến đấu của vị tiên vương . Quả thật ,quân đội Phổ dưới thời Friedrich Đại Đế là một cỗ máy chiến tranh tinh nhuệ, nổi bật với kỷ luật sắt và lối đánh táo bạo. Tuy nhiên, đến thời Napoléon, những ưu thế ấy đã trở nên lỗi thời mà họ vẫn giữ nguyên mô hình cứng nhắc của thế kỷ 18 từ thần tượng của họ là Friedrich Đại Đế.
Vào lúc ấy thì Scharnhorst không thể hành động quá táo bạo được mà ban đầu ông tập trung vào việc tìm kiếm những đồng minh của mình . Biết rằng không thể nào thay đổi được quan điểm của các tướng lĩnh già - những học trò của vị vua cha . Do đó chỉ còn một cách duy nhất là chờ đến ngày những người này bị thay thế bởi thế hệ sĩ quan trẻ được giáo dục bởi chính Scharnhorst . Theo mệnh lệnh vào ngày 5 tháng 10 năm 1801 thì Scharnhorst được bổ nhiệm làm hiệu trưởng Viện sĩ quan bộ binh và kỵ binh trẻ (Lehranstalt für junge Infanterie- und Kavallerie-Offiziere) . Cũng vào tháng 7 năm đó thì Scharnhorst đã thành lập Cộng đồng Quân sự (Militärische Gesellschaft) tại Berlin , chủ tịch của Cộng đồng là Trung tướng von Rüchel - Thanh tra Vệ binh và Thị trưởng Potsdam . Mục tiêu của tổ chức này đơn giản là đưa ra các đề xuất cải cách lại quân đội . Tại đây thì Scharnhorst đã gặp được nhiều nhân vật sẽ có vai trò cực kỳ quan trọng trong tương lai như :
- Thiếu tá von dem Knesebeck , một người rất đam mê với những lí tưởng tự do Pháp của năm 1789 . Lúc đó ông đang là phụ tá của Trung tướng von Rüchel . Chính từ bản đề xuất thành lập một lực lượng phòng vệ lãnh thổ để tăng cường sức mạnh quân sự mà ý tưởng về việc biến quân đội thành một lực lượng ''của nhân dân'' đã đến trong đầu của Scharnhorst .
- Đại tá Christian von Massenbach - cha đẻ de jure của Bộ Tổng Tham mưu Phổ .
- Ngoài ra còn có hàng loạt các sĩ quan trẻ khác cùng học trò của Scharnhorst tham gia tổ chức này như Boyen , Grolman , von Lilienstern , Clausewitz , …
Ngoài những nhân vậy này ra thì tham gia Cộng đồng cũng có các sĩ quan của ''trường phái cũ'' ví dụ như :
- Đại tá von Phull từ Bộ Tổng Quân nhu
- Đại tá Hans von Yorck , lúc đó đang chỉ huy một trung đoàn . Ông đã từng tham chiến tại Nam Phi và Indonesia trong hàng ngũ của Hà Lan . Chính ông đã phàn nàn rằng các sĩ quan trong cộng đồng nói quá nhiều về các vấn đề cải cách lại quân đội cũng như cải cách xã hội và một ''bộ não Phổ trung thực'' không thể nào hiểu nổi được .
Thực ra thì không chỉ có 2 sĩ quan này mà phần lớn các tướng lĩnh quân đội cũng không tin rằng thành công của ''khối thịt'' Pháp (từ miệt thị chỉ đội hình khối tiểu đoàn) lại khiến họ phải xem xét lại hệ thống của Friedrich Đại Đế. Thậm chí Trung tướng Rüchel còn tuyên bố rằng quân đội Phổ cũng có vài ông tướng chất lượng như ''Quí ngài von Bonaparte'' .
Phần lớn các học trò tiêu biểu của Scharnhorst như Trung úy Karl von Clausewitz , Đại úy Wilhelm von Grolman , Trung úy August Rühle von Lilienstern và Đại úy Herman von Boyen đều không có xuất thân từ tầng lớp Junker . Những người này đều đã được huấn luyện về tư duy cũng như đạo đức bởi Scharnhorst . Các bài giảng về vấn đề đạo đức của Scharnhorst mang dấu ấn của triết học Kant , bản thân Scharnhorst cũng là một người Tin Lành mộ đạo và vì thế ông rất đặt nặng vấn đề đạo đức về chiến tranh bởi sự tàn bạo của nó . Qua Scharnhorst thì một thế hệ các sĩ quan mới của Phổ luôn luôn đăt nặng trách nhiệm và đạo đức của mình trong bối cảnh chính trị , luôn xem chiến tranh chỉ là một cánh tay nối dài của chính trị và là công cụ chính trị cuối cùng nhất . Chính vì chiến tranh chỉ là cánh tay nối dài của chính trị mà Scharnhorst đã luôn luôn cảnh báo về mối hiểm họa của một chính sách Kabinetsspolitik mà theo đó mọi thứ kể cả chính trị cũng phải đi theo kế hoạch quân sự . Đây đã là truyền thống lâu đời của Phổ , như Voltaire đã nói ''Trong khi các nhà nước khác có một quân đội , thì quân đội Phổ lại có một nhà nước. ''
Đó là cách mà Phổ sẽ bước vào Chiến tranh Liên minh thứ tư vào năm 1806 . Một cuộc chiến mà ''Quí ngài von Bonaparte'' sẽ trở thành một người thầy của quân đội Phổ trong tương lai .
Christian von Massenbach sinh ngày 23 tháng 10 năm 1758 tại Schmalkalden , Vương quốc Phổ , là con của một gia đình quý tộc gốc Württemberg . Vì là một nhân vật gây tranh cãi trong lịch sử nên dòng họ Massenbach không bao giờ tiết lộ tranh chân dung của Christian , nhưng ông được mô tả là có thân hình nhỏ , đầu hói và mắt to . Massenbach khởi đầu sự nghiệp trong quân đội Württemberg trước khi gia nhập quân đội của Frederick Đại đế vào năm 1782. Với sự nhiệt huyết không ngừng nghỉ của mình thì Massenbach cũng đã đăng nhiều bài báo và công trình nghiên cứu và sau đó nhanh chóng được công nhận là một nhà lý thuyết và nhà toán học tài năng . Chính vì thế mà khi ông gia nhập Cộng đồng Quân sự thì Massenbach là một nhân vật còn sáng lạn hơn cả Scharnhorst . Quan trọng nhất , Massenbach là một người cuồng Pháp và cực kỳ ngưỡng mộ Napoléon .
Vào năm 1801 , Massenbach đã soạn thảo một bản chỉ dẫn có liên quan đến Bộ Tổng Quân nhu và tiếp đó ông soạn tiếp hai bản đề xuất vào tháng 1 và tháng 12 năm 1802 về việc cải cách lại Bộ Tổng Quân nhu (General- Quartiermeisterstab) với nhiệm vụ lập kế hoạch tác chiến vào thời bình và hỗ trợ cho các tư lệnh đạo quân vào thời chiến . Chính vì thế mà Massenbach , chính là cha đẻ de jure của Bộ Tổng Tham mưu Phổ . Nhưng trên thực tế thì những ý tưởng này có nội dung gần như tương tự với bản đề xuất mà Massenbach đã trình lên cho Công tước Braunschweig vào năm 1785 (ngay từ trước khi Scharnhorst đến Phổ thì Massenbach đã cực kỳ tích cực trong việc thúc đẩy cải cách quân đội Phổ) và những ý tưởng đó thực chất lại được mượn từ Scharnhorst thời ông còn đang làm việc cùng Công tước Braunschweig ở Westfalen và tại Cộng đồng Quân sự . Hơn nữa thì mục đích của Massenbach chỉ đơn thuần là chấm dứt tình trạng quyền lực chồng chéo trong hệ thống nhà nước của Phổ chứ ông không đưa vào áp dụng ý tưởng về một tập thể sĩ quan tri thức đã được đào tạo nhằm hỗ trợ cho các chỉ huy trên chiến trường như của Scharnhorst (Truppengeneralstab) .Như vậy Scharnhorst chính là cha đẻ de facto cùng hệ thống tham mưu chiến trường mà sẽ được áp dụng rộng rãi sau này .
Trong hai bản đề xuất này , Massenbach cho rằng vào thời bình thì cũng cần phải lập kế hoạch tác chiến để đề phòng các tình huống chiến tranh khả dĩ (vào thời đó thì việc lập kế hoạch tác chiến vào thời bình được xem là một hành động hiếu chiến) , qua đó thì Bộ Tổng Tham mưu sẽ được chia thành 3 lữ đoàn chịu trách nhiệm cho 3 hướng chiến trường : Áo , Nga và Pháp . Điều đó có nghĩa là Massenbach xem một cuộc chiến với Áo và Nga cũng có tỉ lệ xảy ra . Ngoài ra thì Massenbach cũng xem việc tổ chức cơ quan này là một vấn đề cấp bách và việc huấn luyện các sĩ quan bằng việc tham quan các vị trí đánh trận dự kiến trong nước cũng như ngoài nước vào thời bình cũng bắt đầu được áp dụng (đây chính là nguồn gốc của Stabs-Reise , về sau được Lục quân Mỹ học hỏi và được gọi là Staff Ride đến tận ngày nay) . Một vài các đề xuất khác bao gồm cho các sĩ quan tham mưu xoay tua làm việc ở Bộ Tổng Quân nhu cũng như cùng các trung đoàn để hiểu rõ hệ thống chỉ huy và quan trọng nhất là các Tổng Quân nhu trưởng trong tương lai sẽ báo cáo trực tiếp (Immediatvortrag) với Quốc vương .
Chỉ có Trung tướng von Rüchel là đồng ý với Massenbach còn các ''học trò của Friedrich Đại Đế'' thì lại phản đối kịch liệt . Thống chế von Möllendorf cho rằng việc lập kế hoạch tác chiến từ trước sẽ dẫn đến việc bị gián điệp tuồn ra ngoài dẫn đến các hậu quả chính trị-quân sự khủng khiếp . Thiếu tướng Wilhelm von Zastrow thì cho rằng không nên biến Bộ Tổng Quân nhu thành một trường đào tạo sĩ quan . Nhưng Friedrich Wilhelm III đã đánh giá cao hai bản đề xuất của Massenbach , chính vì thế mà vào năm 1803 ông đã lệnh cải cách lại Bộ Tổng Quân nhu theo đề xuất của Massenbach .
Vào ngày 1 tháng 1 năm 1804 , ''Bộ Tổng Tham mưu Phổ'' chính thức ra đời cho dù tên gọi của cơ quan này vẫn là Bộ Tổng Quân nhu - General Quartiermeisterstab . Trung tướng von Geusau đã được bổ nhiệm làm Tổng Quân Nhu trưởng mới và đồng thời cũng kiêm luôn nhiệm vụ chỉ đạo Binh chủng Công binh và Phòng Chiến tranh thuộc Phòng Chiến tranh Cao cấp (Ober-Kriegs-Kollegium) . Quân số của Bộ Tổng Quân nhu mới gồm có 21 sĩ quan , trong đó có 3 sĩ quan Quân nhu phó (Generalquartiermeisterleutnants) có quyền hạn ngang hàng với 1 đại tá ; 6 sĩ quan quân nhu (Quartiermeister) có quyền hạn ngang hàng với trung úy ; 6 sĩ quan phụ tá và 6 sĩ quan địa lý . Toàn bộ cơ quan được chia thành 3 lữ đoàn , mỗi lữ đoàn được đứng đầu bởi
một Quân nhu phó , theo đó Đại tá Phull được bổ nhiệm làm Quân nhu phó của Lữ đoàn 1/hướng Đông (Nga) , Đại tá Massenbach được bổ nhiệm làm Quân nhu phó Lữ đoàn 2/hướng Nam (Áo) và Đại tá Scharnhorst được bổ nhiệm làm Quân nhu phó Lữ đoàn 3/hướng Tây (Pháp) .
Các sĩ quan thuộc Bộ Tổng quân nhu mới đều có những tố chất không đồng đều với nhau : Trung tướng von Geusau đã già yếu và không còn minh mẫn, trong khi Phull lại là một người khó tính nhưng đôi khi cũng có cái nhìn sâu sắc về sự cần thiết của việc cải cách. Massenbach, một người hùng biện, lại quá say mê tài hùng biện của chính mình và bị ám ảnh bởi ý tưởng rằng việc ghi lại tất cả các vị trí đánh trận thuận lợi trong thời bình có thể đảm bảo chiến thắng. Hơn nữa, sự bất ổn về thần kinh của Massenbach cũng hạn chế đáng kể khả năng của ông. Scharnhorst là người duy nhất sở hữu sự kết hợp giữa trí tuệ và sự điềm tĩnh cần thiết để thực sự định hình lại Bộ Tổng Quân nhu của Massenbach , dù ông thường bị Phull và Massenbach gọi là một ông thầy nghiêm khắc do sự tỉ mỉ của mình.
Bất chấp những hạn chế ấy thì quân đội Phổ lúc bấy giờ đã có một ''Bộ Tổng Tham mưu'' đúng nghĩa – một điều chưa từng có trước đây. Tuy nhiên, vấn đề lớn nhất là không ai thực sự hiểu được cách sử dụng hiệu quả cơ quan này, và chức năng, quyền hạn của nó trên thực tế vẫn còn rất mơ hồ trong mớ hỗn độn của một loạt các cơ loạt quân sự khác nhau cùng tồn tại lúc bấy giờ . Bên cạnh Bộ Tổng Quân nhu , còn có Phòng Chiến tranh Cao cấp (Ober-Kriegs-Kollegium) do Thống chế von Mollendorf cùng Công tước Braunchsweig đứng đầu và cả hai đều đã rất cao tuổi. Tuy nhiên, cơ quan có ảnh hưởng lớn nhất đến việc điều hành các vấn đề quân sự lại là Phòng Phó tướng , vốn hoạt động như một nội các quân sự bí mật gồm các nhân vật thân thiết nhất của Quốc vương . Người đứng đầu Phòng này vào thời điểm đó là Thiếu tướng von Köckritz, một nhân vật được Stein mô tả là điển hình của "sự phục tùng kiểu tu sĩ" từ đồn trú Potsdam, với cuộc sống chỉ xoay quanh bài bạc, rượu vang và thuốc lá. Không ai trong số các cơ quan này thực sự xác định được cách phối hợp quyền hạn của họ trong trường hợp khẩn cấp. Như vậy ý định về việc thống nhất các cơ quan quân sự cao cấp của Massenbach đã thất bại .
Uy tín và công việc của Bộ Tổng Quân nhu vào thời điểm đó hoàn toàn dựa vào cá tính của Scharnhorst. Scharnhorst không phải là người ủng hộ một hệ thống cứng nhắc, mà ông chủ trương thực hiện những ý tưởng cơ bản mới đã được công nhận gần đây, như việc tăng cường và hoàn thiện quân đội bằng cách thành lập dân quân và thành lập các sư đoàn hỗn hợp gồm nhiều binh chủng và các chỉ huy của những đội hình được cố vấn bởi một ban tham mưu trên chiến trường , cùng với đó điều chỉnh các phương pháp chiến đấu phù hợp với nhu cầu thời đại. Nhận thấy chiến lược của Napoléon hướng đến sự tiêu diệt không khoan nhượng kẻ thù và sự cần thiết phải phân chia lực lượng khi hành quân do quy mô của các tập đoàn quân trên chiến trường ngày càng tăng, Scharnhorst đã sớm hình thành nguyên tắc "Không được hành quân tập trung nhưng luôn luôn phải đánh trận tập trung." Nguyên tắc này đã báo trước tư tưởng của Moltke và hình thức tác chiến phức tạp quy mô lớn của chiến trường kiểu mới này đòi hỏi một đội ngũ tham mưu tác chiến chuyên nghiệp để có thể giảm bớt áp lực chỉ huy một cách hiệu quả .
2.Cải cách
Sau chiến thắng tại Austerlitz năm 1805, Napoléon áp đặt Hiệp ước Pressburg lên Áo, giải thể Đế quốc La Mã Thần thánh và thành lập Liên bang sông Rhein dưới sự bảo hộ của Pháp. Dù ban đầu Phổ giữ trung lập và có xu hướng liên minh với Pháp, nhưng việc quân Pháp xâm phạm lãnh thổ trong chiến dịch Ulm và sau đó đề nghị trả lại Hannover cho Anh (trước đó từng hứa trao cho Phổ) đã khiến Quốc vương Friedrich Wilhelm III cảm thấy bị xúc phạm và đe dọa. Áp lực từ phe hiếu chiến trong triều đình, cộng thêm sự tự tin quá mức vào sức mạnh quân sự, đã khiến ông ban hành lệnh tổng động viên vào tháng 8 năm 1806. Đến ngày 1 tháng 10, Phổ gửi tối hậu thư yêu cầu Napoléon rút toàn bộ quân khỏi Đức – điều bị Napoléon bác bỏ. Ngay lập tức, ông ra lệnh cho Đại quân tiến vào Bắc Đức, mở đầu chiến dịch mới.
Trước đó, trong lúc chiến dịch Ulm-Austerlitz còn diễn ra, Scharnhorst – sĩ quan Bộ Tổng Quân nhu – đã gửi phân tích chiến dịch tới Thủ tướng Hardenberg, đánh dấu lần đầu tiên một sĩ quan quân đội làm cố vấn cho chính trị gia, thể hiện rõ tư tưởng chiến tranh là sự tiếp nối của chính trị. Tháng 10/1805, quân Áo dưới quyền Mack bị bao vây tại Ulm, và đến tháng 12, liên quân Áo-Nga thảm bại tại Austerlitz. Kết quả này khiến chính sách trung lập của Phổ trở nên vô nghĩa.
Khi chiến tranh nổ ra vào tháng 10 năm 1806 thì Bộ Tổng Quân nhu đã ngay lập tức bị vô hiệu hóa ngay từ đầu bởi hàng loạt các sĩ quan quan trọng đều bị điều chuyển tới các vị trí khác :
- Trung tướng von Geusau cùng Đại tá von Phull bị điều chuyển tới Sở Chỉ huy của Quốc vương . Tại đây thì Quân vương lại chỉ nghe theo lời cố vấn của Phòng Phó tướng
- Massenbach trở thành Quân nhu trưởng cho Công tước Hohenlohe , chỉ huy một tập đoàn quân với quy mô 4 sư đoàn .
- Scharnhorst trở thành Quân nhu trưởng cho Công tước Braunchsweig , chỉ huy tập đoàn quân chủ lực của Phổ .
Khi đó các đơn vị trên chiến trường chịu sự chỉ đạo từ 3 cơ quan khác nhau : từ Bộ Tư lệnh , từ hai Tư lệnh Tập đoàn quân và từ sự can thiệp của Phó tướng . Còn Bộ Tổng Quân nhu xem như không tồn tại ,hơn nữa cả 3 vị Quân nhu phó cũng không hề phối hợp ăn ý với nhau .
Scharnhorst trước đó đã vạch ra một kế hoạch nhằm tập trung quân số tại biên giới phía Tây với ý đồ cuộc tấn công phủ đầu vào bất kỳ sự tập trung quân lực nào của Pháp dọc sông Rhine hay sông Main. Với quân số ít ỏi hơn so với Pháp , một đòn tấn công phá thế như vậy dường như là phương án chiến lược duy nhất, bởi nó có khả năng trì hoãn đối phương, câu thêm thời gian để Phổ tìm kiếm đồng minh. Song, các ý kiến khác lại chiếm ưu thế. Kế hoạch của Scharnhorst bị loại bỏ, nhường chỗ cho một tư duy quân sự đã lỗi thời: đó là thành lập một tập đoàn quân chính cùng hai tập đoàn quân yểm trợ, có nhiệm vụ bảo vệ lãnh thổ các bang quốc liên minh tại các vùng Thüringen và Hessen. Cách làm này khiến lực lượng vốn đã không dồi dào của Phổ bị dàn mỏng một cách vô ích, phần lớn sức mạnh đã bị phân tán trước cả khi chiến dịch bắt đầu. Ngoài ra các sĩ quan chỉ huy sư đoàn có rất ít kinh nghiệm bởi đây là đội hình tác chiến mới , còn cả 3 vị chỉ huy tập đoàn quân đều đã có tuổi đời cao : Công tước Braunschweig - 71 tuổi , Bá tước Kalckreuth - 69 tuổi , Công tước Hohenlohe - 60 tuổi . Điều mà phần lớn các chỉ huy không thiếu chính là lòng tự tin thái quá. "Hai chúng ta cũng chẳng kém cạnh ai," Rüchel viết cho cấp trên là Blücher, tư lệnh Tập đoàn quân thứ ba của Phổ . Trong khi đó, một đại tá Phổ lại tỏ ý tiếc rằng binh sĩ phải vác theo súng ống, gươm giáo nặng nề. Ông ta cho rằng chỉ cần gậy gộc cũng đủ sức đánh đuổi "lũ chó Pháp" khỏi bờ cõi. Dường như chỉ có Blücher cảm thấy lo lắng trước tình trạng thiếu nhất quán và sự hỗn loạn trong hệ thống chỉ huy.
Khi nhận thấy Napoléon đang dàn quân trên một chiến tuyến kéo dài từ sông Sieg đến Thượng Palatinate, Scharnhorst một lần nữa đề nghị tung một đòn tấn công quy mô lớn, đột phá nhanh nhằm xuyên qua chiến tuyến ấy. Một lần nữa thì Massenbach lại đưa ra ý kiến ngược lại nên đề xuất của Scharnhorst lại không được chấp thuận. Trong thư gửi con gái ngày 7 tháng 10 năm 1806, Scharnhorst viết: "Cha biết rõ việc cần làm. Nhưng việc chúng ta sẽ làm, chỉ có Thượng đế mới hay."
Trước đó Hoàng Đế Napoléon đã tập trung phần lớn đạo quân của mình hành quân qua ngã Gera đến thị trấn Jena vào ngày 13.10 , tối hôm đó thì ông đã cho Vệ binh Già tiến lên cao nguyên nằm giữa Cospeda , Lützeroda và Closewitz , tại đây thì họ nhìn thấy ánh lửa từ các lều trại của quân Phổ . Tin rằng mình đã tìm thấy chủ lực của Phổ , Napoléon cho các đơn vị của mình bắt đầu hành quân qua các ngã Mühltal , Rosental , Ziskauer Tal , Steiger , Landgrafenberg , Rautal và Jägerberg vào đêm 13-14.10 . Khoảng 6 giờ sáng thì tiếng pháo nổ báo hiệu trận chiến bắt đầu . Vào lúc này thì chỉ huy liên quân Phổ-Sachsen là Công tước von Hohenlohe-Ingelfingen đang ở sở chỉ huy của mình tại Wasserburg . Hohenlohe không nghĩ rằng vào ngày hôm đó thì sẽ phải đánh trận . Quân Pháp tràn vào làng Closewitz , tại đây thì 3 tiểu đoàn lựu binh của Phổ đã bị pháo bắn tan tành . Tới 9 giờ thì liên quân Phổ-Sachsen mới lập thành chiến tuyến kéo dài từ Vierzehnheilligen tới cối xay gió Krippendorfer . Mũi nhọn của quân Pháp đâm thẳng vào làng Vierzehnheilligen . Tại đây, một trận giáp lá cà ác liệt đã diễn ra. Quân Phổ, tuy có lợi thế về địa hình ban đầu, nhưng lại thiếu sự phối hợp và chỉ huy rõ ràng. Pháo binh Pháp liên tục dội lửa, gây ra thương vong nặng nề.
Vào khoảng 10 giờ sáng, khi tình hình tại Vierzehnheiligen trở nên cam go, quân Phổ tung ra một cuộc đòn phản công mạnh mẽ do tướng Ruchel chỉ huy. Tuy nhiên, cuộc phản công này, dù dũng cảm, lại thiếu sự hỗ trợ cần thiết và nhanh chóng bị dập tắt bởi các đợt tấn công liên tiếp của quân Pháp. Cùng lúc đó, các quân đoàn Pháp khác dưới sự chỉ huy của Ney và Augereau cũng tiến công mạnh mẽ vào các sườn của quân Phổ, tạo thành thế gọng kìm.
Đến khoảng 13 giờ chiều, khi sương mù đã tan hoàn toàn và tầm nhìn trở nên rõ ràng, Napoléon nhận thấy rằng quân Phổ đã mệt mỏi và đội hình bắt đầu rạn nứt. Ông tung ra đòn quyết định cuối cùng: ông lệnh cho Vệ binh Đế chế cùng toàn bộ các quân đoàn của Pháp đồng loạt tổng tấn công. Sức ép từ các hướng cùng với hỏa lực áp đảo đã khiến đội hình quân Phổ-Sachsen hoàn toàn vỡ trận. Họ bắt đầu tháo chạy trong hỗn loạn, bỏ lại vũ khí, cờ hiệu và rất nhiều tù binh. Quân Pháp, đặc biệt là kỵ binh, đã truy kích không ngừng nghỉ, biến cuộc rút lui của Phổ thành một cuộc tháo chạy hoảng loạn.
Cùng thời điểm đó, cách Jena khoảng 20 km về phía Bắc, tại Auerstedt, một trận chiến không kém phần khốc liệt cũng đang diễn ra. Napoléon, không hề hay biết rằng phần lớn quân Phổ không ở cùng Hohenlohe mà tập trung phía sau tại Auerstädt, do đó ông đã phái quân đoàn của Davout đi vòng đánh vào sườn phía bắc , tức sườn trái của quân Phổ. Do đó, Davout đã bất ngờ chạm trán với đạo quân chủ lực đông hơn của Phổ. Thống chế Davout chỉ huy Quân đoàn III của Pháp với chỉ 3 sư đoàn bộ binh và 1 lữ đoàn kỵ binh, đã đối đầu trực diện với tập đoàn quân chủ lực của Phổ gồm gần 60.000 quân do đích thân Friedrich Wilhelm III và Công tước Braunchsweig chỉ huy. Mặc dù bị áp đảo về quân số, Davout đã nhanh chóng triển khai đội hình chiến đấu và tung ra các đòn phản công quyết đoán. Công tước Braunchsweig bị trọng thương và tử trận ngay từ đầu trận đánh, khiến quân Phổ mất đi chỉ huy cao nhất và rơi vào tình trạng hỗn loạn. Các đòn tiểu đoàn của Phổ triển khai một cách rời rạc nên toàn bộ những đợt tấn công đều bị đánh bật lại khiến ưu thế về quân số của họ không thể phát huy hiệu quả được .
Như vậy trong trận Jena và Auerstädt, quân Phổ rõ ràng yếu thế hơn về số lượng. Dù vậy, yếu tố then chốt dẫn đến thảm bại lại nằm ở khả năng phán đoán thời điểm sai lầm – biểu hiện cốt lõi của một hệ thống chỉ huy kém cỏi. Quân Phổ bố trí trên một chiến tuyến quá dài, cách sông Elbe một đoạn về phía Tây. Kế hoạch của Napoléon được thực thi với tốc độ hành quân cao, là vòng ra phía sườn trái quân Phổ, nhằm cắt đứt đường rút lui của họ qua sông Elbe. Khi ý đồ này của Napoléon lộ rõ, Hoàng tử Louis đã đáp trả bằng một đòn phản kích mãnh liệt. Sự hy sinh quả cảm của ông trên chiến trường thậm chí còn khiến Napoléon phải ngả mũ thán phục. Thế nhưng, nỗ lực của Hoàng tử Louis không thành công. Khi ông tìm cách thọc sâu vào sườn của Đại quân Pháp thì họ đã nhanh chóng xoay lại đội hình để chống trả với tốc độ đáng kinh ngạc.
Tuy vậy, thảm họa thực sự bắt nguồn từ ba yếu tố chính. Một là, Công tước Hohenlohe, người đang đối đầu trực diện với quân chủ lực của Napoléon trên cao nguyên ở Thượng Jena, lại không chớp thời cơ tấn công khi còn chút hy vọng. Có thể thông cảm phần nào vì Công tước Braunschweig, chỉ huy tập đoàn quân chủ lực của Phổ đóng ở phía sau gần Auerstädt, đã lệnh cho Hohenlohe phải giữ thế phòng ngự. Cũng giống với mọi binh sĩ khác thì cả các sĩ quan các cấp , kể cả Công tước Hohenlohe cũng phải tuân theo thượng lệnh , bằng không thì sẽ bị xử bắn . Toàn bộ những hành động hoảng sợ , dù cho có đang bị đạn pháo dội thẳng lên đầu đều được xem là đào ngũ . Đây là cách mà Friedrich Đại Đế đã rèn giũa quân đội của mình hơn 50 năm trước , nhưng Friedrich cùng những sĩ quan cao cấp của mình không thể sống được tới năm 1806 để đối phó với chiến trường kiểu mới .
Đây chính là yếu tố thứ hai: bản thân Braunschweig đã lưỡng lự quá lâu, không quyết đoán được nên cố thủ hay rút qua sông Elbe. Hậu quả là tuyến phòng thủ của Hohenlohe, vốn làm nhiệm vụ che chắn cho quân chủ lực phía sau, đã bị đánh tan trước khi lực lượng này kịp thời rút lui. Yếu tố thứ ba là sự có mặt quá muộn của Rüchel, người lẽ ra phải đến tăng viện cho Hohenlohe. Sự chậm trễ này bắt nguồn từ chính việc dàn trải lực lượng Phổ quá mức mà Scharnhorst đã kịch liệt phản đối. Thậm chí, có thể kể thêm yếu tố thứ tư, một yếu tố hoàn toàn nằm ngoài dự tính.
Chính Scharnhorst cũng bị thương, sau khi cầm lấy khẩu súng điểu thương và xông vào hàng ngũ chiến đấu lúc toàn quân Phổ bắt đầu hỗn loạn tháo chạy.
Hoàng hôn mùa thu nhuốm màu buồn bã bao trùm cảnh tượng quân đội Phổ tan tác chạy loạn . Scharnhorst cố gắng thoát khỏi chiến trường, ban đầu đi cùng đoàn tùy tùng của Quốc vượng .
Nhưng đêm đó, con ngựa ông cưỡi quá bất kham, khiến ông bị tụt lại và lạc khỏi Bộ Tư lệnh trong đêm tối. Số phận run rủi lại cho ông gặp Blücher, người đang cùng tàn quân kỵ binh của mìng cố gắng bảo vệ các khẩu pháo hạng nặng ở phía sau . Blücher, một người thô kệch, ít học, nhưng sở hữu khả năng đánh hơi sắc sảo, chính là sĩ quan Phổ đầu tiên nhận ra giá trị của hệ thống tham mưu chiến trường . Ông đang chỉ huy cuộc rút quân qua dãy Harz hướng về Mecklenburg – trên đường đi, Yorck cùng lực đơn vị Jäger của mình cũng đã gia nhập quân của Blücher . Cuộc rút lui này, với nhiều trận đánh cầm chân địch quyết liệt, đã thành công thu hút một bộ phận đáng kể quân Pháp, làm chậm bước tiến của họ trong việc chiếm đóng các tỉnh phía đông nước Phổ. Nhưng nó còn đi vào lịch sử vì một lý do khác: chính trong cuộc hành quân này, Scharnhorst đã trở thành người cố vấn không thể thiếu cho Blücher.
Cuối cùng, do cạn kiệt đạn dược và lương thực, Blücher và Scharnhorst buộc phải hạ vũ khí tại Rakau, gần Lübeck. Những gì diễn ra sau đó là một chuỗi sự kiện đáng buồn và tủi hổ. Trung tướng von Kleist đầu hàng tại Magdeburg cùng 24 000 binh sĩ. Tướng von Lecocq, người từng cùng Scharnhorst đề xướng cải cách quân đội , cũng buông súng tại Hamlin. Các pháo đài kiên cố như Küstrin và Stettin đầu hàng mà không tốn một viên đạn. Công tước Hohenlohe, cùng 12 000 tàn quân, hạ vũ khí tại Prenzlau, sau khi bị thuyết phục bởi Đại tá Massenbach trong tâm trí hoàn toàn hoảng loạn .
Sau chiến dịch , hàng loạt các sĩ quan cao cấp đều bị điều tra và đưa ra tòa án binh . Các cuộc điều tra bắt đầu vào tháng 11 năm 1807 và kết thúc vào năm 1809. Các cuộc điều tra đã phát hiện khoảng 250 sĩ quan có tội "làm ô danh quân phục". Các cáo buộc chính dường như xoay quanh sự hèn nhát, bất tài và bỏ bê nhiệm vụ, đặc biệt trong các trường hợp đầu hàng pháo đài mà không có sự kháng cự thích đáng hoặc không chỉ huy quân đội hiệu quả trong trận chiến .
Kết thúc các phiên tòa , trong số 142 tướng lĩnh và 885 sĩ quan cao cấp trong chiến dịch 1806-1807 có 17 tướng và 50 sĩ quan bị giáng chức , 86 tướng và 584 sỹ quan buộc rời ngũ trong danh dự . Chỉ còn lại đúng 22 tướng và 185 sĩ quan được ở lại vị trí của mình. 7 sĩ quan cấp cao bị tuyên án tử hình vì đã đầu hàng các pháo đài quá sớm , nhưng Quốc Vương đã giảm án cho những người này xuống tù chung thân . Chỉ có mình Blücher là được tha bổng , dù ông cũng cho đầu hàng một pháo hàng . Trong số 6069 Hạ sĩ quan thì chỉ 1584 được ở lại ngũ , 3924 tự nguyện rời ngũ và số còn lại bị buộc phải rời quân đội .
Trong số những người bị điều tra có Đại tá Massenbach , cha đẻ de jure của Bộ Tổng Tham mưu Phổ . Trong hàng ngũ có nhiều người đã làm chứng để tố cáo Massenbach , một phần bởi vì ông này là một người cuồng Pháp , tuy nhiên Công tước Hohenlohe lại nhận hết toàn bộ trách nhiệm về phần mình , vì thế mà cuối cùng Massenbach không bị kết án . Massenbach bị loại khỏi hàng ngũ quân đội và không được nhận lương hưu , tuy nhiên sự việc sẽ dừng lại ở đó nếu ông không tiếp tục công khai chỉ trích người khác và xuất bản sách có nội dung chống chính quyền . Về sau ông cho xuất bản hồi ký chiến tranh năm 1808-1809 với nội dung chống Phổ, khiến cuốn sách này bị cấm và buộc tiêu hủy. Massenbach sau đó cũng xin lỗi Quốc vương Phổ. Năm 1813 , Massenbach xin được trở lại ngũ để tham gia chiến tranh giải phóng nhưng bị từ chối vì lí do chính trị . Ông quay về quê hương của mình là Vương quốc Württemberg vào năm 1816, tham gia chính trường nhưng nhanh chóng bị trục xuất vì ủng hộ chủ nghĩa cộng hòa quá thẳng thắn. Ông chuyển đến Frankfurt và tiếp tục hoạt động chính trị. Tới năm 1817 thì bị bắt ở Frankfurt, dẫn độ về Phổ và bị xét xử vì tiết lộ bí mật nhà nước, bao gồm trách nhiệm trong vụ đầu hàng ở Prenzlau. Cuối cùng Massenbach cũng bị kết tội, bị giáng cấp và phạt 14 năm tù. Ông tiếp tục viết trong tù nhưng không được xuất bản. Ông được Friedrich Wilhelm III ân xá năm 1826 và qua đời năm 1827 tại điền trang Bialokosz.
Charles William Ferdinand, Công tước xứ Braunschweig bị thương nặng trong trận Auerstedt vào ngày 14 tháng 10 năm 1806 và qua đời vào ngày 10 tháng 11 năm 1806 . Do đó, ông không sống để đối mặt với bất kỳ cuộc điều tra hay tòa án binh nào sau thất bại. Friedrich Ludwig, Công tước xứ Hohenlohe-Ingelfingen làm tù binh ở Pháp 2 năm rồi sau đó được trả về Phổ . Mặc dù có những cuộc điều tra về các vụ đầu hàng, bao gồm cả vụ của ông như đã đề cập trước đó thì ông đã nhận trách nhiệm cho cả Đại tá Massenbach ,nhưng ông lại không bị kết án . Ernst von Rüchel chỉ huy một quân đoàn tại trận Jena và cũng bị thương nặng trong trận chiến đó nên may mắn không bị điều tra . Sau khi bình phục, ông rời ngũ và được nhận 2500 thaler mỗi năm làm lương hưu .
Sau Hiệp ước Tilsit năm 1807, Phổ mất đi gần một nửa lãnh thổ, phải trả một khoản bồi thường chiến phí khổng lồ và bị hạn chế nghiêm ngặt về quy mô quân đội . Cú sốc này đã buộc giới tinh hoa Phổ phải nhìn nhận lại toàn bộ cấu trúc quốc gia. Chính từ tro tàn của thất bại này thì một sự kiện sẽ làm thay đổi lịch sử của Phổ nói riêng và của Đức nói chung - đó là cuộc Cải cách Stein-Hardenberg . Đây không chỉ là một cuộc cải cách quân sự đơn thuần mà là một cuộc cải cách toàn diện về hành chính và xã hội .
Cuộc cải cách này không phải là công trình của một cá nhân mà là nỗ lực chung của một nhóm các nhà cải cách , được sự ủng hộ một cách miễn cưỡng bởi Quốc vương Friedrich Wilhelm III và Hoàng hậu Louise . 2 nhân vật quan trọng nhất trong cuộc cải cách này chính là Stein và Hardenberg .
-Heinrich Friedrich Karl vom und zum Stein (1757-1831): Là Bộ trưởng tài chính rồi sau đó là Thủ tướng (Leitender Minister), Stein là kiến trúc sư chính của các cải cách hành chính và xã hội. Ông tin rằng việc giải phóng nông dân khỏi sự kiểm soát của các quý tộc Junker và hiện đại hóa chính quyền là nền tảng cho sức mạnh quốc gia.
-Karl August von Hardenberg (1750-1822): Kế nhiệm Stein, Hardenberg tiếp tục và mở rộng các cải cách, đặc biệt là về kinh tế và tài chính. Ông là người ủng hộ mạnh mẽ nguyên tắc tự do kinh tế và quyền bình đẳng giữa các công dân.
Các chính sách cải cách được tiến hành trên nhiều lĩnh vực, đan xen và bổ trợ cho nhau: Đầu tiên là cuộc cải cách Xã hội gồm các việc :
-Giải phóng nông nô (Bauernbefreiung - 1807): Đây là một trong những cải cách mang tính cách mạng nhất. Sắc lệnh tháng 10 năm 1807 chính thức bãi bỏ chế độ nông nô ở Phổ, cho phép nông dân tự do di chuyển, kết hôn và sở hữu đất đai. Tuy nhiên, quá trình này cần thời gian và thường yêu cầu nông dân phải trả tiền mua đất cho chủ đất khi ấy là quý tộc Junker . Nhưng khi ấy thì bản thân giới Junker ở Phổ cũng đã rất nghèo , nhiều dòng họ Junker đã buộc phải bán hết đất đai , tài sản cuối cùng của họ còn lại vài căn biệt thự .
-Tự do thương mại (Gewerbefreiheit): Các quy định hạn chế đối với thương mại và nghề nghiệp như hệ thống phường hội được nới lỏng hoặc bãi bỏ, để mở đường cho việc xây dựng kinh tế thị trường. Kể từ sau cải cách thì kinh tế của Phổ liền lập tức tăng vọt , nếu như trước khi cải cách thì mức thu ngân sách nhà nước chỉ vào khoảng 20 triệu thaler mỗi năm thì đến thập niên 1860, thu ngân sách của Phổ đạt 120 triệu thaler, gấp 6 lần trước cải cách, trong khi cùng thời Áo chỉ thu được khoảng 94 triệu gulden, tương đương 63 triệu thaler – tức chỉ bằng một nửa của Phổ. Về công nghiệp, Phổ sản xuất hơn 800.000 tấn gang thép mỗi năm, trong khi Áo chỉ đạt khoảng 150.000 tấn. Mạng lưới đường sắt của Phổ dài hơn 11.000 km, vượt xa 7.000 km của Áo, phản ánh trình độ cơ sở hạ tầng hiện đại hơn hẳn. Xuất khẩu hàng năm của Phổ đạt 200 triệu thaler, trong khi của Áo chỉ khoảng 160 triệu gulden, tương đương 107 triệu thaler – thấp hơn gần 50%. Chỉ trong vòng 60 năm , Phổ đã vươn lên trở thành bang quốc có tiềm lực mạnh nhất Liên Bang Đức với dân số đông và nền sản xuất công nghiệp chiếm tới 70% tổng sản lượng của Liên Bang .
-Quyền công dân: Về lý thuyết, các đặc quyền dựa trên dòng dõi quý tộc bị giảm bớt. Mọi công dân, bất kể xuất thân, đều có quyền được tham gia vào các ngành nghề và phục vụ trong quân đội dựa trên năng lực. Tuy nhiên trên thực tế thì tình trạng con ông cháu cha lẫn uy thế xã hội vẫn tiếp diễn cho tới tận Thế chiến I.
Hệ thống hành chính được sắp xếp lại, tập trung quyền lực vào chính phủ trung ương và các bộ ngành, giảm bớt quyền tự trị của giới quý tộc địa phương (biến các bang quốc thành các tỉnh) .Thành lập Hội đồng Nhà nước (Staatsrat): Một cơ quan tư vấn mới được thành lập để hỗ trợ Quốc vương và nội các trong việc hoạch định chính sách.
Cuộc cải cách quân sự (Heeresreformen) chính là một phần của Cải cách Stein-Hardenberg , dựa trên nền tảng của các cuộc cải cách về xã hội . Hội đồng cải cách quân sự (Militär-Reorganisationskommision) đã được lập ra gồm những sĩ quan hàng đầu của phe cải cách như Schanhorst , Gneissenau , Boyen , Grolmann .
Hai nội dung cải cách đáng chú ý nhất là :
- Hệ thống Tham Mưu của Schanhorst cùng Học viện chiến tranh
- Chế độ quân dịch toàn quốc bắt buộc (thường được gọi là hệ thống Krümper và hệ thống Landwehr) , học hỏi từ hệ thống Leveé en masse từ cách mạng Pháp .
Từ nền tảng của chính sách giải phóng nông nô thì các nhà cải cách quân sự mới có thể đưa vào áp dụng chế độ quân dịch toàn quốc bắt buộc . Một Thần dân Phổ vốn là chỉ một người nông dân dưới quyền quý tộc Junker nay đã trở thành một Công dân Phổ với quyền sở hữu đất , chính vì thế giờ đây anh ta phải có nghĩa vụ tham gia quân đội để bảo vệ đất nước của mình . Cũng chính vì việc nhà binh là nghĩa vụ của các công dân , nên những hình phạt đòn roi nổi tiếng của quân đội Phổ giờ đây đã bị loại bỏ hoàn toàn . Quân đội giờ đây trở thành một trường học của toàn quốc , khi toàn bộ nam giới đến tuổi đều được gọi vào ngũ để được huấn luyện các kỹ năng chiến đấu và bộ não của đội quân đông đảo ấy chính là hệ thống tham mưu chiến trường .
Chính vì những quan điểm này, phe bảo thủ đã tỏ ra đặc biệt thù địch với đề xuất thành lập Bộ Tổng Tham mưu của Scharnhorst. Đối với những người này, kế hoạch của Scharnhorst phản ánh sự ưu ái đối với một loại hình giáo dục và văn hóa tự do mới khiến các sĩ quan Phổ thuộc trường phái cũ cảm thấy khó chịu. Hơn nữa, giới Junker Pommern kịch liệt phản đối việc áp dụng chế độ quân dịch toàn quốc , trong mắt họ thì việc vũ trang cho các thần dân sẽ dẫn đến một cuộc cách mạng, và nhìn chung quan điểm này cũng tồn tại trong tư tưởng của Quốc vương . Scharnhorst và Gneisenau thậm chí còn bị gắn mác là " bọn Jacobins" (''Jaconbins'' là tên gọi của các thành phần cực đoan trong Cách mạng Pháp). Trên thực tế thì Scharnhorst không phải là một người cấp tiến cực đoan , lấy ví dụ khi Hardenberg muốn áp dụng ý tưởng về việc cho các binh sĩ bầu chọn hạ sĩ quan của mình thì Scharnhorst đã phản đối điều này vì cho rằng chúng sẽ làm mất tinh thần kỷ luật nhà binh .
Trong bản thiết kế của mình cho lực lượng vũ trang toàn mới , Scharnhorst đã hình dung một bức tranh gần với thực tế cuối cùng hơn bất kỳ đối thủ nào. Kế hoạch của Scharnhorst là thành lập một "Bộ Tổng Tham mưu Lục quân" với bốn cục (Abteilung) . Một cục phụ trách chiến lược và chiến thuật, một cục cho các vấn đề hành chính nội bộ, một cục về vấn đề tăng cường lực lượng, và một cục về pháo binh và đạn dược. Các ban tham mưu cấp sư đoàn cũng sẽ được tổ chức tương tự với bốn cục . Đây chính là khung xương cơ bản của hệ thống tham mưu chiến trường mà sau này Bộ Tổng Tham mưu huyền thoại sẽ được tổ chức . "Phòng Bản đồ Hoàng gia" chịu trách nhiệm về việc lập các bản đồ quân sự sẽ được đặt dưới quyền của Bộ Tổng Quân nhu. Cơ quan quân sự cao nhất được dự kiến là Bộ Chiến tranh (Kriegsministerium) . Cơ quan này sẽ quản lí cả Bộ Tổng Quân nhu và Phòng Phó tướng . Bộ Chiến tranh được chia thành 2 Bộ phận (Abteilung) , Bộ phận thứ nhất đứng đầu bởi Scharnhorst chịu trách nhiệm về quân luật và chỉ huy quân đội , Bộ phận thứ hai chịu trách nhiệm về quản lí và kinh tế . Bộ phận thứ nhất được chia làm 3 Cục (Division) , Cục thứ nhất là Phòng Phó tướng đứng đầu bởi Grolman , Cục thứ hai là Bộ Tổng Quân nhu đứng đầu bởi Boyen và Cục thứ ba chịu trách nhiệm về vấn đề kỹ thuật đứng đầu bởi Gneisenau . Bộ trưởng Chiến tranh khi ấy là Bá tước Lottum , một nhân vật thân cận với Quốc vương .
Bởi vì Phổ khi ấy bị cấm thành lập các sư đoàn , cũng vì bởi gánh nặng tài chính nên các nhà cải cách tạm thời tổ chức các ''Lữ đoàn'' , vào thời chiến thì các ''Lữ đoàn'' này có thể nhanh chóng mở rộng thành sư đoàn . Mỗi một tỉnh đều có 1 ''Lữ đoàn'' và hỗ trợ cho các chỉ huy lữ đoàn là một ban tham mưu gồm các sĩ quan từ Bộ Tổng Quân nhu . Trong Chiến tranh giải phóng 1813-1815 thì trên chiến trường , mỗi quân đoàn , sư đoàn đều có một ban tham mưu cho mình . Đây chính là hệ thống tham mưu chiến trường (Truppengeneralstab) mà Scharnhorst đã ấp ủ từ lâu . Việc tổ chức hệ thống cố vấn quân sự thành một cơ quan trung ương (Bộ Tổng Quân nhu) và các cơ quan tác chiến ngoài chiến trường (Truppengeneralstab) là điều chưa từng có trong lịch sử .
Đội ngũ sĩ quan tham mưu được đào tạo bởi Scharnhorst hoàn toàn khác với lực lượng sĩ quan chính quy , thậm chí họ còn có cả quân phục riêng . Để làm việc trong các vị trí tham mưu thì một người sĩ quan sẽ phải thi đậu và trải qua 3 năm đào tạo tại ,,Trường chiến tranh đại cương’’ (Allgemeine Kriegsschule) - tiền thân của ,,Học viện chiến tranh’’ (Kriegsakademie) . Tham mưu trưởng có toàn quyền lựa chọn các sĩ quan xuất sắc trong trường để đưa vào các vị trí tham mưu trong ngũ , hiệu trưởng đầu tiên của trường là Clausewitz . Clausewitz - người là ai cũng biết là ai chính là vị học trò ưu ái nhất của Scharnhorst chính vì thế mà ông đã giao một nhiệm vụ quan trọng cho Clausewitz , đó là ''Hãy gieo hạt cho một cây non mới, để rồi trái ngọt của nó sẽ chín mọng với sức sống và sinh lực mới.”
Khác với các sĩ quan chính quy thì việc tuyển chọn đào tạo sĩ quan tham mưu không dựa theo uy thế xã hội vào dựa theo năng lực và trình độ học vấn của người được xét đến , ví dụ Thượng tướng kỵ binh Karl von Reyher-tổng tham mưu trưởng quân đội Phổ 1848-1857 có xuất thân từ hàng thường dân . Tuy nhiên như đã đề cập thì thực tế tình trạng con ông cháu cha lẫn uy thế xã hội vẫn tiếp diễn cho tới tận Thế chiến I nên về sau các sĩ quan quý tộc vẫn được ưu tiên lựa chọn để được đào tạo làm sĩ quan tham mưu hơn .
Ngay từ thời điểm mới cải cách thì giữa các sĩ quan tham mưu Phổ đã có một quy tắc ngầm , đó là sĩ quan tham mưu sẽ cống hiến âm thầm ở sau lưng người chỉ huy . Bản thân Scharnhorst và Gneissenau cũng tuân theo quy tắc này , chính vì thế mà sau chiến tranh giải phóng thì người ta chỉ nhớ đến các Blücher , Yorck , Kleist , Bülow , Tauentzient chứ có rất ít ai biết đến Scharnhorst , Gneissenau , Grolman , Boyen , Zielinsky và Reiterburg . Tuy nhiên trong lịch sử thì cũng có một vài ngoại lệ :
Trận Tannenberg, diễn ra từ ngày 26 đến 30 tháng 8 năm 1914, là một chiến thắng quan trọng tại Mặt trận phía Đông của Đức . Khi ấy , Nga triển khai hai tập đoàn quân tạo thế gọng kìm tràn vào Đông Phổ . Tuy nhiên, dưới sự chỉ huy của Paul von Hindenburg và Erich Ludendorff, Tập đoàn quân 8 đã hành động táo bạo. Sau trận này ,khoảng 92.000 lính Nga bị bắt, 30.000 người bị g. iết hoặc bị thương, Tướng Samsonov t. ự s. át. Chiến thắng này đã ngay lập tức đưa Hindenburg trở thành một huyền thoại sống, một biểu tượng của sự kiên cường và tài năng quân sự Đức. Ông được ca ngợi là "Cứu nhân Đông Phổ'' . Điều này đã khiến Ludendorff - tham mưu trưởng của Hindenburg cảm thấy khó chịu ở trong lòng , bởi trên thực tế thì phần lớn các kế hoạch đều được vạch ra bởi Ludendorff . Ít lâu sau trận đánh thì Ludendorff đã bị người khác nghe thấy mình nói rằng : ''Khi TÔI đánh thắng trận Tannenberg…''
Để tránh trường hợp của Đại tá Massenbach tái diễn thì Gneissenau đã đưa vào áp dụng hệ thống ‘’trách nhiệm đôi’’ , theo đó thì tư lệnh sẽ phải chịu trách nhiệm cho mệnh lệnh của mình và tham mưu trưởng sẽ phải chịu trách nhiệm về lời khuyên của mình cho tư lệnh .
Khi Phổ ra quân chống lại Napoléon vào năm 1813, Scharnhorst đã giữ chức Tham Mưu trưởng của Blücher và là cố vấn quân sự cho Quốc vương . Hệ Thống Tham mưu chiến trường của ông đã làm thay đổi hoàn toàn triết lý chỉ huy của quân đội. Mỗi chỉ huy cấp tập đoàn quân , quân đoàn và sư đoàn đều có một nhóm sĩ quan tham mưu nhỏ do chính Scharnhorst tuyển chọn kỹ lưỡng, nhằm hỗ trợ công tác chỉ huy cũng như hoạch định và thực thi các chiến dịch , đứng đầu nhóm sĩ quan này là một tham mưu trưởng . Những Tham mưu trưởng này thường được các chỉ huy đón nhận nồng nhiệt và tích cực tham khảo ý kiến, dần trở thành một dạng “bản ngã thứ hai” của người chỉ huy. Scharnhorst đã khai sinh một triết lý chỉ huy hoàn toàn mới cho quân đội Phổ – một “cuộc hôn phối quân sự” giữa viên tướng chỉ huy và người Tham mưu trưởng đã được đào tạo bài bản, ưu tú và có học thức cao.
Tuy nhiên, Scharnhorst đã không kịp tận mắt chứng kiến thành quả từ những cải cách quân sự mà ông đã dày công xây dựng. Vào ngày 2 tháng 5 năm 1813, trong trận Lützen – trận đánh lớn đầu tiên trong chiến dịch mùa xuân – ông đã bị thương bởi một mảnh đạn pháo trong khi đang hộ tống Thái tử Nga. Ban đầu, vết thương không được cho là nguy hiểm đến tính mạng, nhưng sau đó thì ông đã nhiễm trùng nặng. Dù được đưa về Prag để điều trị, tình trạng của ông xấu đi nhanh chóng. Sau hơn hai tháng chống chọi, Scharnhorst qua đời vào ngày 28 tháng 6 năm 1813, hưởng dương 57 tuổi .
3.Đỉnh cao
Cuộc cải cách Stein-Hardenberg nói chung và cuộc cải tổ quân sự nói riêng đã hoàn thành sau khi Chiến tranh giải phóng kết thúc . Vào năm 1817 thì Cục II - Bộ Tổng Quân nhu chính thức được đổi tên thành ''Bộ Tổng Tham mưu'' - (Generalstab) . Bộ Tổng Tham mưu mới được tổ chức thành 3 Abteilung chịu trách nhiệm cho 3 hướng chiến trường và 1 Abteilung chuyên nghiên cứu lịch sử quân sự (Kriegsgeschichte) . Kể từ lúc này thì công việc nghiên cứu quân sử chính là một chức năng quan trọng của Bộ Tổng Tham mưu Phổ , nhằm 2 mục đích chính : đào tạo sĩ quan tham mưu và để lập kế hoạch chiến tranh .
Kết thúc nhiệm kỳ của các nhân vật cải cách thì kể từ khi Karl von Müffling trở thành Tổng Tham mưu trưởng vào ngày 11 tháng 1 năm 1821 , thì giới tinh hoa của Phổ lại một lần nữa có xu hướng đi ngược lại các giá trị tự do trong chiến tranh giải phóng . Sau khi Boyen và Grolman rút lui khỏi chính trường, chủ nghĩa tự do cũng mất đi chỗ đứng cuối cùng trong quân đội Phổ. Từ đó về sau, quân đội trở thành một tàn dư của thời kỳ chuyên chế, nằm ngoài ảnh hưởng của dư luận và không bị tác động bởi bất kỳ nguồn cảm hứng hay lý tưởng tinh thần nào xuất phát từ chính các công dân. Điều đặc biệt có ý nghĩa là trong những năm sau này, mục tiêu then chốt của mọi nỗ lực cải cách theo khuynh hướng tự do tại Phổ chính là giành quyền kiểm soát quân đội và ngân sách của nó. Tuy nhiên, với tư tưởng Phổ, việc đặt một bộ trưởng chiến tranh dân sự theo mô hình Anh bị xem như một sự báng bổ. Quân đội của Quốc vương chỉ có thể được điều hành bởi chính các sĩ quan – một tín điều được bảo vệ một cách kiên định cho đến tận cách mạng năm 1918. Về vai trò và vị trí của quân đội trong xã hội, Boyen và Grolman là những người cuối cùng còn mang tinh thần lý tưởng của các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Cùng lúc, tầng lớp trí thức Phổ dần chia thành hai khối: một theo khuynh hướng tự do mơ hồ, một thiên về bảo thủ. Dần dần, chủ nghĩa tự do bị gắn với quan điểm thiên về chủ nghĩa dân tộc Đức và chống lại mô hình quân chủ chuyên chế Phổ. Việc tầng lớp tư sản mới nổi phần lớn theo khuynh hướng tự do đã khiến khía cạnh kinh tế của chủ nghĩa tự do bị nhấn mạnh quá mức. Đến thời Bismarck, nhóm tự do dân tộc đặt nặng chính sách đối ngoại bành trướng hơn là những lý tưởng dân quyền của các nhà cách mạng từ năm 1848. Trong quân đội, lớp sĩ quan có tư tưởng cấp tiến – những “Jacobins” của thời kỳ đầu – dần biến mất. Chỉ còn một vài cá nhân lẻ loi trong cuộc cách mạng 1848 còn đồng cảm với các lý tưởng lớn của thời đại. Như vậy ngay trước Cách mạng năm 1848 thì quân đội Phổ đã trở thành một biểu tượng ''phản động'' .
Sau cuộc cách mạng 1848, Otto von Bismarck nhanh chóng nổi lên như một biểu tượng của phe phản cách mạng, quyết tâm khôi phục trật tự quân chủ và dập tắt mọi xu hướng tự do. Với tài thao lược chính trị, ông đã sử dụng cả ngoại giao lẫn vũ lực để cô lập phe cách mạng và củng cố quyền lực của nhà Hohenzollern , đặc biệt bằng cách liên minh với quân đội. Khi lên nắm quyền Thủ tướng năm 1862, Bismarck cải tổ hệ thống chính trị theo hướng chuyên chế hợp hiến, dùng khẩu hiệu "sắt và máu" để tái xác lập vai trò trung tâm của quân đội trong đời sống quốc gia. Bismarck không can thiệp sâu vào cơ cấu quân sự, nhưng ông trao cho Bộ Tổng tham mưu quyền hoạch định và điều hành chiến tranh gần như tuyệt đối.
Helmuth von Moltke sinh ngày 26 tháng 10 năm 1800 tại Công quốc Mecklenburg-Schwerin . Dù thuộc tầng lớp quý tộc nhưng gia đình của ông đã trở nên nghèo khó sau Chiến tranh Liên minh thứ tư 1806-1807 . Moltke gia nhập Quân đội Hoàng gia Đan Mạch vào năm 12 tuổi , tới năm 21 tuổi thì ông đã được thăng hàm Thiếu úy , phục vụ cho Trung đoàn Bộ binh Oldenburg . Nhận thấy cơ hội thăng tiến sự nghiệp ở Đan Mạch không cao , Moltke đã tham gia Quân đội Hoàng gia Phổ vào năm 1821 . Nhờ năng lực xuất sắc của mình mà Moltke đã được nhận vào học tại Kriegsakademie tại Berlin vào năm 1823 . Đó là vài dòng ngắn về xuất thân của người học trò xuất sắc nhất của Clausewitz .
Moltke được Quốc vương bổ nhiệm làm Tổng Tham mưu trưởng vào ngày 7 tháng 10 năm 1857 theo đề xuất của Thiếu tướng von Manteuffel . Một trong những đổi mới lớn nhất của Moltke là áp dụng hệ thống đường sắt và điện báo vào chiến lược quân sự – biến hậu cần và liên lạc thành yếu tố chiến thắng then chốt. Dưới thời ông, Bộ Tổng Tham mưu thiết lập các kế hoạch huy động và vận chuyển quân chi tiết đến từng ngày, nhờ đó tạo ra lợi thế lớn về tốc độ và bất ngờ trong các cuộc chiến. Moltke cũng thay đổi triết lý chỉ huy chiến tranh: thay vì đưa ra những mệnh lệnh từ trung ương, ông phát triển nguyên tắc sự linh hoạt tận dụng sự chủ động của các chỉ huy cấp dưới .
''Selbständigkeit der Unterführer'' , tới thập niên 1890 thì được rút gọn bằng khái niệm ''Auftragstaktik' – trong đó các tướng lĩnh cấp dưới được trao quyền tự do hành động để đạt mục tiêu đã định , miễn là nằm trong giới hạn được đưa ra bởi các chỉ thị . Đây là một bước tiến vượt bậc trong tư duy tác chiến, phản ánh niềm tin của Moltke vào tính linh hoạt, sáng tạo và chủ động của sĩ quan cấp dưới trong môi trường chiến trường liên tục biến động linh hoạt.
“Không kế hoạch tác chiến nào sống sót sau lần chạm trán với chủ lực của địch,” chính là câu nói nổi tiếng nhất của Moltke.
Vào ngày 2 tháng 6 năm 1866 Quốc Vương Wilhelm I đã gia tăng quyền lực của Bộ Tổng Tham Mưu bằng một sắc lệnh khi đó vị Tổng Tham mưu trưởng sẽ không những có vai trò tham mưu cho vị quốc chủ mà còn được quyền chỉ huy dưới danh nghĩa Quốc Vương khi ông vắng mặt .
Sau những chiến thắng vang dội của Phổ trong thập niên 1860–1870 đưa nước này trở thành bá chủ Đế chế Đức thì Bộ Tổng Tham mưu Phổ bước lên đỉnh cao danh vọng như biểu tượng tối thượng của sức mạnh quân sự hiện đại. Cách mà cơ quan này đã triển khai các kế hoạch vận chuyển bằng đường sắt, điện báo, cùng năng lực lập kế hoạch chính xác đến từng giờ đã khiến cả thế giới sửng sốt. Trên chiến tường quân đội Phổ liên tục giành thắng lợi nhờ tốc độ, tổ chức và khả năng ra đòn đúng thời điểm – tất cả đều bắt nguồn từ bàn tay vô hình của hệ thống tham mưu chiến trường cùng Bộ Tổng Tham mưu của Moltke.
Chính vì vậy, sau chiến tranh Pháp–Phổ, đã nổi lên một làn sóng copy quân đội Phổ nói riêng và Bộ Tổng Tham mưu Phổ nói chung trên khắp thế giới. Pháp, thất bại nhục nhã, là quốc gia đầu tiên cải tổ triệt để, đã thành lập Bộ Tổng Tham mưu Lục quân (État-major des armées)vào thập niên 1880 . Nga thành lập Bộ Tổng Tham mưu theo kiểu của Phổ vào năm 1905 dưới tên gọi Tổng Cục Tham mưu (Главное управление Генерального штаба) . Hoa Kỳ, sau khi chứng kiến Chiến tranh Pháp–Phổ và được nhiều cựu sĩ quan từng phục vụ trong Nội chiến khuyến nghị, đã mời các sĩ quan Phổ sang giảng dạy và sau đó thành lập Trường Chỉ huy và Tham mưu tại Fort Leavenworth vào năm 1881, chính thức áp dụng tư duy tác chiến kiểu Phổ.
Tại Nhật Bản kể từ thập niên 1880s thì họ mời các phái đoàn quân sự Đức sang cố vấn; Bộ Tổng Tham mưu Lục quân Nhật Bản được xây dựng gần như là bản sao của Phổ – từ cách tuyển chọn sĩ quan, đào tạo chiến lược đến hệ thống chỉ huy trên chiến trường . Thậm chí, các tướng Nhật trong chiến tranh Nga–Nhật (1904–1905) như Nogi Maresuke đều chịu ảnh hưởng sâu đậm từ tư duy kiểu Moltke.
Đế chế Ottoman, giữa cơn khủng hoảng hiện đại hóa, cũng thuê các phái đoàn quân sự của Phổ sang giúp tổ chức lại quân đội, trong đó nhiệm vụ đầu tiên là thành lập một cơ quan tham mưu trung ương theo mẫu Phổ. Nhiều quốc gia Balkan và các nước Trung–Đông Âu như Romania, Bulgaria cũng gửi sĩ quan sang học tại Học viện Chiến tranh Berlin .
Làn sóng này đã lan rộng đến mức thuật ngữ "Hệ thống Tham mưu kiểu Đức" (German General Staff system) trở thành một chuẩn mực quốc tế về nghệ thuật điều hành chiến tranh. Dù không quốc gia nào có thể sao chép trọn vẹn cả tinh thần lẫn cơ cấu vận hành, thì hào quang của Bộ Tổng Tham mưu Phổ – như một biểu tượng cho sức mạnh kỹ trị, tổ chức hợp lý và chiến lược toàn diện – vẫn để lại dấu ấn lâu dài trong toàn bộ tư duy quân sự thế giới cho đến tận Thế chiến 2.
5.Suy tàn
Sau Chiến tranh Pháp-Phổ 1870-71 , Bộ Tổng Tham mưu của Phổ chính thức có tên gọi là Đại Tham mưu - Großer Generalstab , để chỉ quyền lực của cơ quan này cao hơn so với các cơ quan tham mưu trung ương của Bayern , Sachsen và Württemberg .
Trong suốt Thế chiến thứ nhất, Đại Tham mưu không còn đơn thuần là một cơ quan quân sự chiến lược mà đã tiến hóa thành một trung tâm quyền lực chính trị, điều hành toàn bộ bộ máy chiến tranh và thậm chí lấn át cả cơ cấu nhà nước truyền thống của Đế chế Đức. Bộ máy này vốn hình thành từ thế kỷ 19 như một tổ chức tinh hoa mang tính chuyên môn cao, được xây dựng để hoạch định chiến tranh theo các nguyên tắc khoa học, nhưng đến năm 1914, nó đã trở thành một "nhà nước trong nhà nước", hoạt động gần như độc lập khỏi nền chính trị dân sự và đi ngược lại với các quy tắc của các nhà cải cách thời chiến tranh giải phóng .
Khi chiến tranh nổ ra, quyền lực vẫn còn tương đối phân tán: Hoàng đế Wilhelm II trên danh nghĩa là Tổng tư lệnh tối cao toàn Đức , còn Đại Tham mưu do Helmuth von Moltke (cháu) đứng đầu. Tuy nhiên, ngay từ đầu, vai trò của Hoàng đế đã tỏ ra mang tính hình thức: Wilhelm không phải là người có kinh nghiệm quân sự , thường dễ bị ảnh hưởng bởi ý kiến người khác và thiếu khả năng kiểm soát các cơ quan chuyên môn nên ông đã để cho Moltke hoàn toàn tự do hành động. Ngoài mặt trận , Đại Tham mưu nhân danh Hoàng đế để ban hành mệnh lệnh, nhưng vì quy mô chiến trường quá lớn (lúc này chưa có Cụm Tập đoàn quân) nên họ cũng đành phải để cho các tập đoàn quân tự do hành động . Thất bại trong trận sông Marne tháng 9 năm 1914 đã khiến Moltke bị cách chức không lâu sau đó, nhường vị trí cho Erich von Falkenhayn, người có chủ trương chiến tranh tiêu hao. Dưới thời ông, chiến trường Verdun trở thành biểu tượng cho sự tàn khốc và bất lực chiến lược: hơn 700.000 người thương vong, nhưng không bên nào đạt được thắng lợi dứt điểm.
Bước ngoặt thật sự đến vào tháng 8 năm 1916 khi bộ đôi Paul von Hindenburg và Erich Ludendorff được gọi đến từ Mặt trận phía Đông . Cũng giống như từ trước thì Hindenburg chỉ là Tổng Tham mưu trưởng trên danh nghĩa còn Ludendorff mới là người điều hành hết mọi công việc ở đằng sau . Dưới bộ đôi này, Đại Tham mưu Đức không còn chỉ vạch ra kế hoạch chiến tranh, mà bắt đầu kiểm soát cả nền kinh tế, ngoại giao và hành chính dân sự. Điều này một phần cũng là bởi sau Chiến dịch sông Somme thì cả Thủ tướng Bethmann-Hollweg cũng đã bị thất sủng cùng với Falkenhayn .
Kể từ thời điểm đó, nước Đức bước vào một thời kỳ mà sau này được gọi là chế độ độc tài thầm lặng (Stille Diktatur) của bộ đôi Hindenburg-Ludendorff . Quốc hội Đức gần như không có tiếng nói trong việc giám sát ngân sách quân sự hoặc kế hoạch tác chiến – vai trò của các đảng phái chính trị hoàn toàn mờ nhạt. Đáng chú ý, chính Hoàng đế Wilhelm II – người từng được xem là hiện thân của nhà nước chuyên chế Phổ – lại bị Đại Tham mưu gạt ra ngoài rìa. Dưới thời Ludendorff, ông chỉ còn vai trò tượng trưng, bị ép phải ký duyệt các sắc lệnh và nghị quyết đã được chuẩn bị sẵn. Thậm chí trong nhiều trường hợp, Hoàng đế không được tham vấn thực chất về các quyết định tối quan trọng như bàn về các kế hoạch chiến dịch, điều động nguồn lực hay thay đổi chiến lược. Đại Tham mưu khi ấy đã trở thành cơ quan quyền lực chính trị cao nhất de facto trong khi vẫn bảo lưu tính hợp pháp thông qua danh nghĩa của Hoàng đế.
Mọi nguồn lực của quốc gia – nhân lực, vật lực, lương thực, công nghiệp – đều được tổ chức, điều động và khai thác theo một kế hoạch quân sự hóa toàn diện, do cơ quan này hoạch định.
Trọng tâm của mô hình này là cái gọi là "Kế hoạch Hindenburg" (Hindenburg-Programm), được ban hành vào cuối năm 1916. Mục tiêu chính của kế hoạch là nhằm kiểm soát nền kinh tế để tăng gấp đôi sản lượng vũ khí, đạn dược và thiết bị quân sự trong thời gian ngắn nhất có thể, để chuẩn bị cho một chiến dịch quyết định trong năm 1917. Để thực hiện điều đó, Bộ Tổng Tham mưu tái cấu trúc toàn bộ nền kinh tế theo hướng kế hoạch hóa tập trung: các nhà máy dân sự được chuyển đổi sang sản xuất quân dụng, các ngành công nghiệp được phân loại theo mức độ "thiết yếu chiến tranh", và các tập đoàn công nghiệp lớn – như Krupp, Thyssen, IG Farben – bị buộc phải sản xuất hàng hóa theo chỉ tiêu được đặt ra bởi phòng kinh tế của Đại Tham mưu. Việc phân phối nguyên liệu thô như than, sắt, cao su, đồng… đều được kiểm soát bởi các “Cục chỉ huy vật tư” (Kriegsrohstoffabteilungen).
Đại Tham mưu ngoài ra cũng kiểm soát nghiêm ngặt thị trường tiêu dùng: áp dụng chế độ tem phiếu, kiểm duyệt giá cả, và giới hạn các mặt hàng xa xỉ để tập trung mọi tài nguyên cho chiến tranh. Việc lập kế hoạch sản xuất không thông qua bất kì cơ quan dân sự nào mà được thực bởi Phòng Chiến tranh -Kriegsamt , phòng này phải báo cáo trực tiếp cho Ludendorff.
Thậm chí, cả chính sách ngoại thương và khai thác lãnh thổ cũng được quân sự hóa. Các vùng chiếm đóng như Bỉ, Bắc Pháp, Ba Lan và Ukraine không chỉ cung cấp lương thực và nguyên liệu, mà còn trở thành các “vùng khai thác chiến lược”, được điều hành bởi các sĩ quan hậu cần như các thuộc địa kinh tế. Những quyết định như vậy không hề được Quốc hội Đức (Reichstag) thông qua, và các bộ trưởng dân sự chỉ đóng vai trò tượng trưng.
Chính vì quyền lực quá lớn tổ chức này, sự thiếu vắng các hệ thống kiểm soát dân sự và mô hình quyền lực tập trung tuyệt đối vào một nhóm sĩ quan tham mưu thì sau khi thua trận, hệ thống này bị các cường quốc Hiệp ước coi là nguồn gốc trực tiếp của chủ nghĩa quân phiệt Đức. Vì vậy, theo Hiệp ước Versailles năm 1919, Bộ Tổng Tham mưu Đức phải bị giải thể hoàn toàn, như một biểu tượng cần bị xóa bỏ để ngăn ngừa việc quân đội chiếm đoạt vai trò của nhà nước và xã hội.
Dù bị cấm , tuy nhiên, chỉ trong vòng vài năm sau chiến tranh, dưới sự lãnh đạo của Hans von Seeckt, vị tư lệnh tối cao của Reichswehr thì Đức lại bí mật khôi phục lại Bộ Tổng Tham mưu dưới hình thức ngụy trang . Thay vì công khai tái thành lập lại Bộ Tổng Tham mưu – điều bị cấm tuyệt đối bởi Versailles – Seeckt lập ra một bộ phận có chức năng tương tự mang tên "Truppenamt" (Phòng Binh Bộ) vào năm 1919. Dù trên danh nghĩa thì Truppenamt chỉ là một phòng hành chính nhỏ trực thuộc Bộ Quốc phòng, nhưng trên thực tế, thì cơ quan được tổ chức với đầy đủ các cục chức năng y hệt như Tổng Tham mưu cũ: từ tác chiến, hậu cần, huấn luyện, tổ chức quân lực đến nghiên cứu chiến lược. Nhân sự chủ chốt đều là cựu sĩ quan tham mưu giàu kinh nghiệm từ thời chiến, và Seeckt đích thân giám sát việc đào tạo một thế hệ sĩ quan trẻ tinh hoa – những người sau này sẽ trở thành nòng cốt của Wehrmacht .
Đến thời điểm Đảng NSDAP lên nắm quyền, cơ sở tổ chức và học thuyết do Seeckt gây dựng chính là nền tảng để Đức tiến hành tái vũ trang. Năm 1935, AH chính thức công bố thành lực lượng Wehrmacht, và cùng với đó là sự hồi sinh của một cơ quan tham mưu trung ương với tên gọi Bộ Chỉ huy Tối cao Lục quân - Oberkommando des Heeres .
Về cơ cấu, OKH được chia thành nhiều cục chuyên trách: tác chiến (Operationsabteilung), hậu cần, tình báo, tổ chức lực lượng – tất cả được dẫn dắt bởi các sĩ quan có nền tảng từ Truppenamt thời Seeckt. Trong khi đó, OKW được thành lập năm 1938 dưới quyền Wilhelm Keitel – chủ yếu đóng vai trò trung gian giữa AH và các cơ quan tham mưu của các quân chủng , nhưng về sau ngày càng mang tính chính trị và phục tùng AH trực tiếp, trong khi OKH lại dần dần trở thành con rối của OKW .
Sau khi nước Đức đầu hàng vô điều kiện vào tháng 5 năm 1945, Bộ Tư lệnh Lục quân Đức bị giải thể hoàn toàn cùng với toàn bộ cơ cấu tham mưu truyền thống của quân đội Đức. Nhiều sĩ quan tham mưu bị đưa ra Tòa án Nuremberg, nơi họ bị kết tội vì đã lên kế hoạch và chỉ đạo các cuộc chiến tranh xâm lược, vi phạm luật pháp quốc tế và tiếp tay cho các tội ác chiến tranh. Sau 2 cuộc đại chiến , các lực lượng chiếm đóng Đồng minh, đặc biệt là phía Anh và Mỹ, xem các truyền thống quân sự Phổ là biểu tượng của chủ nghĩa quân phiệt và nguồn gốc của hai cuộc thế chiến, nên kiên quyết loại bỏ nó vĩnh viễn.
Lấy ví dụ Quân đội Nhân dân Quốc gia Đông Đức (NVA) dù cố gắng giữ lại nhiều truyền thống của Phổ nhưng họ lại không tổ chức một Bộ Tổng Tham mưu kiểu Phổ vì lý do chính trị và ý thức hệ. Thay vào đó, NVA được tổ chức theo mô hình Xô viết, trong đó chức năng tham mưu không nằm trong một cơ quan độc lập quyền lực như mà thuộc về Bộ Quốc phòng (MfNV) với Cục Tác chiến là đơn vị đảm nhiệm công tác hoạch định quân sự. Quyền chỉ đạo chiến lược tối cao của NVA trên thực tế nằm trong tay Đảng Xã hội Thống nhất Đức (SED) và Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Liên Xô.
6.Hồi sinh
Tuy nhiên cần phải làm rõ cho người đọc , thứ bị cấm là Bộ Tổng Tham mưu (Großergeneralstab) chứ không phải là hệ thống tham mưu chiến trường (Truppengeneralstab) của Scharnhorst .
Ở Tây Đức thì Bundeswehr cũng bị các Đồng minh cấm không được tổ chức bất kì cơ quan nào có dính tới chữ ''Generalstab'' . Dẫu vậy thì Bundeswehr vẫn tổ chức một hệ thống tham mưu ở cả cấp trung ương và trên chiến trường . Thông qua sắc lệnh Heusinger-Erlass ban hành ngày 8 tháng 9 năm 1959, hệ thống “Ngạch tham mưu dã chiến trường” (Offizier im Generalstabsdienst - i. G.) được tổ chức một cách bài bản và nghiêm ngặt. Theo đó, các chức vụ tham mưu quan trọng bắt buộc phải do các sĩ quan đã tốt nghiệp khóa học sĩ quan tham mưu kéo dài hai năm tại Học viện Chỉ huy Bundeswehr ở Hamburg đảm nhiệm. Trong trường hợp đặc biệt, có thể tạm thời để tối đa 20% các vị trí này do sĩ quan chưa qua đào tạo đảm nhiệm.
Tổ chức này duy trì những nguyên tắc cốt lõi của Scharnhorst từ thời Phổ: lựa chọn sĩ quan ưu tú, đào tạo chuyên sâu, và phân công họ làm cố vấn chiến lược cho cấp chỉ huy. Theo quy định lục quân HDv 100/100 - phần quy định rõ vai trò trung tâm của các sĩ quan tham mưu trong quá trình ra quyết định.
Trước khi đưa ra bất kỳ quyết định nào, người chỉ huy có trách nhiệm tham khảo ý kiến của các sõ quan tham mưu. Các sĩ quan này không chỉ hỗ trợ kỹ thuật mà còn chịu trách nhiệm về tính chính xác của các khuyến nghị mà họ đưa ra. Nếu cần thiết, họ còn có quyền thúc giục người chỉ huy ra quyết định và hành động. Tuy nhiên, toàn bộ tư duy và hành động của họ phải được định hướng theo ý chí và mục tiêu của chỉ huy, và bị ràng buộc bởi quyết định và mệnh lệnh cuối cùng của ông ta. Sau khi quyết định được ban hành, họ phải trung thành tuyệt đối trong việc thực hiện. Đồng thời, người chỉ huy cũng được khuyến khích tham khảo ý kiến của các cấp dưới trực tiếp, nếu hoàn cảnh cho phép.
Các sĩ quan i. G. tác chiến ở cấp sư đoàn và lữ đoàn. Các lữ đoàn này thường có 2–4 sĩ quan tham mưu làm việc trong các vị trí như : G2 (tình báo đối phương), G3 (kế hoạch–tác chiến–huấn luyện), G4 (hậu cần), và một trưởng phòng tham mưu. Nếu không có trưởng phòng, sĩ quan G3 sẽ kiêm vai trò điều phối, giữ vị trí “primus inter pares” (người đứng đầu trong số các sĩ quan ngang hàng). Từ cấp sư đoàn trở lên, toàn bộ các bộ phận tham mưu (G1–G6) đều do các sĩ quan I. G. điều hành.
Về cơ quan tham mưu trung ương hiện nay của Đức thì đây là một vấn đề chính trị nhạy cảm . Vị trí quân sự cao nhất của Bundeswehr là Tổng Thanh tra Bundeswehr (Generalinspekteur der Bundeswehr) , đứng đầu Bộ Tư lệnh các Lực lượng Vũ trang - Führungsstab der Streitkräfte (Fü S) thuộc Bộ Quốc phòng Liên bang đứng đầu bởi một quan chức dân sự . Cho dù có khác biệt về tên gọi nhưng Bộ Tư lệnh các Lực lượng Vũ trang lại có các chức năng y hệt như Bộ Tổng Tham mưu của các chế độ cũ , như một hình thức lách luật . Chính khái niệm ''Generalinspekteur'' đã được đẻ ra để tránh phải dùng tới từ ''Generalstabschef'' .
Trước sắc lệnh Blankenese năm 1970 vai trò của Tổng Thanh tra Bundeswehr chủ yếu mang tính tư vấn, điều phối thay vì nắm quyền thực sự. Dù là sĩ quan cao cấp nhất trong quân đội, ông không có quyền chỉ huy trực tiếp; quyền đó thuộc về Bộ trưởng Quốc phòng, còn các Thanh tra trưởng của Lục quân, Không quân và Hải quân hoạt động gần như độc lập trong phạm vi binh chủng của mình. Hệ thống chỉ huy trung ương của Bundeswehr bị phân tán quyền lực , thiếu một trung tâm hoạch định quân sự liên quân chủng duy nhất, khiến cho việc lập kế hoạch và chỉ đạo chung gặp nhiều giới hạn. Tổng Thanh tra có trách nhiệm tư vấn cho lãnh đạo dân sự và phối hợp giữa các lực lượng, nhưng không được xem là người chịu trách nhiệm tổng thể cho toàn bộ hoạt động của Bundeswehr. Trật tự này phản ánh sự thận trọng của nhà nước Tây Đức hậu chiến, nhằm mục đích xóa bỏ những tư tưởng từ thời Phổ .
Kể từ sắc lệnh Blankenese năm 1970 do Bộ trưởng Quốc phòng Helmut Schmidt ký, vị trí và quyền hạn của Tổng Thanh tra Bundeswehr đã được chính thức xác lập với vai trò là người chịu trách nhiệm tổng thể về việc lập kế hoạch tác chiến cho Bộ Quốc phòng. Sau đó, sắc lệnh Berlin năm 2005 dưới thời Bộ trưởng Peter Struck đã củng cố vị trí này, biến Tổng Thanh tra thành nhân vật quân sự cao cấp nhất trong hệ thống quốc phòng liên bang, tuy người này vẫn nằm dưới sự lãnh đạo của Bộ trưởng và Quốc vụ khanh. Tổng Thanh tra được giao nhiệm vụ lập kế hoạch tác chiến, điều phối các nguồn lực và năng lực tác chiến của toàn bộ Bundeswehr, đồng thời làm đại diện quân sự của Đức trong các hội đồng quốc tế. Tuy các thanh tra trưởng từng binh chủng vẫn là cấp chỉ huy của đơn vị mình, quyền hoạch định và định hướng về việc huấn luyện, giáo dục chính trị, và chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu đều tập trung về tay Tổng Thanh tra. Fü S được tổ chức thành 7 cục tham mưu (Stabsabteilung) với tổng cộng 42 phòng với các chức năng nội vụ , tình báo , quân cảnh , tác chiến chiến dịch , logistic , lập kế hoạch và tổ chức lực lượng . Ngoài Fü S thì Tổng Thanh tra còn được hỗ trợ bởi Hội đồng Chỉ huy Quân sự ( Militärische Führungsrat ) gồm các thanh tra chuyên về các vấn đề quan trọng (không nói rõ là vấn đề gì nhưng cơ quan này chỉ đóng vai trò cố vấn chứ không có quyền đưa ra quyết định) , Hội đồng Triển khai (Einsatzrat) chuyên về các vấn đề triển khai lực lượng , Hội đồng Vũ trang (Rüstungsrat) chuyên về các vấn đề trang thiết bị .
Sắc lệnh Dresden năm 2012 tiếp tục tăng cường quyền lực cho Tổng Thanh tra, đưa ông lên ngang tầm với các Tổng tham mưu trưởng NATO khác. Theo sắc lệnh này thì toàn bộ các nội dung trong Sắc lệnh Blankesee 1970 và Sắc lệnh Berlin 2005 bị loại bỏ . Theo sắc lệnh mới thì quyền chỉ huy về mọi vấn đề của Bundeswehr vào thời bình sẽ được giao cho Tổng Thanh tra , cùng với đó thì Tổng Thanh tra sẽ là chủ tịch của Hội đồng Chỉ huy Quân sự . Theo Hiến pháp , vào thời bình thì Tổng Thanh tra là người có quyền chỉ huy cao nhất của Bundeswehr , còn vào thời chiến thì quyền này sẽ thuộc về Thủ tướng Liên bang . Tổng Thanh tra Bundeswehr chịu trách nhiệm toàn diện cho việc lập kế hoạch, chuẩn bị, chỉ huy và đánh giá hậu kỳ các chiến dịch quân sự viễn chinh của Bundeswehr. Ông thực thi quyền chỉ huy thông qua Cục Chiến lược và Tác chiến (Abteilung ''Strategie und Einsatz'') thuộc Bộ Quốc phòng và thông qua Bộ Tư lệnh Chiến dịch Bundeswehr (Einsatzführungskommando der Bundeswehr - EinsFüKdoBw). Tuy nhiên vì lí do nhạy cảm lịch sử nên công việc chỉ huy các chiến dịch ở quê nhà vẫn thuộc về Bộ trưởng Quốc phòng .
Chiến tranh Nga–Ukraine năm 2022 dẫn đến việc thành lập Bộ Chỉ huy Lãnh thổ Bundeswehr (Territoriales Führungskommando der Bundeswehr - TerrFüKdoBw) . Cơ quan này được đặt dưới quyền của Bộ trưởng Quốc Phòng .
Cuối cùng, sắc lệnh Osnabrück được kí vào ngày 4 tháng 4 năm 2024 đã đưa quyền chỉ đạo việc lập kế hoạch và chỉ huy các chiến dịch cả trong và ngoài nước vào tay của Tổng Thanh tra nhằm tăng tốc độ ra quyết định, giảm thiểu giao thoa tổ chức, và tích hợp quy hoạch – chỉ huy – điều hành trong một cơ quan thống nhất mới dưới quyền Tổng Thanh tra với tên gọi Bộ Tư lệnh Chiến dịch Bundeswehr ( Operatives Führungskommando der Bundeswehr - OpFüKdoBw ). Cơ quan này chính thức hoạt động vào ngày 1 tháng 10 năm 2024 , bằng cách hợp nhất EinsFüKdoBw và TerrFüKdoBw .
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét